Saturday, February 5, 2011

lê thị huệ=phỏng vấn Võ Văn Ái 1-2

LTS-Chúng tôi xin gởi đến quí vị tài liệu về Quá trình hoạt động việt gian của Võ Văn Ái , GHPGVNTN làm việt gian với sự tiếp tay của các ác thế lực quốc tế ẩn nấp dưới nhiều danh nghĩa "nhân đạo" "nhân quyền"

Tờ Quê Mẹ ở Pháp do ông tạo dựng cùng với tờ Người Việt Tự Do của sinh viên Ngô Chí Dũng ở Nhật là hai cánh cổng lớn mở đường cho biểu tượng trí thức Việt hải ngoại dấn thân từ năm 1975 đến nay. Giờ đã là những ngày tháng về muộn cuối năm 2009, Võ Văn Ái và Quê Mẹ vẫn là một trong những thủ lĩnh nòng cốt chỉ huy các đấu trường Nhân Quyền Quốc Tế cho người Việt Nam ở trong và ngòai nước. Thơ ông sâu thẳm, cô đọng, kiến trúc chữ cầu kỳ đẹp cấp cao. Gọi Thầm Giữa Paris của Thi Vũ là một tác phẩm độc đáo của một người Việt ăn dầm ở dề với Paris lâu và thơ văn thành phố qua trang chữ Việt. Ông có một số trước tác quan trọng như Nguyễn Trãi Sinh Thức Và Hành Động, Luận Chiến Nước Ngòai. Nhưng với tôi, con người trí thức và đời sống ông lôi cuốn hơn tác phẩm của ông. Ông thuộc tầng lớp trí thức ưu tú Miền Nam đi du học ở Âu Châu trước năm 1975, thời điểm Nam - Bắc Việt Nam bị cưa đôi bởi ý thức hệ Quốc Gia Cộng Sản. Ông khác với nhiều bậc trí thức Việt Nam cùng thời cùng đám, là ông đã chọn lựa cái vị thế cô đơn của một trí thức Việt xa nhà không thể xu thời theo trí thức Tả Tây Tả Mỹ, làm những điều gây nên những tội ác cho quê hương ông . Điều đó không có nghĩa là ông hòan tòan Hữu. Nhưng ông giữ được một cách thế Trí Thức Độc Lập mặc cho khuynh hướng trí thức thời đại Tây Tàu nổi mạnh và dẫn đường thế giới đến đâu. Ông gây cho tôi sự chú ý vì phong thái Trí Thức Độc Lập ấy. Điều mà lâu nay tôi thấy hơi yếu và đuội ở giới trí thức Việt Nam nổi tiếng. Ông làm cho thế hệ đàn em hải ngoại chúng tôi hãnh diện lớp đàn anh du học có những người như Thi Vũ Võ Văn Ái, một trí thức Việt thông thái đầy bản lĩnh dám làm một nhà lãnh đạo đấu tranh cho Nhân Quyền trên các chính trường Quốc Tế.

Ông có cái dáng vẻ trí thức lẻ loi, cả khi ông nhập vào đám đông để đấu tranh cho họ, đấu tranh cùng với họ. Thi Vũ Võ Văn Ái là một tác phẩm sống, mà một kẻ - có định mệnh bị xô đẩy đi lôi kéo tiểu thuyết về gia phả vào đời mình vào đời thường, chứ không phải là đem đời mình và đời thường thêu dệt nên tác phẩm tiểu thuyết như tôi - rất tò mò muốn khám phá về ông… Mãi đên khi hoàn tất bản phỏng vấn, tôi vẫn chưa bao giờ gặp mặt ông, chưa bao giờ nói chuyện điện thoại với ông. Cuộc phỏng vấn được được thực hiện qua điện thư . Mọi chuyện xảy ra đôi khi giống như là tôi đang được đối thoại với một … nhân vật rất tiểu thuyết. (lê thị huệ –tháng 11/2009)

1. Lê Thị Huệ: Chào nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, câu hỏi đầu tiên tôi muốn hỏi, là ông chọn làm một nhà tranh đấu hay hoàn cảnh đã đưa đẩy ông trở thành một nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật Giáo Việt Nam ?

Võ Văn Ái : Tranh đấu là phản ứng, không phải chọn lựa. Hai nghìn năm lịch sử con người Việt là chuỗi phản ứng trước nạn xâm lăng nước ngoài, trước những bất công, đàn áp đến từ vua chúa và các chế độ bất nhân bên trong. Tức ngoại xâm và nội xâm. Người ta bảo con trùn còn phải oằn khi bị giày xéo, thì con người làm gì khi bản thân, gia đình, xóm giềng bị bức hiếp ?

Tôi sinh ra dưới thời Pháp thuộc. Thân phụ tôi làm cho nhà giây thép Pháp, nhưng tinh thần ông chống Pháp gây ảnh hưởng sang tôi. Thế hệ chúng tôi không có thời thơ ấu vì mới chào đời đã tiếp cận nô lệ, loạn lạc, chiến tranh. Vừa mới biết nhìn đời đã gặp đệ nhị thế chiến, chiến xa Pháp tập trận, quân đội Nhật kéo vào Đông Dương.

Hình ảnh đánh động tâm tư tôi thời bé những năm 40 là chiến xa Pháp tập trận ủi vào cây vải nhà tôi ở Bến Ngự, Huế, tước một mảng vỏ bày ra thớ thịt cây vàng thẩm như máu ối. Tôi đã đau xót như cây.

Thời đó mẹ tôi thui thủi trong căn phòng hiu quạnh lúc cha tôi đi làm xa trên biên giới Việt Hoa. Mỗi năm một bận ông về thăm một hai ngày. Thỉnh thoảng bà ngâm thơ khe khẽ, tôi chỉ nhớ hai câu “Chồng hỡi chồng, con hỡi con… cùng nhau xa cách mấy năm tròn…”. Câu thơ đeo đuổi tôi rất lâu. Phải chăng đó là hồn thơ mẹ gieo vào lòng, khiến tôi chỉ muốn là người làm thơ trong đời này ? Lớn lên mới biết đó là thơ Thượng Tân Thị làm thay vợ vua Thành Thái khi chồng bị Tây đày sang Madagascar.

Tôi sinh ra trên dãy Hoàng Liên Sơn vùng biên giới Việt Hoa, về Hà Nội những năm đầu học vỡ lòng rồi theo cha mẹ vào Saigon, Nhatrang, Bình Định. Năm 5 tuổi mới về Huế ở Bến Ngự. Những bài học khai tâm là chữ Hán do một đệ tử cụ Phan Bội Châu dạy. Rất sớm tôi đã đọc Cụ Phan Bội Châu. Tiếng gọi giống nòi qua văn thơ Cụ Phan thâm nhập tôi những năm 9, 10 tuổi. Tất cả tiền mẹ cho ăn quà tôi dành mua các sách Cụ Phan tại tiệm sách ông bà Đào Duy Anh ở Huế. Thưở ấy, khi đưa đẩy tao nôi ru em thay mẹ, tôi hát thơ cụ Phan - Á Tế Á, Sống, Bài ca chúc Tết thanh niên, Ái quốc ca, Ai cáo Nam Kỳ…

Hết làm cho Pháp, thân phụ tôi mở căn hàng xén ở Huế. Giữa thập niên 40, tôi chứng kiến hai kỷ niệm khắc sâu. Lần đầu là tên Tàu phù (quân Tàu vàng sang giải giới quân Nhật), lần sau là tên lính Pháp. Cả hai lần bọn chúng cướp giật hàng khi ngã giá. Chúng đánh cha tôi khi ông phản ứng. Còn quá nhỏ để làm được gì, tôi uất hận, đau đớn và tự nhủ lòng phải làm gì để bọn ngoại nhân không còn quyền đánh đập dân Việt.

Sau đó tôi đi theo kháng chiến. Năm 13 tuổi bị bắt và vào tù. Nhờ thân phụ tôi có người bạn học thưở nhỏ làm sĩ quan trong quân đội Pháp, nên ông được phép vào nhà lao thăm tôi. Nhân dịp tôi xin cha tôi mang vào những bộ kinh Phật. Tôi đọc hết các bộ kinh Phật trọng yếu vào thời gian bé bỏng ấy, như các bộ Pháp Hoa (Saddharmapundarikasūtra), Kim Cang (Vajracchedikā-prajñāpāramitāsūtra), v.v… Tôi chấn động với hình ảnh Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Quán Thế Âm.

Kỷ niệm chưa phai trong tôi thời ấy khi chứng kiến ở phòng tra tấn. Tên chủ sự ngồi bàn giữa quan sát ba thuộc cấp hỏi cung. Hắn bắt một văn công ngồi cạnh hát những bài ca kháng chiến, trong khi ba tên kia vừa hỏi cung vừa tra tấn tù nhân. Trong số này có một chị nữ và một mẹ già. Tinh thần kháng chiến tự dưng bốc cao trong tôi. Làm sao quên những tiếng thét, tiếng khóc trộn lẫn vào giọng ca khi bi hùng, khi tình tự của anh văn công bị bắt. Tôi không hiểu vì sao anh có thể điềm nhiên hát, tên chủ sự có thể điềm nhiên nghe giữa tiếng khóc gào, lăn lộn ? Một cảnh trạng kỳ lạ mà não nùng. Tôi lập tâm phải cứu những người tù ra khỏi ngục.

Từ đó trở về sau, cuộc đời tôi đi vào đấu tranh như con cá giữa dòng nước.

Ảnh chụp thời ra khỏi nhà tù cuối thập niên 40

Bồ tát là người giác ngộ, đạt quả vị Phật, nhưng tự ý cư trú cõi trần gian bi lụy, phát nguyện sống đạo giữa đời thường để cứu độ con người. Bồ tát Địa Tạng phát nguyện bao lâu còn một chúng sinh trong địa ngục, ngài thề chưa thành Phật. Địa ngục đâu phải ở cõi âm ? Những Gulag nơi hoang mạc Siberia, trại Lao cải ở Trung quốc, trại Cải tạo ở Việt Nam, trại Tập trung thời Đức quốc xã… không là địa ngục ư ? Chiến tranh không là địa ngục ư ?

Địa ngục tiếng Phạn là Nakura, có nghĩa là nơi chịu khổ, loài chịu khổ. Địa ngục Phật giáo khác địa ngục trần gian ở chỗ do thân thể nhỏ yếu, tinh thần lung lạc lúc phải chịu đựng quả báo do mình gây ra nhân ác mà khổ. Thập điện Diêm phương ta thấy sau hậu liêu các chùa chỉ là lời cảnh báo những ai ngoan cố, gây nhân ác, làm hại người để họ biết sợ mà hối cải. Trái lại, địa ngục trần gian có người cai quản - quản giáo, có người giam nhốt, có người hành phạt, có người tra tấn, giết chóc.

Bồ tát Quán Thế Âm là người lắng nghe tiếng khổ đau nơi thế gian và hiện tới cứu độ. Không trong hình thái thần linh, thiên thần đầy phép lạ và quyền uy, mà ngài hiện thân qua 30 hình thái tượng trưng các giới người trong xã hội để cứu cấp. Nếu người kêu cầu là một phụ nữ, ngài hiện thân ra phụ nữ đến cứu. Nếu người kêu cứu là một vị tướng, một người ngoại đạo, một trong các giai cấp xã hội, một trong các loài trong vũ trụ vô biên… thì ngài liền hóa thân thành thân phận kẻ bị khổ nhục, tội đồ, nạn nhân để cứu cấp. Là người đồng cảnh mới cứu độ kẻ đồng cảnh.

Phật tử là người mang hạnh nguyện quán thế âm - lắng nghe tiếng thế gian cầu cứu mà hiện đến giải vây, giải phóng con người.

Có lẽ những năm trẻ tuổi trong tù, tôi được khai thị về giáo lý Vô Ngã của đạo Phật dưới đáy sâu lòng mình vào lúc nào không hay, làm nên sợi chỉ đỏ của tâm hồn cho những cuộc dấn thân không ngừng nghỉ về sau. Cứ tự bảo hết kháng chiến, hết chiến tranh, hết cộng sản giày xéo dân lành… mình về lại cuộc đời làm thơ, viết văn, nghiên cứu. Nhưng có gì hết đâu như thân phận trần gian khổ lụy trên dải đất hình chữ S kéo dài từng nghìn năm.

Nghĩa đen vô ngã (anātman) là không ta, không có cái ta. Nhưng nội hàm mang nghĩa tương sinh tương duyên. Trong vũ trụ chẳng có chi tồn tại biệt lập và bất biến, mọi sự mọi vật đều do tổ hợp của nhiều yếu tố duyên ra. Cây lúa kia không thuần túy là một cây lúa biệt lập, tự tại, miên viễn. Cây lúa là một quá trình tương hợp của hạt giống là nhân, cộng với cái duyên của đất, nước, mặt trời, phân bón và sức nông dân lao động để thành quả lúa. Tất cả những yếu tố ấy duyên khởi ra cây lúa. Thiếu bất cứ yếu tố nào, lúa không thành lúa. Đây là hàm nghĩa của vô ngã. Phân tích về con người cũng vậy.

Vô ngã, là lý nhân duyên sinh trong không gian; và Vô thường (anitya) là lý nhân duyên sinh trong thời gian. Từ ý thức nhân duyên sinh, tôi không là cái ta biệt lập mà tương sinh tương dự với người khác. Cho nên sự khổ đau của người khác, người khác bị áp bức cũng là sự khổ đau, áp bức cho bản thân tôi. Tinh hoa của đạo Phật là ở lý duyên khởi hay duyên sinh này, làm cho đạo Phật khác với tất cả mọi hệ thống suy tưởng của các tôn giáo khác. Tự thân của sinh thức này là sự giải phóng và tự do tối hậu cho con người trần lụy và mọi loài trong tam thiên đại thiên thế giới (1) tức vũ trụ.

Một ngày nọ Bồ tát Văn Thù (Mañjurī) đến thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakīrti). Hỏi ông bệnh gì ? Cư sĩ Duy Ma Cật đáp : Chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Thuật ngữ Phật giáo của từ chúng sinh bao hàm tất cả các loài hữu tình, chứ không trỏ riêng loài người. Tất cả những chi kết hợp thành sự sống gọi là chúng sinh (chúng duyên nhi sinh). Bệnh của Bồ tát tương lân với bệnh chúng sinh. Nên Bồ tát ra công cứu độ chúng sinh.

Trong bản kinh Phật Việt Nam đầu tiên, Lục độ tập kinh, xuất hiện ở Giao châu vào thế kỷ thứ III Tây lịch, có một câu ứng cho câu hỏi về tác phong Phật giáo của chị: “Bồ tát thấy dân kêu ca liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than”. Đạo Phật Việt Nam ở thế kỷ thứ III đã là như thế.

2. Lê Thị Huệ: Nếu nói thành tích của Võ Văn Ái là một trong vài nhà tranh đấu nhân quyền có tầm vóc quốc tế, giữ được ngọn lửa đấu tranh cho Việt Nam từ 1975 cho đến nay ? Ông nghĩ thế nào ?

Tham dự sinh hoạt quốc tế lần đầu tại Đại hội Thanh niên Thế giới
(Die I. Internationale Jugendtagung der Fraternitas) ở Bodensee bên Đức năm 1958

Võ Văn Ái : Tôi bắt đầu sinh hoạt thế giới khi tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên năm 1958 ở Bodensee bên Đức (Die Erste Internationale Jugendtagung der Fraternitas – Für Eine Brüderliche Welt) bao gồm đại biểu các nước Á châu, Phi châu và Châu Âu. Sau này do tôi hoạt động sớm cho Việt Nam ở Tây phương từ năm 1963 với nhiều dự án có tính quốc tế, rồi có mặt trong tư thế phát biểu thường niên cho nhân quyền Việt Nam tại Ủy hội Nhân quyền LHQ từ năm 1985. Đặc biệt qua các cuộc vận động quốc tế, tôi có dịp tiếp cận giới nhà văn, học giả, nhân sĩ có danh trong thế giới, nên được truyền thông báo chí quốc tế nhắc nhở. Kỳ thực có hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu người Việt giữ lửa đấu tranh cho Việt Nam suốt thế kỷ XX vừa qua. Nhưng ít được nhắc nên không ai biết. Tôi chỉ là một người Việt trong số trăm, nghìn, triệu người Việt vô danh khác đã đứng lên trong bóng tối chống thực dân, chống độc tài, và đòi hỏi Quyền làm Người Việt Nam.

Bản đồ địa lý Trại Cải tạo trên toàn quốc Việt Nam (trên 150 trại) với số lượng 500.000 tù nhân chính trị, do Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam công bố tại cuộc họp báo “Bắc hoá chế độ tù ngục tại Miền Nam Việt Nam” (La Nordmalisation des Prisons au Sud Vietnam) tại Paris ngày 29.5.1978. Cuộc họp báo chính trị đầu tiên sau năm 1975 thu hút 60 ký giả truyền hình, truyền thanh và báo chí quốc tế. Kể từ ngày này, công luận thế giới bỏ rơi Cộng sản Hà Nội để ủng hộ cho người Việt dân tộc.

3. Lê Thị Huệ: Là một phật tử trí thức tích cực dấn thân, theo ông đâu là ưu và khuyết điểm của Phật Giáo Việt Nam ?

Võ Văn Ái : Cái ưu của Phật giáo Việt Nam là con đường tuhành theo Đại thừa giáo còn gọi Bắc tông (Mahāyāna) được phát triển rất đặc thù và có sáng tạo theo hướng dân tộc bản địa từ trung tâm Luy Lâu trước và sau các thế kỷ bản lề Tây lịch.

Tu thì thực hiện sự giác ngộ cho bản thân, đồng lúc cưu mang giác ngộ cho kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Hành động thì không rời việc cứu khổ quần sinh trên mặt đất. Cần thâm nhập chữ khổ (duhkha) theo giáo lý đạo Phật. Khổ đây không là cái khổ thể xác của con lừa suốt ngày đi quay vòng theo cối xay hay người thợ lao lực nơi công xưởng, mà là không biết đến hệ lụy của vòng tròn miên viễn cột dính mình vào thế phận trầm luân. Cái không biết ấy gọi là vô minh (avidyā). Vô minh mới chính là mối khổ ách của nhân sinh. Quán sát nhân duyên con người, đức Phật dạy 12 nhân duyên phát khởi ra luân hồi như một dây chuyền liên tục từ khâu này sang khâu khác (thập nhị nhân duyên : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử), thì vô minh (mê muội, không sáng suốt) là điểm khởi phát cho mọi trầm luân, hệ lụy. Đối với ngoại cảnh, vì vô minh nên không chân nhận được thực tướng vô ngã, vô thường của sự vật. Đối với nội tâm, vì vô minh nên quay cuồng theo sự phân biệt, vong thức. Giải quyết được vô minh là giải quyết tất cả.

Nói về vô minh của loài người hôm nay đây, vào năm 2009, thì phát kiến khoa học được bao trùm đến chân tơ kẽ tóc, nhưng đứng trước vũ trụ vô biên, khoa học vẫn còn ở vị thế vô minh. Chúng ta, tức khoa học, chỉ mới nắm vững trên phạm vi kiến thức 10% vật chất trong vũ trụ mà thôi. 90% cái gọi là “Vật Đen” (Dark matter/Matière noire) hùng cứ trong vũ trụ mà các nhà khoa học mới có khái niệm vào những năm 30 thế kỷ XX. Vật Đen vẫn còn là dấu hỏi lớn, vẫn còn trong dạng vô hình, chưa nắm bắt, hiểu biết. Vũ trụ còn che giấu 90% khối lượng nguyên tử của nó, nên chúng ta còn vô minh về 90% khối lượng (vật đen) hiện hữu. Kiến thức nhân loại về vũ trụ chỉ mới đạt ở mức độ 10% mà thôi. Dễ sợ cho những ai dương dương tự đắc về sự hiểu biết hay thông tuệ của mình.

Từ điểm ưu Phật giáo nói trên mà Việt Nam đào luyện ra những con người biết đối ứng với cuộc thế một cách sáng tạo và hùng tráng, như Sư bà Thiều Hoa (một bà Ni, tức nữ tu sĩ) năm 36 Tây lịch mộ 500 quân đến ứng chiến với Hai Bà Trưng, rồi tới những Phật tử tham gia 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Phật tử Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), các đạo sư, thiền sư, cư sĩ Phật tử như Đinh Bộ Lĩnh, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trải, v.v… qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê trong việc dựng nước, giữ nước và cứu người.

Một ưu điểm hiếm thấy so với các quốc gia Phật giáo Á châu khác, là vai trò nổi bật của người Cư sĩ Phật giáo trên hai lĩnh vực đạo và đời. Cư sĩ là các nam, nữ Phật tử tu tại gia. Đức Phật Thích Ca xây dựng Cộng đoàn Phật giáo trên bốn tập thể (tứ chúng) : Tăng (nam tu sĩ), Ni (nữ tu sĩ), nam Cư sĩ tu tại gia và nữ Cư sĩ tu tại gia. Nhìn vào các phổ hệ thiền tại Việt Nam sẽ thấy điểm nổi bật ấy. Thường các phổ hệ thiền của các môn phái Phật giáo chỉ thấy tên tuổi đắc pháp của các bậc thiền sư, tức tăng sĩ (các vị xuất gia). Nhưng tại Việt Nam, xuất hiện nhiều Cư sĩ đắc pháp trong các phổ hệ thiền.

Vì pháp lý bình đẳng (chữ Phạn là sama) trong giới người theo đạo Phật bị sa sút, nên ngày nay mới có hiện tượng Tăng sĩ xem Cư sĩ như người sai vặt, kẻ thủ từ, người mang lại két tiền cho các chùa. Chứ xưa kia, Cư sĩ không như thế. Vai trò Cư sĩ ở thời đại lập quốc Việt Nam vừa đảm nhiệm vai trò Hộ Pháp (bảo vệ giáo lý giác ngộ), còn hoàn tất cự phách việc Hộ Dân (cứu dân) và Hộ Quốc (bảo vệ nước). Cư sĩ xông vào thế sự - chứ không là thế tục - giải quyết việc thế giới. Chất thế lấn át chất tục trong con người Cư sĩ Phật giáo.

Dòng thiền Pháp Vân của ngài Tì Ni Đa Lưu Chi kéo dài từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII gồm toàn các tăng sĩ đắc pháp (nắm bắt chân lý giác ngộ của đạo Phật). Sang đến dòng thiền Kiến Sơ của ngài Vô Ngôn Thông, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII, thì 13% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ (người tu tại gia). Dòng thiền Thảo Đường từ thế kỷ XI đến một thế kỷ rưởi sau có 50% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ. Sau đấy một dòng thiền đặc thù và tổng hợp của Phật giáo Việt Nam là dòng thiền Trúc Lâm Yên tử, đỉnh cao của giới Cư sĩ tham dự trong đời sống giác ngộ đạo cũng như hoàn mãn việc thế sự, được biết dưới chủ trương Cư trần lạc đạo - sống tại thế nhằm thể hiện đạo - đúng theo phong thái của Phật giáo đại thừa “Phật giáo không lìa thế gian để hoàn thành sự giác ngộ” (Phật giáo bất ly thế gian giác). Điều này có nghĩa là tất cả các pháp (sự lý trong đời) đều là Phật Pháp. Một đạo Phật như thế hẳn nhiên là sự chung dự thiết tha và thiết yếu với đời sống con người trên mặt đất. Tôi quan niệm và tin tưởng một đạo Phật như thế.

Vua Trần Nhân Tông hai lần cầm quân chống Nguyên Mông và đại thắng, là một Cư sĩ Phật giáo. Sau trở thành Thiền tổ của dòng Thiền Trúc Lâm. Trần Hưng Đạo là một cư sĩ, Tuệ Trung thượng sĩ là một thiền sư nhưng vẫn cầm quân giữ nước chống Nguyên Mông, xong việc nước mới trở về chùa viện. Sự tham dự của người Cư sĩ Phật giáo vào các lĩnh vực chính trị, văn hóa, ngoại giao, kinh bang tế thế rất phổ biến và đặc thù trong quá trình dựng nước, giữ nước, cứu người, từ cuộc kháng chiến vệ quốc của Hai Bà Trưng tiếp đến các triều đại lâu sau.

Điểm khuyết của Phật giáo Việt Nam ở thời hiện đại, là người học đạo thì nhiều, nhưng người chứng đạo không bao lăm. Người thuyết pháp nhiều, nhưng người thể hiện giáo lý đạo Phật vào cuộc đời hằng nhật quá hiếm hoi. Nói tóm, tu đạo thì có, hóa đạo còn sơ sài.

Đặc biệt là sự vắng bóng của giới Cư sĩ Phật giáo trên chính trường nước Việt. Một thiệt thòi cơ bản cho sự phát triển Việt Nam.

Đương nhiên giới Cư sĩ Phật giáo rất đông. Song họ chuyên tu đạo Phật hơn hành động Phật giáo. Đến khi hành động họ tham gia các phong trào phi Phật giáo hoặc phản Phật giáo, thay vì gia công hình thành con đường hành động mới, dựa trên lòng từ bi và trí tuệ. Năm 1963 cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng thành công, là cơ hội bằng vàng cho Phật giáo trở thành giải pháp mới đem lại tự do, bình đẳng, công lý trước ý thức hệ thảm sát của Cộng sản. Nhưng giới lãnh đạo Phật giáo đã đánh mất cơ hội này. Từ năm 1966 trở đi cuộc phân hóa trong cộng đồng Phật giáo trở nên trầm trọng cho tới hôm nay, 2009. Khởi từ sự phân hóa trong giới Tăng lữ lãnh đạo nên mất trí tuệ điều hành cuộc chống trả các thế lực áp đảo bên ngoài nhằm mở ra viễn kiến dân tộc và nhân loại.

Do thiếu kiến thức về thế giới, mắc cạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nên một số lãnh đạo Phật giáo không có giải pháp thời thế, bị các thế lực đảng phái khuynh loát, là những nguyên nhân phân hóa giới lãnh đạo Phật giáo làm cho khối lượng quần chúng vạm vỡ Phật giáo không phát triển và tê liệt theo.

Tôi có cảm tưởng ngày nay đa số người tu đạo Phật phục vụ cái chết nhiều hơn sự sống. Tiêu đích họ nhắm là xin chiếu khán vào Niết Bàn, chứ không truyền thừa con đường cứu khổ - trừ diệt vô minh - của đạo Phật, đặc biệt là sinh thức “Cư trần lạc đạo” của nền Phật giáo dân tộc. Mặt khác do quan điểm thời gian vô hạn, sống nhiều kiếp, nên quán tính lần lữa, trì hoãn, bó tay không cho họ giải quyết việc đời : Kiếp này không thực hiện được thì chờ kiếp sau, kiếp này không lấy nhau được thì hẹn kiếp lai sinh… đại khái như thế. Trong khi người phương Tây chỉ có tối đa 100 năm để sống, nên họ thu xếp thực hiện mọi sự cho kỳ được nơi cõi trăm năm.

Do có thời gian mênh mông của nhiều kiếp nên trong giới Phật tử còn ít người chú tâm gầy dựng cảnh nhân gian tịnh độ trên trái đất và trước hiện tiền. Họ quên bẵng một cõi Nhân gian tịnh độ có thể thiết lập trên mặt đất. Họ khoán trắng cõi Tịnh độ cho đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây phương Cực lạc. Khí thế Phật giáo Lý – Trần chỉ được nhắc nhở, đề cao nhằm thoa vuốt mối tự hào hão, nhưng không được hồi sinh, tái tạo trong Ý thức Dung hóa với xu thế toàn cầu và những tiến bộ ngất trời của nhân loại.

Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, tôi chỉ thấy một Cư sĩ Phật giáo gương mẫu có ý thức và có hành động thiết lập cõi Nhân gian tịnh độ là Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Văn Kha ở đất Thăng long. Nhưng ông đã bị Việt Minh bức tử trong phong trào Cải Cách Ruộng đất.

Nhân tổ chức phòng triển lãm tranh tại Paris năm 1967, Henry Miller từ Hoa Kỳ đến thăm tôi, mang một tấm tranh tặng cháu Ái Anh, cháu gái đầu lòng mới sinh. Anh là cha đỡ đầu cho cháu. Henry Miller nói một câu làm tôi giật mình và suy gẫm nhiều năm sau : “Ba nghìn năm qua có ai thành Phật sau đức Thích Ca không ?”.

4. Lê Thị Huệ: Ông có thể cho biết những đóng góp nổi bật nào của văn hoá Phật Giáo vào trong văn hóa Việt Nam từ trước đến nay ?

Võ Văn Ái : Trong nền văn hóa chủ lưu dân tộc, sắc thái văn hóa Phật giáo rất đậm nét. Nhìn vào kho tàng ca dao, tục ngữ, là mức suy tưởng bộc trực của quần chúng mà ta có thể gọi như nền triết lý đối ứng chưa hệ thống thành triết học, cho đến các tác phẩm bác học đủ minh chứng cho nhận định này. Tâm thức cũng như hành hoạt con người Việt gắn kết với định luật nhân quả (ác giả ác báo) và lòng thương người (lòng từ, thuật ngữ Phật giáo gọi lòng từ bi - kāruna - mang nghĩa từ là cho vui, bi là cứu khổ). Hiển nhiên nước nào lại không công nhận hay đề cao lòng thương người, lòng bác ái, vậy Việt Nam có gì ngoại lệ ? Thế nhưng, thể hiện lòng thương theo đạo lý nhị nguyên, hay lòng thương là vật tự thân của nguyên lý bất nhị, khác nhau lắm trong tiến trình tư tưởng và hành động. Một bên có chủ đích, một bên bất vụ lợi. Câu nói bình dân “thương người như thể thương thân” đại biểu cho ý thức Phật giáo thấm vào lòng ý thức dân tộc. Qua câu này giáo lý Vô ngã, tức giáo lý duyên khởi, duyên sinh cơ bản của Phật giáo được thể hiện một cách tự nhiên và đầm ấm, chứ không là khẩu hiệu hô hoán hay động viên.

Tuy nhiên cần cảnh giác lý nhân quả để đừng biến nó thành chủ nghĩa định mệnh. Nhân nào quả ấy, ai gây nhân kẻ ấy gặt quả, là đúng. Nhưng một số Phật tử thụ động ngồi chờ cái sự “ác giả ác báo” ấy như một thứ Phán xét cuối cùng (Jugement dernier), mà chẳng ra tay ngăn cản những nhân ác hoành hành. Trên kia tôi nó nhắc biểu tượng cây lúa. Hạt lúa là nhân, cây lúa là quả. Nhưng để cho nhân hình thành ra quả cần thêm những duyên. Duyên tuy phụ nhưng không có sẽ không thành quả. Duyên đây là đất, nước, gió thuận, mưa hòa, phân bón và sức lao động người nông dân. Không có các duyên này, cây lúa không thành. Cũng thế, nhân tốt là tình yêu, nhưng không có duyên bảo vệ, chia sẻ thì quả hạnh phúc vợ chồng khó hiện hữu. Cho nên có nhân có quả còn phải có duyên lành, mà ta cần nhấn mạnh như NHÂN DUYÊN QUẢ để không rơi vào thái độ yếm thế biến NHÂN QUẢ thành chủ nghĩa định mệnh, chờ thời.

Nhân Cộng sản xấu ác đưa tới Quả địa ngục cho Việt Nam. Hẳn phải như thế, khi không có sự chung dự của những biệt nghiệp lành (karma individuel, nghiệp của từng cá nhân) của những cá thể nhằm chuyển hóa cộng nghiệp xấu ác (karma collectif, nghiệp của tập thể, cộng đồng). Vì vậy, Quả tự do cho một nước Việt Nam vẫn có thể thực hữu nếu duyên dấn thân của Người Việt can dự để chuyển Nhân xấu ác Cộng sản thành Quả tự do, dân chủ cho đất nước. Luật Nhân quả cần một khoảng thời gian chuyển biến như một tiến trình. Tiến trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào duyên can dự. Phật giáo còn quan niệm một Nhân-Quả-đồng-thời, đủ biết khả năng thiên hình vạn trạng mà ý chí con người có thể tham dự để biến khổ đau thành hạnh phúc, nô lệ thành tự do.

Văn hóa Phật giáo là Văn hóa Giác ngộ và Cứu khổ, tiền đề cho Ý thức Sáng tạo trong đời sống và Ý thức Cấp cứu khi nguy biến. Lịch sử dân tộc là một chuỗi dài tham dự cứu nguy của toàn thể quần chúng các giới nhờ thấm nhuần tư tưởng đạo Phật trên ba nguyên lý từ bi (kāruna), trí tuệ (prajñā), bình đẳng (sama). Pháp bình đẳng rất chủ yếu trong đạo Phật. Từ nhận thức chúng sinh đều có tính Phật (Phật tính) nên mọi người đều đồng đẳng, không phân biệt cao thấp, oán thân, giai cấp. Do pháp bình đẳng, lúc sinh thời Đức Phật Thích Ca đã phủ nhận chế độ giai cấp (tứ tính bình đẳng) ở Ấn độ. Trong kinh sách Phật giáo còn phát triển pháp lý bình đẳng từ xã hội lên đến lĩnh vực tư tưởng và tâm linh, như Chân như bình đẳng, Trí bình đẳng, Bình đẳng pháp thân, Bình đẳng đại bi, Bình đẳng đại tuệ, v.v… Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsakasūtra) nêu ra mười thứ bình đẳng : 1. Hết thảy chúng sinh bình đẳng ; 2. Hết thảy pháp bình đẳng ; 3. Hết thảy cõi nước bình đẳng ; 4. Hết thảy tâm sâu xa bình đẳng ; 5. Hết thảy thiện căn bình đẳng ; 6. Hết thảy Bồ tát bình đẳng ; 7. Hết thảy nguyện bình đẳng ; 8. Hết thảy Ba la mật bình đẳng ; 9. Hết thảy hạnh bình đẳng ; 10. Hết thảy Phật bình đẳng.

Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam thuộc Cơ sở Quê Mẹ đã vận động thành công dư luận quốc tế chận đứng việc Hà Nội lợi dụng sự viên tịch của Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu biến thành tang lễ tuyên truyền cho nhà nước Cộng sản tại chùa Linh Mụ Huế tháng 5.1992. Một năm sau, ngày 24.5.1993, bốn mươi nghìn (40.000) Phât tử Huế xuống đường biểu tình đòi hỏi cho tự do tôn giáo và nhân quyền. Cuộc biểu tình cho mục tiêu Nhân quyền lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản Việt Nam.

5. Lê Thị Huệ: Ông là người có các quan hệ về công việc với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam như thiền sư Nhất Hạnh, Hoà thượng Quảng Độ, ông có thể cho biết nhận định của ông về hai vị tu sĩ Phật Giáo này ?

Võ Văn Ái : Hai vị cùng xuất phát từ môi trường tu học Phật giáo. Nhưng động lực xã hội thì lại khác. Động lực của Sư Ông Nhất Hạnh có tính cách cá nhân, Phật pháp chỉ là phương tiện phục vụ danh và lợi cá nhân. Động lực của Hòa thượng Quảng Độ bao trùm tính dân tộc và tính nhân loại, Phật pháp là động cơ thăng hoa nhân sinh. Vô tình tên đạo của Hòa thượng lại thể hiện cuộc sống 80 năm qua của ngài như kinh viết : “Quảng độ chúng sinh mãn bồ đề nguyện” - Độ khắp tất cả chúng sinh để thành tựu viên mãn đại nguyện bồ đề (bồ đề là giác ngộ)

6. Lê Thị Huệ: Ông nghĩ gì về vai trò Phật Giáo trong cuộc đảo chính 1.11.1963

Võ Văn Ái : Vai trò Phật giáo hướng dẫn con đường dân tộc vượt thoát luồng tư tưởng nhị nguyên Tây phương nổ ra qua cuộc tranh chấp ý thức hệ phân đôi thế giới giữa Cộng sản và Tư bản.

Giới tướng lãnh quân nhân làm cuộc đảo chính 1.11.1063 theo chỉ thị của Hoa Kỳ để thực hiện chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Đáng tiếc vai trò Phật giáo tuy thành công trên phương diện tín ngưỡng, nhưng thất bại trên phương diện xã hội. Một phần vì giới trí thức Phật giáo không được chuẩn bị, phần khác lực lượng quần chúng Phật giáo không được tổ chức để đối ứng với tình hình thế sự. Nên đã bị các thế lực chính trị khuynh loát.

7. Lê Thị Huệ: Theo ông thì cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam còn cần những yếu tố nào để đưa đến thành công ?

Võ Văn Ái : Cần hai yếu tố : Yếu tố Cư sĩ và Yếu tố Quốc tế. Cần liên kết khối Phật giáo tại Á châu và trên thế giới thành lực lượng Hòa bình. Nếu ta mường tượng lại những năm đầu thế kỷ XX và so với ngày nay thì Phật giáo đã phát triển mạnh và phổ biến tại các nước Âu Mỹ như một giải pháp tương lai chận đứng cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng ngày nay ở phương Tây. Công lao ngài Thái Hư Đại sư, người Trung quốc, mở ra những Hội Học Phật Âu Mỹ đầu thế kỷ XX, rồi tiếp đến ba bộ Essays in Zen Buddhism /Thiền luận của ngài Linh Mộc Đại Chuyết (Daisetz Teitaro Suzuki), người Nhật bản, khai thị tri thức Tây phương. Đó là nói phía Á châu. Còn phải kể công đầu của rất nhiều học giả phương Tây ưu tú trong công trình dịch thuật kinh Phật như Edward Conze, Étienne Lamotte, G. Tucci, v.v… So việc dịch thuật và thấm nhuần kinh sách Phật giáo của các học giả Âu Mỹ từ thế kỷ XIX trở đi, học giả người Việt kể cả một số vị Tăng sĩ có học còn ngắn hơi, sơ sài, chẳng thấm vào đâu.

Trên đây là phương diện học thuật, tư tưởng. Nay cần kết tinh qua hành động như một lực lượng Hòa bình thế giới trước nạn độc tài, quân phiệt và khủng bố. Pháp môn Cư sĩ của Phật giáo Việt Nam rất có tương lai, trên mặt hành động chính trị, văn hóa, xã hội, tại các quốc gia Âu Mỹ, nếu được giới thiệu và phát huy. Cho tới nay tại phương Tây mới được phổ biến các Pháp môn Thiền và Nhật Liên tông (Sokagakai) đến từ Nhật Bản, và Phật giáo Tây Tạng.

Do giáo luật Phật chế, Tăng sĩ không được làm chính trị, không được tham gia thế sự. Hiện nay một số Tăng sĩ trong Giáo hội Nhà nước tham gia làm đại biểu Quốc hội cộng sản là họ đã phạm trọng giới chiếu theo giới luật Phật chế. Tăng sĩ chỉ lo việc truyền pháp và phát triển đời sống tâm linh cho tín đồ. Cho nên đối diện với thế sự chỉ còn giới Cư sĩ là những người tu tại gia, thế học cao, không bị gò bó, không bị ảnh hưởng giới luật cấm tham chính nên có khả năng chuyển vận giáo lý vào đời. Mặt khác, có chung đụng và đối diện với việc đời mới giải quyết cuộc nhân sinh trên bình diện xã hội. Cần nhớ Cư sĩ là trữ lượng cho Tăng sĩ, đồng thời cũng là trữ lượng cho những nhà chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân văn, bác học, khoa học. Cư sĩ là bánh xe chở Đạo, chớ coi thường như xưa nay.

Đem những thuyết giáo cao cả trong kinh sách làm “quốc văn giáo khoa thư” cho những giải pháp xã hội mà không biết khế cơ, khế lý, không có khả năng tham dự thì cũng ảo tưởng như chủ thuyết Cộng sản đại đồng trước bao khổ ách, bất công của nhân loại. Cho nên cần có sự phân công hợp tác giữa Tăng sĩ và Cư sĩ để giải quyết thế sự và nhân sinh. Giới Tăng sĩ ngày nay phải xem đây như Công án(2) để phát huy đạo Phật vào thời đại. Cần phân biệt thấu đáo hai vị trí, là Tăng sĩ như một vị thầy dạy đạo và hướng dẫn tâm linh tín đồ, và vị trí Tăng đoàn như một trong ba pháp bảo (Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng). Người ta hay hiểu lầm và đánh lộn sòng một vị Tăng / Tăng sĩ với tập thể Tăng là Tăng đoàn tức Tăng bảo trong Tam bảo. Mặt khác, cần hiểu yếu tính của Tam bảo(3) như tự tính bản lai, chứ không là những ngôi vị cá thể mà đông đảo Phật tử ngày nay ngộ nhận. Xu thế giáo dục Tăng sĩ, từ Ngũ minh(4) cho đến xu thế toàn cầu hiện đại, cũng như vai trò Tăng sĩ trong cộng đồng Phật giáo và cộng đồng thế giới cần khế hợp, chuyển hóa để thích nghi. Thích nghi mà hoằng đạo, chứ không phải thích nghi để biến tướng. Quan niệm thiển cận của chư Tăng đối với Cư sĩ lâu nay cũng phải thay đổi.

Năm mười thế kỷ trước do trình độ giáo dục và kiến thức của quần chúng Phật tử còn mông muội, nên Tăng sĩ vừa là thầy dạy đạo, còn là thầy học, thầy thuốc, cố vấn chỉ đạo trên mọi lĩnh vực của đời sống. Ngôi chùa thời Lý Trần là một trung tâm giáo dục, một đại học. Người cư sĩ thưở ấy cần một vị Thầy toàn diện, và thưở xa xưa ấy, ngoài nội điển (kinh sách Phật giáo), trình độ Ngũ minh của Tăng sĩ cũng rất cao. Ngày nay trình độ tiến hóa của khoa học và các bộ môn kiến thức xã hội, nhân văn tiến những bước hài nghìn dặm và thay thế vai trò Tăng sĩ trên các lĩnh vực này. Đời sống văn minh, dân chủ, hệ thống giáo dục, y khoa, ngôn ngữ đem lại những kiến thức rốt ráo cho đa số Cư sĩ. Họ không còn dốt như xưa. Vì vậy sự trông chờ của người cư sĩ ở một Tăng sĩ cũng đã khác lắm. Họ trông chờ ở người Tăng sĩ như một nhà bác học tâm linh, hơn là một ông thầy chỉ giỏi cúng kiến, xem xăm, chấm tử vi. Dân quê nước ta đầu thế kỷ XX tin và chỉ có phương thức chữa bệnh duy nhất là đốt bùa lấy tro hòa nước uống. Nhưng khi y học Pháp đem lại viên thuốc Quinine, rồi lâu sau Penicilline, thì tín ngưỡng đồng bóng bị đẩy lùi vào bóng tối quá khứ.

Chính trị là một khoa học, chứ không là mưu đồ. Chính trị tại nước ta 64 năm qua (1945-2009) còn quanh quẩn trong những mưu đồ; chưa được khoa học hóa để phục vụ xã hội con người. Sự vắng mặt của giới Cư sĩ Phật giáo trên ba lĩnh vực chính trị, văn hóa và xã hội là một trong những nguyên do gây pháp nạn cho Phật giáo nói riêng, và quốc nạn cho dân tộc nói chung.

Hiển nhiên người Cư sĩ Phật giáo có mặt khắp nơi, trong các hội đoàn, đảng phái, phía cộng sản cũng như phía quốc gia. Thế nhưng họ có mặt trong vai vế thừa sai. Chứ không ở vị trí chủ động của một nhà văn hóa chống chủ nghĩa ngu dân, một nhà chính trị phát huy chính sách khoan dung và hòa bình.

Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại Saigon ngày 11.6.1963 trong cuộc đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngọn Đuốc Sáng Phương Đông làm thức tỉnh lương tri nhân loại về yếu tính tự do của con người giữa thời đại thế giới phân tranh lưỡng cực.

8. Lê Thị Huệ: Ông phát biểu như thế nào về vai trò Phật giáo trong sinh mệnh của Việt Nam ? Phật giáo phải sửa đổi như thế nào để không sống làng nhàng, mà làm cho Việt Nam phát triển lên ?

Võ Văn Ái : Chị dùng chữ “sống làng nhàng” là khoan hồng đấy. Đúng với thực tại phải nói là “sống nhập nhằng” - ba phải. Chẳng những ba phảinghìn phải !

Trong hoàn cảnh lịch sử 2000 năm Việt Nam, sinh mệnh Phật giáo và sinh mệnh Việt Nam gắn liền nhau. Ở thời kỳ lập quốc, yếu tố Phật giáo đã hòa hài để hoàn chỉnh nền văn hiến Việt. Hiển nhiên còn hai yếu tố Khổng giáo và Lão giáo. Nhưng Khổng giáo hoạt động ở bộ máy nhà nước, lại đại biểu cho nền văn hóa nô dịch của Bắc phương nên có phần hạn chế trên mặt dân tộc. Lão giáo bị bỏ rơi khía cạnh triết lý hành xử, trở thành nhánh tu tiên, ưu tư thuật trường sinh, cuối cùng trở thành dạng hoạt động bùa phép, phù thủy. Mối ưu tư trường sinh qua việc luyện đan và tu dưỡng của Lão giáo chỉ tích cực ở mặt phát triển hóa học và y học cổ đại tuy còn thô sơ.

Mâu Tử, một nhà Nho người Hoa lánh nạn sang Giao châu vào cuối thế kỷ II Tây lịch rồi quy y theo đạo Phật ở Việt Nam, đã đánh giá đạo Phật trong cuốn Lý Hoặc Luận của ông như sau : “Bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem mà thờ cha mẹ, giúp nước có thể đem mà giáo hóa dân, sống một mình có thể đem mà trị thân”. Lý Hoặc Luận là bản luận văn của Mâu Tử đề cao con đường Phật Việt tại Giao châu, và chống lại nền văn hóa nô dịch Bắc phương, nơi ông sinh thành.

Ngoài việc hướng dẫn và phát triển đời sống tâm linh, đạo Phật Việt là tư tưởng chỉ đạo văn hóa chống các luồng ý thức hệ ngoại lai suy đồi hoặc phi nhân, và chỉ đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền và văn hóa dân tộc, bảo vệ tự do, no ấm và hạnh phúc cho nhân dân, mà sử sách còn lưu dấu qua tác động của Hai Bà Trưng (năm 40 TL.) ; 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (suốt thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), v.v... tạo tiền đề cho sự kiến lập huy hoàng nền móng quốc gia Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê.

Cách “sống làng nhàng” làm cho “Việt Nam không phát triển” như chị nói không đến riêng từ Phật giáo, mà còn đến từ bộ máy cầm quyền, từ các triều chính theo quan niệm Tống Nho, rồi hai chính quyền đến từ Tây phương, là thực dân Pháp và Cộng sản.

Đồng ý là dù muốn dù không, giới trí thức Cư sĩ Phật giáo cũng phải chịu trách nhiệm trong sự phát triển cách “sống làng nhàng” này. Vì giới Cư sĩ Phật giáo đã không sử dụng tối đa biệt nghiệp (karma của mỗi cá nhân) họ để giải vây cộng nghiệp (karma của tập thể, cộng đồng) quốc gia.

Đây là hậu quả cuộc khủng hoảng văn hóa trầm trọng của Việt Nam từ hơn ba thế kỷ. Nghĩa là từ cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn cho đến cuộc phân tranh Quốc Cộng. Sông Gianh hay sông Bến Hải vẫn là nhát kiếm vô hình cắt đôi tâm thức Việt.

Hệ lụy ngày nay của người Phật tử Việt là đánh mất truyền thống “tầm sư học đạo” của hành giả đông phương. Tầm sư học đạo mang ý nghĩa mở mang trí tuệ trong cuộc truy tìm kiến thức và chân lý do tự thân chọn lựa và điều hướng. Người học cần Thầy nên đi tìm thầy giúp họ giải phóng khỏi vô minh, mê vọng. Tìm Thầy nói lên tính cách chủ động chọn lựa có trí tuệ độc lập, đồng thời với ý chí cầu thị. Thầy không ngang tầm với kiến thức, với chân lý, thì hành giả tiếp tục đi tìm thầy khác. Thế là có phê phán và biết đánh giá khách quan, mà mục tiêu nhắm khai mở kiến thức giác ngộ. Nhờ vậy không trở thành cố tín, giáo điều, bè phái, cục bộ. Người sinh viên Âu Mỹ chọn đại học ngày nay vô hình trung thể hiện tinh thần “tầm sư học đạo” của phương Đông ? Tôi ít thấy các sinh viên Âu Mỹ bảo vệ đến chết “ông Thầy của mình” hoặc bảo vệ đến phun nước bọt rồi thượng cẳng tay hạ cẳng chân với những ai không quỳ lạy “ông Thầy của mình” như người Việt Nam. Đặc biệt người Phật tử Việt Nam cuồng tín tin theo các vị Thầy của họ nên chẳng cần lý tới kiến thức hạn chế của Thầy mình.

Ngày nay “tầm sư học đạo” sa sút thành “y sư chối đạo”. Người ta tin thầy hơn chân lý, hơn đạo. Cho nên gần đây có hiện tượng phân hóa, chia rẽ đến gây thành tranh chấp trong cộng đồng Phật giáo trong, ngoài nước. Ai cũng hiểu là có bàn tay lông lá của Cộng sản áp dụng thủ thuật “chia để trị”, lấy “gậy ông đập lưng ông”, rõ ra là “dùng Sư đánh Sư, dùng Phật tử nện Phật tử”. Kiểu trai cò mổ nhau, ngư ông cộng sản đắc lợi. Nhưng chuyện đau lòng là họ không chịu thâm nhập Ba tạng Kinh điển cao siêu kia, khiến mắc mưu kẻ tà giáo ?

Bên trong và phía sau là bàn tay của ngoại đạo xúc xiểm, đâm bị thóc chọc bị gạo. Nhưng hiện tượng nổi, là người Phật tử tranh chấp nhau, không vì phủ nhận giáo lý đạo Phật, phủ nhận đức Thích Ca, mà tranh chấp để bảo vệ “Ông Thầy của mình”. Bởi “Thầy của mình” cao cả nhất, vĩ đại nhất, thiền sư nhất, đạo sư nhất. Cái gì cũng “nhất” ! Do “Thầy của mình” là nhất, nên giáo lý cứu khổ của đạo Phật thành thứ yếu, đức Thích Ca đứng xếp hàng sau lưng “Thầy của mình”, Ba tạng kinh điển mờ mịt trước xảo ngôn, mị ngữ của “Thầy mình”… Còn quần chúng khổ đau, bị áp bức, đất nước điêu linh, thế giới lâm nạn khủng bố, sinh thái địa cầu bị uy hiếp hay khủng hoảng văn hóa không còn trong tầm nhắm, tầm tiên ưu của người Phật tử.

Bi kịch của giới Tăng sĩ hay Phật tử ngày nay là chối bỏ Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) để tôn thờ Nhất bảo là “ông Thầy của mình”.

Người ta quên chuyện chính yếu để phục vụ cái phụ, cái thứ yếu, cái hạng hai. Dường như đây cũng là quán tính “nhất” của dân tộc ta ? Việt Nam là “nhất” trên địa cầu, bốn nghìn năm văn hiến Việt lớn lao “nhất” cõi nhân loại, người Việt là số Một ! Nhưng khi hành xử thì người Việt khinh thị dân mình, qụy lụy ông tây bà đầm. Một thứ chủ nghĩa tân-nô-lệ của “Yes, Sir”. Đến như cái dốt họ cũng thậm xưng dưới hình thức tự tôn là “dốt nhất” !

Hiện tượng “y sư chối đạo” ngày nay của một số Phật tử đang đồng lõa với các thế lực gian manh, gian tà, phá đổ nền Phật giáo dân tộc. Thảm hơn, khi những ông “Thầy của họ” lại như như bất động, im lặng dung dưỡng sự thờ lạy ngẫu tưởng của tín đồ mình, dù các “ông Thầy này” thuộc lòng và ngày ngày vẫn ung dung thuyết pháp cho đồ chúng kinh bản Kālāma (5).

9. Lê Thị Huệ: Người ta nói 4 dân tộc cùng một nền văn hóa là Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn , thì ba nước kia tiến hết rồi, trừ Việt Nam. Cùng một nét Khổng Học, thì cái gì khác giữa VN với 3 nước kia ? Việt Nam nên rút bài học nào ?

Võ Văn Ái : Phê bình chung về Khổng giáo tại Việt Nam và vài nước Á châu, tôi đã biểu thị trong sách “Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động” do Nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris ấn hành năm 1981.

Theo tôi nghĩ, Nhật Bản không áp dụng cứng nhắc cái học hủ Nho Chu – Trình thời Tống như Việt Nam, mà dựa vào Khổng học thực dụng của Vương Dương Minh. Hai yếu tố quan trọng làm cho nước Nhật tân tiến nhất Á châu và đứng ngang hàng Tây phương ngày nay. Một là yếu tố Phật giáo, hai là sự sáng suốt cầu học của giới sĩ phu, đại biểu là Minh Trị Thiên hoàng. Ông dám thoát ly tư tưởng “ao nhà” so với chính sách đà điểu, bế môn tỏa cảng của các ông vua Tàu và Tự Đức cùng thời.

Ta biết đạo Phật truyền vào Nhật thế kỷ VI Tây lịch, thấm nhuần vào một Phật tử kỳ vĩ là Thái tử Thánh Đức (Shotoku). Thái tử khai mở một Hiến chương chính trị đầu tiên tại Châu Á gồm 17 điểm dựng trên chữ Hòa của Phật giáo. Tương tự như sau này các vua thời Lý - Trần thực hiện chữ Hòa vào chính trị, tạo ra một quốc gia văn hiến, phồn thịnh, nhân dân hạnh phúc. Biểu lộ đặc thù ngay trong lĩnh vực hình sự : thường xuyên bỏ án tử hình và xá tội.

Trung quốc tuy theo Cộng sản như Hà Nội, nhưng do bản chất thực dụng cố hữu của người Tàu nên sớm biết phải bắt tay với “Con Cọp Giấy” Hoa Kỳ mà Mao Trạch Đông phỉ nhổ trước đó, rồi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Không như Việt Nam “Chống Mỹ mút mùa” nay đành đổi sang lạy lục cúc bái Mỹ một cách trễ tràng lại thiếu thông minh. Nhất là không biết kết liên các thành phần dân tộc làm lá chắn chiến lược tại Đông Nam Á và hội nhập vào công cuộc phát triển toàn cầu.

Sau ngày Saigon thất thủ, năm 1977 và 1978 Hoa Kỳ muốn bình thường hóa quan hệ không điều kiện với Hà Nội. Nhưng người Cộng sản kiêu binh đã khước từ theo chủ trương “có ba trăm lạng việc này mới xong”, ý ra điều kiện muốn thương thảo thì Hoa Kỳ phải trả 7 tỷ Mỹ kim tái thiết Bắc Việt như Tổng thống Nixon đã hứa trong thời gian hòa hội Paris. Cái ngu về xử thế chính trị và dốt nát về kiến thức thế giới của Hà Nội khiến Hoa Kỳ bỏ rơi[1]. Sau này lạy lục cúc bái bao năm mới thiết lập được quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1995. Việt Nam mất cơ hội kiến thiết 19 năm ! Đến nỗi những năm 80, Nguyễn Khắc Viện la trời “có nguy cơ mất nước”.

Đa số thành phần lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thất học, dù chưa phải lỗi họ. Dưới thời Pháp thuộc, vì lòng yêu nước họ tham gia đấu tranh rất sớm khi mới qua ngưỡng cửa tiểu học hay trung học, rồi bị bắt vào tù. Kiến thức học đường ngừng lại từ đó, không phát triển thêm. Ý chí đấu tranh cao, lòng căm thù lớn, nhưng kiến thức nông cạn, khiếm khuyết. Kịp đến khi đảm đương việc nước năm 1945, sở học khiếm khuyết chẳng khác chi anh chột trong đám người mù. Quá tự đắc nên không biết nguyên tắc cầu người hiền, cầu người tài của những ông vua thời trước để xây dựng bộ máy nhà nước theo tác phong “trắc tịch cầu hiền”. Vua chỉ ngồi nửa ghế (trắc tịch), nửa ghế kia giành chờ người tài đến ngồi. Ngày nay dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo Cộng sản chẳng những giành trọn ghế mà còn giành hết các dãy ghế trong rạp hát chính trị. Là người học trò ngoan ngoãn của Trung Cộng, nhưng các điều hay bên Trung quốc lại không biết, không học. Thử nhìn vào chính sách kinh tế và đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay thì rõ.

Chị ở Hoa Kỳ ắt biết thế giới thầm lặng của giới trí thức và chuyên viên tư vấn thông qua hệ thống đại học và các Sáng hội think-tank quan trọng chừng nào. Chính họ hoạch định chính sách của chính phủ Hoa Kỳ trong hai vấn đề nội chính và đối ngoại, chứ không riêng Tổng thống và các bộ trưởng. Số lượng chuyên viên tư vấn ở Hoa Kỳ có khoảng mười nghìn người. Tại Anh chỉ là số trăm, còn toàn Châu Âu là số ngàn. Trong khi ấy Trung quốc lên tới số trăm nghìn. Không phải Bộ Chính trị hay chính phủ ông Hồ Cẩm Đào hoạch định chính sách bành trướng của Trung quốc đâu, mà là một tập thể mênh mông những trí thức và chuyên viên tư vấn hoạch định. Viện Khoa học Xã hội Trung quốc ở Bắc kinh bao gồm 50 trung tâm nghiên cứu quốc sách với 260 bộ môn do 4000 nhà nghiên cứu điều hành, mà Trung quốc có hàng chục viện như thế.

Khác với các thể chế dân chủ y cứ vào trưng cầu dân ý hoặc sự góp ý của toàn dân theo chủ nghĩa dân túy. Trái lại, chủ trương độc tài đảng trị của Trung quốc đang dựa vào yếu tố trung tâm của sự hoạch định chính sách thông qua khảo cứu ở cấp chuyên viên tư vấn. Tôi gọi đây là hiện tượng Gia Cát Lượng hiện đại. Đọc Tam quốc chí ta biết Lưu Bị muốn dấy nghiệp lớn đã phải kiên nhẫn, khiêm cung tam cố thảo lư, ba lần chờ chực gặp xin Gia Cát Lượng làm quân sư. Hiện tượng Gia Cát Lượng ngày nay là hàng trăm nghìn chuyên viên tư vấn đang giải quyết tại Trung quốc sự dằn co giữa Chủ nghĩa Xã hội lỗi thời, sai lạc, với chủ nghĩa Tư bản rừng rú. Để làm chi ? - Để xây dựng một trật tự thế giới theo mô hình Trung quốc nhằm đánh đổ Hoa Kỳ, tức giấc mộng đại cường quốc xưa cũ của Hán tộc. Chúng ta sẽ chứng kiến việc này chừng 20 năm tới. Trong khi ấy Việt Nam không hề có viễn kiến thế giới. Tệ hơn, không đào tạo nổi giới trí thức và chuyên gia tư vấn trong nước, lại còn xài xạc, tự thị với khoảng nửa triệu chất xám Việt Nam ở hải ngoại.

Năm 1988 tôi được Bắc Kinh mời tham quan Trung quốc hai tuần lễ. Thực ra thì họ mời tôi từ năm 1982, nhưng vì băn khoăn, do dự nên không đáp nhận. Mãi đến 1988 sau khi tham khảo một số nhân sĩ trong nước, ngoài nước và được sự đồng tình tôi mới nhận lời đi. Thời điểm ấy “tình môi hở răng lạnh” Trung Việt đang suy sụp xiểng liểng thành tranh chấp như sừng với đuôi. Hà Nội chửi bới chủ nghĩa bành trướng Đại Hán qua hằng loạt sách tố cáo chuyện cổ kim, hệt như ngày nay họ đang chửi rủa thế “lực phản động” người Việt nước ngoài, mà tôi là một tên “đầu sỏ”. Còn phía Trung quốc thì tiếp cận giới chống Cộng tại ba nước Đông Dương cũ theo chủ trương “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Thời gian thăm viếng có tính cách tuyên truyền phô trương một Trung quốc đang trên đà cải tiến.

Qua Trung quốc tôi lấy làm lạ đi đến đâu, gặp ai, họ đều mời xem bữa ăn của gia đình, chỉ vào nồi cơm và mấy đĩa thịt cá. Ở Nam Ninh, mấy giáo sư dẫn tôi qua cầu chỉ xuống dòng nước nói rằng thời Cách mạng văn hóa nhiều giáo sư, sinh viên đã bị vứt xuống đây. Họ cũng bảo thưở ấy đói lắm, chỉ ăn cháo qua ngày, họa hoằn một hai lần trong tháng mới ăn cơm. Không thịt. Rồi than rằng thế mà thời ấy Trung quốc viện trợ gạo cho Việt Nam đánh giặc đấy, ai ngờ ngày nay…

Thăm thành phố Nam Ninh dựng từ thời Bắc Tống tôi động lòng nhớ các dãy phố Hà Nội và nghĩ rằng Lý Thường Kiệt đã đến đây viết văn “lộ bố” ở Châu Khâm, Châu Ung. Tôi xin đi thăm mộ cụ Nguyễn Thiện Thuật, một trong hai mươi chủ tướng phong trào Cần Vương thuộc cánh quân Bãi Sậy. Việc khó khăn, vì tài liệu của sử gia Trần Huy Liệu viết sai địa điểm ở phía Tây. Tốn công mới tìm ra mộ nằm ở phía Đông bắc thành phố nhờ một giáo sư ở Viện Dân tộc học Quảng Tây. Lạ thật, Nam Ninh là hậu cứ của ông Hồ và cán bộ cao cấp Hà Nội nườm nượp sang bồi dưỡng. Thế mà chả ai ngó ngàng ngôi mộ vị anh hùng. Kiếm chẳng đâu ra một thẻ hương, tôi phủ phục trên đất lạy cụ ba lạy trước sự ngạc nhiên của các cán bộ hướng dẫn. Về Paris viết trên Quê Mẹ tôi ngậm ngùi tả cảnh tiêu điều của ngôi mộ trên sườn đồi nằm chung với mươi ngôi mả đẹt, may còn bia đá khắc dòng chữ “Việt Nam Cách mạng cố Tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật chi mộ”. Rồi nêu câu hỏi các nhà lãnh đạo Hà Nội làm cách mạng cho ai ? Vài tháng sau tôi nghe tin ông Hoàng Văn Hoan viết thư xin Trung quốc xây lại mộ cho cụ.

Mộ cụ Nguyễn Thiện Thuật tại Nam Ninh, một trong hai mươi chủ tướng thuộc Phong trào Cần Vương, xem thêm loạt bài viết về chuyến viếng thăm Trung quốc “Đã tới Trường thành” của Thi Vũ trên Gió-O

Nhờ chuyến đi tôi có dịp tọa đàm với giới nghiên cứu, giáo sư ở Viện nghiên cứu Đông Dương đại học Nam Ninh, đại học Quảng Châu và đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh. Tôi có phần ngạc nhiên khi thấy tạp chí Quê Mẹ tại các thư viện Đại học nằm bên cạnh sách báo của Hà Nội. Qua các cuộc trao đổi với một số giáo sư, sinh viên, tôi cảm nhận không khí bùng nổ tất yếu khó tránh khỏi, mà chúng ta chứng kiến sự biến Thiên An Môn vào tháng sáu 1989. Chuyến đi này cho tôi thấy sự động não của giới trí thức Tàu như một đối lực trước chủ trương co kín của đảng Cộng sản, mà sau này theo dõi tôi phát hiện bước tiến theo như trình bày lúc nãy. Những đặc khu kinh tế mà tôi chứng kiến hay thăm dò trong chuyến đi cho thấy tính thực dụng của người Tàu trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường. Khác với kiểu kinh tế nhập nhằng “định hướng XHCN” của Hà Nội.

Kể từ năm 2007 ta thấy rõ Trung quốc đang xuất cảng mô thức Đặc khu kinh tế sang Phi châu. Họ đã hay đang thực hiện tại Zambia, Mauritania và Tanzania. Một số nước Nam Mỹ cũng đang học đòi mô thức phát triển Trung quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì đang có 3000 dự án Trung quốc phát triển tại 120 quốc gia. Chưa ai quên giai thoại Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) thương thuyết nhiều năm với chính quyền Angola về một hiệp ước chống tham nhũng thì mới cho vay lãi nhẹ. Thế nhưng vài giờ trước khi ký kết (năm 2004) Angola tuyên bố chẳng cần tiền của Qũy Tiền tệ Quốc tế nữa, vì Trung quốc vừa cho vay 2 tỉ Mỹ kim với chế độ ưu đãi.

Tư tưởng quyền lực nhuyễn (Soft power) là phát kiến của nhà khoa học chính trị Mỹ Joseph Nye năm 1990, đang được Bắc kinh áp dụng triệt để hơn tại các nước Âu Mỹ. Mặt khác giới trí thức Tàu kể cả những người bảo thủ trong đảng Cộng sản cũng đang quy mô nghiên cứu lại tư tưởng cổ đại Trung quốc.

Khắp nơi, Trung quốc đang rao hàng “chính sách hòa bình” của họ, và đã thiết lập Tổ chức “Hợp tác Thượng Hải” nhằm đánh bật Hoa Kỳ ra khỏi các cộng đồng Châu Á. Ảnh hưởng Trung quốc ngay tại LHQ không phải nhỏ, mà chúng ta thấy rõ sau cuộc chiến Iraq, qua việc xúi giục các nước Phi châu cản ngăn Nhật bản vào ngồi ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An, hay đẩy các quốc gia Hồi giáo làm suy yếu và biến tướng vai trò nhân quyền thực hữu của Hội đồng Nhân quyền LHQ thay thế Ủy hội Nhân quyền LHQ trước kia. Tất cả đó nhằm suy yếu ảnh hưởng Hoa Kỳ tại diễn đàn quốc tế này. Tại Đại hội đồng LHQ phiếu bầu cho Hoa Kỳ tụt từ 50,6% năm 1995 xuống 23,6% năm 2006. Về nhân quyền tại LHQ, Trung quốc tăng vọt từ 43% lên 82%, trong khi Hoa Kỳ từ 53% tụt xuống 22% !

Hẳn nhiên chế độ độc tôn độc đảng tại Trung quốc chóng chầy sẽ sụp đổ. Nhưng hiện tại Bắc Kinh vận dụng tất cả mọi phương tiện tinh vi cổ kim để kéo dài mạng sống và chận đứng sự nổi loạn của quần chúng.

Đem chủ nghĩa Duy vật vô thần và phi tôn giáo xích hóa nước Tàu từ năm 1949, nhưng nay tiên kiến bước đi của lịch sử cùng tiềm năng châu Á, nên ngày 16.4.2006 Bắc kinh tổ chức “Đại hội Phật giáo Thế giới” mời 36 nước đến tham dự.

Từ thập niên 90, Trung quốc đã có trào lưu phục hồi Nho giáo do giới học giả nghiên cứu Quốc học đề xướng. Rút bài học từ sự kiện thập niên 90 Cộng sản quốc tế sụp đổ, mẫu quốc Liên xô tan vỡ, khoảng trống ý thức hằn sâu tại các quốc gia theo Cộng gây thành cuộc khủng hoảng ý thức hệ không tiền khoáng hậu. Một số trong giới trí thức Trung quốc nhận định không thể phủ nhận nội dung chính của hiện đại hóa và toàn cầu hóa đang do văn minh phương Tây lãnh đạo. Với tâm thức nước lớn, Trung quốc tự biết không thể khư khư trình làng ý thức hệ lỗi thời Mác – Lê – Mao nữa. Họ quay về cầu cứu Quốc học, đem ông Khổng Tử ra chào hàng. Hiện đang có trào lưu đòi đem Tứ thư, Ngũ kinh vào dạy ở các bậc tiểu học và trung học tại Hoa lục. Đối ngoại thì Bắc Kinh đã bỏ hang tỉ bạc mở 100 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới dạy chữ Hán và văn hóa cổ Trung quốc cho người nước ngoài. Minh thị cho trào lưu này là hiện tượng Vu Đan xẩy ra hồi tháng 10.2006. Bà Vu Đan, 41 tuổi, giáo sư Triết tại Đại học Sư phạm Bắc kinh lên Đài Truyền hình Trung ương thuyết giảng 7 buổi về đề tài “Thu hoạch đọc sách Luận Ngữ” thu hút hàng triệu người nghe nhìn. Sau in thành sách đợt đầu bán một triệu cuốn, vài tháng sau tái bản bán 3 triệu cuốn. Một kỷ lục trong ngành xuất bản sách, mà lại là cổ thư bị Mao đốt bỏ mấy mươi năm trước.

Trong khi ấy phục hồi quốc học ở Việt Nam là gì ? – Đưa một tay hành động như Hồ Chí Minh lên thành nhà “tư tưởng” (sic), cho ra vài cuốn viết về Khổng học sơ sài, không phát kiến. Còn Phật giáo là nền tảng từ cổ đại, trung đại đến hiện đại trên mặt tư tưởng và hành động thì bị đàn áp không nương tay. Ngoại trừ thứ Phật giáo công cụ do đảng nặn ra làm bình phong. Còn lại chỉ thấy toàn những nghìn luợt lễ hội đánh trống khua chuông, ăn mặt áo mão cải lương, hát bộ, nói là của thời “Hùng vương”, “Nguyễn Huệ” cốt thu hút khách du lịch làm tiền ! Đua đòi cái mã lòe loẹt bên ngoài nhưng nội dung và thực chất vắng bóng. Mới đây, tôi đọc trên Gió O bài trả lời của nhà văn Cộng sản Nguyên Ngọc công tâm nói về văn hóa Việt. Tôi xin trích vài lời của ông Nguyên Ngọc :

“Nỗi lo lớn bây giờ là dù kinh tế có đang khá lên, nhưng văn hóa đã không khá theo, thậm chí còn sa sút. Đang có hiện tượng cả xã hội lao đi làm kinh tế, nhưng kể cả trong tầng lớp "khá giả" nhất của xã hội cũng rất ít người quan tâm đến văn hóa, quan tâm tới cách ứng xử có văn hóa. Văn hóa trọc phú đang tràn ngập trong xã hội. (…) Đặc trưng của chùa miền Bắc là sự thâm u, trầm tư, yên tĩnh. Kể cả những ngôi chùa nằm giữa phố, bước vào chùa là một không gian khác hẳn, khiến con người ta lắng lại. Nhưng giờ thì đâu đâu cũng thi đua trùng tu, mở rộng chùa. (…) Hình thái kiến trúc đã "hỏng", cách ứng xử trong các không gian tôn nghiêm ấy cũng có quá nhiều chuyện đáng buồn. Đã có lần tôi cùng nhạc sĩ Dương Thụ đến chùa Tháp Bút, thấy tình trạng "hát kinh" có nhạc đệm, giống như trong nhà thờ. Cách tụng kinh Phật chậm rãi, nhấn nhá ê, a không có chút gì giống với nhạc đệm nhà thờ ở phương Tây cả. Tết năm ngoái tôi lên chùa Phật Tích, đi từ ngoài vào tới sân trong toàn thấy mùi... mực nướng !”.

Trường hợp Đại Hàn cũng như Nhật Bản là hai quốc gia dân chủ. Chúng ta có thể thẩm kết mà không sợ sai lạc, là các quốc gia theo thể chế dân chủ, tự do mới có hoàn cảnh phát triển. Các nước độc tài toàn trị, quân phiệt, phát xít, thì thiểu số lãnh đạo trở thành triệu phú bên cạnh khối đại đa dân chúng ngày càng bần hàn, thất học. Ví dụ quá rõ khi ta so sánh một dân tộc Triều Tiên, mà Nam Hàn dân chủ phát triển mù trời, Bắc Hàn theo Cộng sản dân chúng đói meo.

Người Việt phục vụ giỏi khi đứng lẻ, khi gánh vác việc người khác. Các công sở Âu Mỹ thường khen sự chăm chỉ, giỏi dang, cần cù của người Việt. Nhưng giữa chúng ta với nhau thì lại khắc khẩu, khắc ý, đưa tới xỉ vả nhau kinh niên. Những ai còn lưu tâm đến sinh mệnh con cháu Vua Hùng, cần tập làm việc chung giữa hai người, ba người, rồi bốn người lên tới cộng đồng…

Sử gia nổi danh Arnold Toynbee, người Anh, tiên liệu thiên niên kỷ thứ ba sẽ là thiên kỷ của Á châu hay Phi châu. Âu châu đang đi xuống vì tranh chấp nội bộ, mất viễn tượng thế giới sau giai kỳ đế quốc xâm lược. Nhìn vào hiện cảnh phát triển của Nhật bản, Trung quốc và Ấn Độ, chúng ta có cơ sở để tin rằng Á châu sẽ là điểm phát xuất cho một thời kỳ lịch sử mới. Bởi vậy muốn thoát khỏi vị trí địa chính bất lợi như Việt Nam từ hai nghìn năm qua, người Việt cần chuẩn bị nhanh và khôn kế hoạch phát triển chiến lược Châu Á cho một trăm năm tới trên các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, nhân văn, kinh tế, khoa học. Đó là nói trên phạm vi tại thế. Còn vấn đề trọng thiết hơn cả : một chân đạp đầu núi, một chân đạp hải triều, chúng ta hiện thế ra sao trước cuộc sụp đổ của hai nền triết lý Tây phương của Platon và của Mác-Lênin ? Người Việt phải gặp nhau trên đỉnh đầu nhân loại !

Chị hỏi Việt Nam nên rút bài học nào để phát triển ?

Câu trả lời dứt khoát là vứt hệ thống nhà nước và ý thức hệ Cộng sản vào hố rác, như thế giới đã vứt chủ nghĩa Cộng sản vào hố rác lịch sử đầu thập niên 90. Trời đã cho Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh 73 năm thí nghiệm Cộng sản như một giải pháp phát triển dân sinh (1917 – 1990). Nhưng 73 năm ấy các ông chỉ làm hai động tác vô sản hóa dân nghèo và thảm sát giới trí thức. Thế thì đeo đuổi làm chi sự hủ bại lão suy ?


(còn tiếp 4 kỳ nữa)

(kỳ tới: Phật Giáo đấu tranh, Thích Đôn Hậu, Văn Hóa Việt và đề tài Nhân Quyền, trí thức Tây Phương của Aldré Malraux, Herman Hess, Karl Jasper, Jean-François Revel…)

phụ chú:

1 Tam thiên đại thiên thế giới (chữ Phạn Tri-sāhasra-mahā-sāhasra-loka-dhātu) là ba nghìn thế giới đại thiên, vũ trụ quan của người Ấn Độ xưa. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, bao quanh có 4 đại châu, 9 dãy núi và 8 lớp biển bao bọc gọi là một Tiểu thế giới. 1000 Tiểu thế giới hình thành một Tiểu thiên thế giới. 1000 Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới họp thành một Đại thiên thế giới. Vậy Tam thiên đại thiên thế giới (Tiểu thiên thế giới + Trung thiên thế giới + Đại thiên thế giới) gồm nghìn trăm ức thế giới, chứ không phải nói chung chung là vô số vô biên thế giới. Theo kinh điển Phật giáo, Tam thiên thế giới là lĩnh vực hóa độ do một đức Phật giáo hóa.

2 Công án, nghĩa đen là án lệ do quan lại phán quyết. Trong thiền học gọi chung sự kiện khi dùng một chữ, một câu nói cho người học đạo tham cứu gọi là “thoại đầu”. Ví dụ hỏi “Con chó có tính Phật không ?” Trả lời : “Không !”. Đối thoại như thế gọi là một tắc Công án. Xưa nay có khoảng năm trăm Công án thường dùng trong số gần hai nghìn công án. Công án không thể đem luận lý mà giải thích, vì tinh thần Thiền siêu việt nói năng, ngôn ngữ, suy tư. Dùng cái Phi luận lý tính để khơi dậy trực giác tiềm ẩn trong vô thức giúp người học đạo thể chứng chân tính.

Nội dung Công án làm công cụ cho sự ngộ Thiền, làm phương pháp khảo nghiệm, làm vật tin cho sự ấn chứng và tiêu điểm giác ngộ. Công án là đối tượng để suy xét, trích từ lời nói và việc làm của các bậc cao tăng làm kim chỉ nam cho người tu thiền. Các sách Công án quan trọng gồm có Bích Nham lục, Vô môn quan, Chính pháp nhãn tạng, Cảnh đức truyền đăng lục, v.v…

3 Tam bảo là ba bảo vật của đạo Phật gồm : Tự tính bản lai không nhiễm ô, không còn vô minh, là Phật bảo; Tự tính bình đẳng, không sai khác nhưng biến hiện ra tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, là Pháp bảo; Tự tính có diệu dụng vô lượng vô biên, mang khả lực hằng hà sa công đức, thực hiện vô số Phật sự, là Tăng bảo. Phật tử là người quay về và nương dựa (quy y) với Tam bảo, tức tự tính bản lai. Chữ pháp thế gian và xuất thế gian nói đây không có nghĩa sai lạc như nhiều người lầm tưởng là nhập thếxuất thế. Pháp thế gian là hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo. Pháp xuất thế gian là tu đạo giải thoát (từ bi, hỷ xả, cứu chúng sinh, giác ngộ thành Phật).

4 Ngũ minh (Pañca vidyā-sthānāni) là 5 môn học gồm Thanh minh (môn học ngôn ngữ, văn chương), Công xảo minh (môn học công nghệ, kỹ thuật, lịch toán), Y phương minh (môn học y dược), Nhân minh (môn học về lý luận), và Nội minh (môn học về tông chỉ, giáo lý của phái mình).

5 Sự tự do tư tưởng của Phật giáo bộc lộ qua câu chuyện này. Một hôm đức Phật đến thị trấn Kesaputta thuộc Vương quốc Kosala, Ấn Độ, dân trong thành được gọi là người Kālāmas đến gặp Phật và hỏi ngài rằng : “Bạch đức Thế tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà La Môn đến viếng Kesaputta. Họ giảng giải và đề cao lý thuyết của họ, đồng thời lên án, bài xích lý thuyết của những người khác. Bạch Thế tôn, phần chúng con, chúng con hoang mang, hoài nghi, không biết vị nào trong các nhà ẩn sĩ và Bà Là Môn nói sự thật, vị nào nói sai quấy ? Đức Phật liền đáp :

-“Hỡi những người Kālāmas, các người hoài nghi và hoang mang là phải, vì các vấn đề này rất đáng hoài nghi. Hỡi những người Kālāmas, đừng để những lời thuật lại, những lời đồn hay những lời truyền thống lôi cuốn ta. Đừng để những uy quyền của kinh điển, những lý luận suông, các điều xét đoán bề ngoài, các điều thích thú với những quan niệm võ đoán, những gì có vẻ đáng tin, hay những ý nghĩ “đây là Thầy ta”, dẫn dắc ta. Nhưng hỡi những người Kālāmas, khi nào các người tự biết mình rằng những gì đó là ác, sai, xấu, thì hãy vứt bỏ chúng. Và khi các người tự mình biết rằng những gì đó là thiện, là tốt thì hãy chấp nhận và theo chúng”.

6 Xem thêm “Hồi ức và suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, Thứ trưởng ngoại giao Hà Nội, tr. 16-17 : “Với tư cách là Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ Ngoại giao, trực tiếp tham gia phái đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Pa-ri năm 1977 rồi ở Nữu Ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình “From Third world to First”, Lý Quang Diệu đã nhận xét :”Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Băng-cốc. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”. Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn – bớt thù” thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hóa với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. (…) Việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung quốc đầy tham vọng”.


10. Lê Thị Huệ: Tại sao ông đã không tranh đấu cho Việt Nam nói chung. Tại sao ông đã chọn đứng về phía tranh đấu cho Phật Giáo ?

Võ Văn Ái : Vừa là công dân Việt vừa là Phật tử, tôi không thấy sự xung khắc giữa Phật giáo và Việt Nam. Tôi không nghĩ khi tham gia thế sự, các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, các Cư sĩ Phật giáo Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi… họ phải chọn lựa giữa Việt Nam và Phật giáo.

Không đâu, trọng tâm tham gia của người Phật tử cốt bảo vệ Con Người và Đất nước với hành trang tư tưởng nhân đạo nhất, là giáo lý đạo Phật, một tôn giáo hòa bình chưa hề gây thánh chiến với bất cứ ai hay tôn giáo nào.

Có lẽ tôi cần khai triển đôi chút để chị nắm bắt thời cuộc đẩy đưa tôi vào hiện trạng hôm nay khiến chị phải hỏi “Tại sao…”.

Tôi đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở nước ngoài từ 1963 đến 1970. Sau đấy tôi từ chức, đi làm nhà in và nhà xuất bản tại Paris.

Khi bộ đội Bắc Việt xâm chiếm miền Nam ngày 30.4.1975, tôi cùng một số bạn ở Paris thành lập Cơ sở Quê Mẹ vào tháng 10.1975 và cho ấn hành Tạp chí Quê Mẹ, số đầu tiên ra mắt ngày 1.2.1976 vào dịp Tết Bính Thìn. Tiêu điểm của tạp chí thu gọn trong câu viết : “Như chim hồng chim hạc. Dù lưu lạc mười phương, chúng ta vẫn bay mãi trên vùng trời quê hương. Đuôi xoè đoá sen, lưng chở núi, lòng ôm mặt trời, đôi mắt trừng trừng nhìn hư không xanh, và đôi cánh lộng làm rơi rụng nghìn dặm cách chia”.

Tạp chí Quê Mẹ là một trong những tạp chí ra đời rất sớm sau ngày tang thương 30.4.1075. Bây giờ chẳng ai còn sợ hãi, nhưng thời ấy, có thể nói Quê Mẹ là tạp chí hiếm hoi dám đề tên thật người chủ biên, thay vì bút hiệu, và đề địa chỉ thật thay vì hộp thư. Sự kiện này nay chẳng quan trọng gì, hay người ta đã quên, song đối với nhà nghiên cứu xã hội học, yếu tố này bộc lộ trạng thái hoang mang, sợ hãi, mất định hướng của tập thể người Việt thời bấy giờ

Toà soạn tạp chí Quê Mẹ và trụ sở Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam thời kỳ 1975 – 2000, cũng là trụ sở Uỷ ban Một Chiếc Tàu cho Việt Nam ra đời năm 1978 :
25 rue Jaffeux – 92230 Gennevilliers vùng ngoại ô bắc Paris

Dù tôi là người xướng xuất và điều hành, nhưng Cơ sở Quê Mẹ không dựa vào hay đại biểu cho Phật giáo hoặc đảng phái nào. Tiêu đích anh em chúng tôi lúc bấy giờ là Văn hóa Việt và Nhân quyền. Bảo vệ nền văn hóa Việt đang bị nền văn hóa Mác xít uy hiếp, và bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam trước chủ thuyết không-có-con-người của Cộng sản. Không dựa vào đảng phái vì tôi chưa từng theo đảng nào. Là Phật tử nhưng không muốn nhân danh Phật giáo vì tôi nghĩ thời điểm 75 là thời điểm kết liên dân tộc trước quốc nạn chung. Mỗi người cần gạt qua bên quá khứ tự thân để có động thủ mới cho quê hương.

Bìa tạp chí Quê Mẹ số 1, ra mắt Xuân Bính Thìn tại Paris ngày 1.2.1976

Bìa Quê Mẹ kỷ niệm số 100


Trên báo Herald TriBune Hoa Kỳ 1976, báo Le Monde Pháp 1978

Sau 7 năm cộng tác hoạt động mật thiết ngày đêm với 13 hội đoàn tại Paris và Pháp, rồi sau đấy, 10 năm đi du thuyết, tiếp cận với một số hội đoàn người Việt trên thế giới, tôi nhận xét điểm ưu của người Việt hải ngoại là tấm lòng cố quốc và ý chí chống Cộng. Nhưng điểm khuyết là sự chia rẽ, phân hóa, kỳ thị vùng miền, tôn giáo, thờ ơ với xu thế toàn cầu dù sống trên địa bàn thế giới. Sinh hoạt chung thường nệ ngôn từ, tiểu tiết hơn là nội dung và thực chất. Nặng nhất là tinh thần đảng tranh, một hậu quả lịch sử từ năm 1945. Thoạt đầu là đảng tranh Quốc-Cộng, sau thành Quốc-Quốc. Vì vậy trên đấu trường, chỉ thấy “quân ta thắng quân mình”, bỏ ngỏ cho địch hoành hành. Điểm bất lợi khác, một số các đoàn thể không có đường lối chiến lược. Chống Cộng nhưng không Vượt Cộng. Vì vậy, cứ ở lì nơi thế phản ứng, chưa có động thủ chủ động. Vô hình trung giúp đối phương tranh thủ thời gian xâm lấn, nằm vùng, tạo ly gián. Đáng buồn là trong tư thế ấy những phong trào Chống Cộng đang viện trợ “thời gian” cho Cộng sản đứng vững. Chống mà lại thành ra liên minh ! Mâu thuẫn hết chỗ nói.

Nhận định như trên tôi thấy sự mắc cạn của một số tổ chức chống Cộng. Chống cho thỏa tấm lòng ấm ức hoặc thù hận, mong tìm lại cảnh vàng son thưở trước (sẽ chẳng bao giờ có lại). Nhưng mất liên hệ máu thịt với xu thế thế giới, đặc biệt với đại khối quần chúng trong nước đang ngày càng khổ ách, nhưng đồng thời cũng ngày càng vượt khỏi tầm nhìn hay ước vọng của người hải ngoại.

Thế có nghĩa là, không kể trước kia hồi còn bé tới thời trung niên, tôi hoạt động thuần túy cho Việt Nam từ 1975 đến 1992.

Sang năm 1992 có sự kiện Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch ở Huế. Trường hợp ngài khá đặc biệt. Do Hòa thượng là người đạo cao đức trọng, uy tín lớn trong quần chúng Phật giáo miền Trung. Nên Mậu Thân Huế năm 1968, Việt Cộng đến chùa Linh Mụ bắt ngài đưa lên núi nhắm mục tiêu vận động quần chúng Phật giáo vốn chống Cộng sản. Lúc ấy ngài bị xuất huyết dạ dày nặng, mặc chư Tăng chùa Linh Mụ phản đối, Việt Cộng đặt ngài vào thúng gánh đi. Tôi có cuốn băng ghi âm trên hai giờ đồng hồ ngài kể từ giai đoạn Mậu Thân Huế cho đến thời về lại Miền Nam sau 75 và cực lực chống đối nhà nước cộng sản. Không như gần đây vì lý do “đảng tranh chính trị”, một số người bá vơ viết bài, viết sách tố cáo ngài và giới Tăng lữ ở Huế theo Cộng sản. Bọn người này chưa bao giờ chịu ghé mắt đọc các tài liệu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và CIA giải mật từ 2005 đến đầu năm nay, 2009. Đọc xong bọn họ sẽ phải hỗ thẹn về tính cách bất lương trong kiểu viết lách vu họa và dối gạt.

Ra đến Bắc vai trò ngài mờ nhạt, Hà Nội dùng ngài như bình phong Phật giáo cho cuộc tuyên truyền quốc tế không mấy thành công. Cuối năm 1969 nhân được Hoàng thân Sihanouk mời thăm Cam Bốt, tôi có dịp hỏi thăm về ngài khi gặp ông Nguyễn Văn Hiếu, Đại sứ của Mặt trận Giải phóng tại Nam Vang. Ông Hiếu đã rất ấp úng về trường hợp của ngài và tỏ vẻ lạnh nhạt với Phật giáo. Người Cộng sản rất tự đắc, tự kiêu ngay cả khi họ chưa thắng lợi.

Sau 1975 trở về Nam, Hòa thượng Thích Đôn Hậu là người chống đối Cộng sản đầu tiên trong lớp người ở Bắc về. Đến như hàng giáo phẩm lãnh đạo Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cũng hồ nghi ngài theo Cộng sản. Nhưng sau 8 năm xa cách, ngài có buổi họp đầu tiên để trình bày ý kiến trước tình hình mới với Viện Hóa Đạo ở Saigon năm 1976. Sau buổi họp, cố Hòa thượng Thích Thiện Minh đã kết luận khá hình tượng là “Tưởng Hòa thượng mặc áo đỏ, nào ngờ lòng ông vẫn vàng. Đi lâu mới biết đường dài / Ở lâu mới biết con người thủy chung”. Tại buổi họp này ngài đã có những cố vấn rất thực tiễn và khôn ngoan giúp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đối phó với nan đề Cộng sản. Câu ẩn ngữ của ngài mà tôi tâm đắc là : “Chúng ta cố gắng xiển dương chánh pháp. Gặp thời chúng ta có thể giảng diễn trước hàng vạn người, hàng ngàn người, trăm người. Còn khi không thể nào thể hiện sự giảng diễn đó, chúng ta giảng cho 5 người, cho 10 người. Nhiều lần, nhiều chỗ giảng như vậy, thành ra đông đúc”.

Ngay năm 1976, trong cuộc hội kiến với ông Phạm Văn Đồng hay tại khóa họp Quốc hội kỳ 2 ở Hà Nội, Hòa thượng Đôn Hậu đã phê phán chính sách đàn áp Phật giáo và nhân quyền tại miền Nam, và phản ứng thái độ trịch thượng của tướng Võ Nguyên Giáp, mà Hòa thượng nói rằng “Nếu không nghĩ mình là Thầy tu, thì cái ghế của tôi sẽ phang lên đầu ông Võ Nguyên Giáp. Đặc biệt ngài tố cáo bàn tay Cộng sản giết Hòa thượng Thích Thiện Minh, đòi đưa ra ánh sáng công lý. Hòa thượng nói thẳng với Cộng sản về dân tình miền Nam rằng : “Tình hình đoàn kết, thương yêu, kính trọng (của dân miền Nam) chỉ được 10 ngày (sau khi Cộng sản vào Nam). Sau 10 ngày đó : Tình đoàn kết xưa nay bây giờ rã hết. Lòng yêu thương đổi thành ghét cay ghét đắng ! Sự kính trọng bây giờ người dân trở lại khinh đáo để !”. Kể từ đó Hòa thượng Thích Đôn Hậu từ bỏ tất cả mọi chức vụ bị gán kết như Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Mặt trận Tổ quốc, kể cả các chức vụ “bị” đề cử vào Giáo hội Phật giáo Nhà Nước, để chuyên lo cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong chức vụ mới, Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.

Trong cuộc vận động bầu cử quốc hội ở Thừa thiên - Huế giữa năm 1976, Mặt trận Tổ quốc và Ban Dân vận mở các cuộc họp khu phố, phường khóm vận động dân chúng đừng bầu cho Hòa thượng Thích Đôn Hậu với ba lý do mà chủ tọa đoàn của Cộng sản công bố trước quần chúng : 1. “Bầu mấy ông già mệt lắm. Già thì chết thôi, mất công bầu lại người khác ; 2. Ông Đôn Hậu thấy cũng có tranh đấu, nhưng ông tranh đấu cho Phật giáo, chứ đâu phải cho dân tộc ? ; 3. Ôn Đôn Hậu cũng có đi với cách mạng, nhưng mà Ôn bị bắt chớ đâu phải Ôn tình nguyện đi ! Cần nói ngay ở đây, là Hòa thượng Đôn Hậu khước từ ra ứng cử và yêu cầu trở về cương vị tu sĩ, nhưng bị nhà cầm quyền Cộng sản bó buộc. Ông Nguyễn Hữu Thọ đích thân đến gặp riêng Hòa thượng Đôn Hậu khẩn nài : “Tôi xin thay mặt Chính phủ Lâm thời, và riêng tôi, yêu cầu bác đóng góp”. Thời ấy, cũng như thời Mậu Thân 1968, Cộng sản cần một biểu tượng Phật giáo làm bình phong. Vì đối ngoại, Nhà nước Cộng sản cần có khuôn mặt Phật giáo để mang sắc thái chính quyền nhân dân, đối nội thì để chinh phục giới Phật tử chống Cộng. Vì vậy mà mời mọc Hòa thượng ra ứng cử, nhưng mặt khác giảm giá Hòa thượng tại địa phương để đàn hặc quần chúng Phật giáo.

Tôi biết Hòa thượng từ hồi ở Huế giữa thập niên 40. Sang thập niên 50 tôi bỉnh bút cho nguyệt san Liên Hoa, cơ quan ngôn luận của Tăng già miền Trung, do ngài làm Chủ nhiệm. Nên sau này càng ngưỡng phục nhân cách Hòa thượng Đôn Hậu qua hai hành xử rất dân tộc và Phật giáo. Thời Pháp chiếm lại Huế giữa thập niên 40, quân đội Pháp bắt ngài và định giết. Trong ba ngày chúng bắt ngài đào hố để xứ bắn. Ngài ung dung và trầm tĩnh vừa đào đất vừa tụng chú Đại Bi. Nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp nên ngài không bị giết và được trả tự do. Hành xử thứ hai tại Hà Nội năm 1969 khi ông Hồ mất. Đảng và Nhà nước yêu cầu Hòa thượng Đôn Hậu cùng các lãnh đạo tôn giáo thay phiên với Bộ Chính trị đứng gác quan tài ông Hồ. Dưới chế độ Cộng sản đây vừa là đặc ân, vừa là vinh dự cao cấp, nhưng đồng thời nhắm tuyên truyền rằng nhân dân các giới “kính yêu Bác Hồ”. Mặc, Hòa thượng Đôn Hậu khước từ, dù bao áp lực của Đảng. Ngài cho họ biết rằng truyền thống chư Tăng Phật giáo không lạy bất cứ ai (bất bái quân vương) ngoài Đức Phật. Bộ Chính trị bẽ lý luận này khi nói : “Hòa thượng tuy Tăng sĩ nhưng còn là một công dân tham gia cách mạng. Đây là nhiệm vụ và bổn phận công dân chứ không phải là Tăng sĩ”. Hòa thượng liền đáp : “Quý vị nói rất đúng, tôi xin thi hành nghĩa vụ công dân này. Tuy nhiên xin qúy vị thỏa mãn một lời yêu cầu của tôi để tôi an tâm thực hiện. Tôi tu học và xuất gia tại Huế, nay xin Đảng và Chính phủ cho tôi được về Huế xin phép chư Tăng cho tôi xả giới thôi làm Tỳ kheo Đôn Hậu để có thể trở thành công dân Đôn Hậu. Như thế việc gác quan tài Bác mới danh chính ngôn thuận”. Bộ Chính trị bực mình nhưng đành nói đưa : “Thời buổi Mỹ Ngụy còn chiếm đóng miền Nam, làm sao chính phủ đưa bác về Huế được !”. Rồi cho qua.

Hòa thượng Thích Đôn Hậu là người tôn giáo độc nhất trong các tôn giáo tại Việt Nam khước từ gác quan tài Hồ Chí Minh. Không như thập niên 80 khi ông Tôn Đức Thắng chết, Hòa thượng Thích Trí Thủ và Hồng y Trịnh Như Khuê được chỉ định đứng gác quan tài ông Tôn và hai vị đã thi hành. Trong tập Thơ Tù của Hòa thượng Thích Quảng Độ có bài “Sư Cụ và Đức Cha” châm biếm việc này,

Trước khi qua đời vào tháng tư năm 1992, Hòa thượng để lại Di chúc yêu cầu tang lễ thầm lặng, đơn giản dành cho nhà tu Phật giáo, không được tổ chức rầm rộ hay đọc điếu văn, nhằm ngăn ngừa Nhà nước cộng sản lợi dụng tang lễ tuyên truyền cho chế độ. Dự kiến của Hòa thượng đã thành sự thật khi Hà Nội giành quyền tổ chức tang lễ và cử người vào đọc điếu văn đồng thời gắn huy chương Hồ Chí Minh lên kim quan ngài. Thế là có sự phản đối của chư Tăng chùa Linh Mụ chống việc chính trị hóa tang lễ. Tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng, 50 Tăng Ni tuyệt thực. Chùa Linh Mụ báo động sang Paris nhờ tôi can thiệp. Nhân danh Cơ sở Quê Mẹ và trong vị thế Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tôi mở cuộc vận động quốc tế tại LHQ, các trung tâm quyền lực Âu Mỹ và các cơ quan truyền thông, báo chí quốc tế. Tin truyền nhanh nổ lớn, gây áp lực lên công luận thế giới giúp chư Tăng chùa Linh Mụ hoàn thành tang lễ theo Di chúc của Hòa thượng Đôn Hậu.

Hòa thượng Thích Nhật Liên, đệ tử y chỉ và Trưởng ban Tang lễ chùa Linh Mụ, đã đánh Fax cho tôi báo tin lành, cảm tạ và tặng tôi một bài thơ. Từ đó kéo đến cuộc đấu tranh quyết liệt của Phật giáo Huế dẫn tới cuộc biểu tình 40.000 (bốn mươi nghìn) người hôm 24.5.1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo, mà báo chí Hà Nội quy kết tôi chủ động điều khiển. Một cuộc biểu tình không tiền khoáng hậu dưới thời Cộng sản. Khiến Viện Khoa học Công an phải cấp tốc tổ chức cuộc Hội thảo “Diễn biến Hòa bình” ngày 26.6.1993 tại Hải Phòng với nhiều tham luận của các tướng Đặng Vũ Hiệp, Lê Quang Thanh, v.v.. đánh giá cuộc biểu tình Huế mang nguy cơ mất nước, và là “tiếng chuông cảnh tỉnh chúng ta về tác động hiện thực do khả năng địch tiến hành chiến lược diễn biến hòa bình”.

Tại tang lễ ở chùa Linh Mụ, Hòa thượng Thích Huyền Quang được cố Hòa thượng Đôn Hậu phó chúc làm người thừa kế lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để vận động đòi hỏi quyền sinh hoạt pháp lý của giáo hội. Vì vậy, nhà cầm quyền Hà Nội gia tăng đàn áp, khủng bố Hòa thượng Huyền Quang và hàng giáo phẩm đi theo con đường của cố Hòa thượng Đôn Hậu. Trong cuộc đấu tranh này tôi tiếp tục hỗ trợ Phật giáo ở cương vị một tổ chức nhân quyền ngoài Phật giáo (Quê Mẹ và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam) như 17 năm trước từng ủng hộ cho các giáo hội Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài hay các cá nhân, phong trào nhân quyền trong nước hoặc các văn nghệ sĩ, tù nhân chính trị ở các trại Cải tạo bị áp bức.

Tình hình đàn áp Phật giáo ngày một căng thẳng, Hòa thượng Thích Huyền Quang viết thư cảm ơn sự hỗ trợ của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, rồi tiếp đó viết thư tay mời tôi trở lại trực tiếp tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như trước năm 1975 để nhân danh giáo hội mở cuộc vận động quốc tế.

Tôi do dự rất nhiều.

Do dự vì bản thân tôi không muốn đi vào con đường cục bộ của một tôn giáo, một đảng phái. Mặt khác, cộng đồng thế giới, từ LHQ đến các tổ chức nhân quyền và chính giới Âu Mỹ cũng như cộng đồng người Việt biết tôi như người làm văn hóa và tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ Việt Nam qua danh xưng Cơ sở Quê MẹỦy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam mà tôi làm chủ tịch, chứ không là người của Phật giáo. Mặt khác tôi từng trải qua một kinh nghiệm đau buồn và thất vọng khi cộng tác với ông Nhất Hạnh cuối thập niên 60, nên tự hứa sẽ chẳng bao giờ dính dáng đến giáo hội nữa. Nhưng cuối cùng tôi nhận lời giúp và cho ra đời cơ sở mới của Phật giáo ở hải ngoại có tên “Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế”. Có thể nói từ 1963 đến nay chưa bao giờ Phật giáo có một cơ sở truyền thông mang tính quốc tế và đóng góp hữu hiệu cho công cuộc vận động hồi sinh Phật giáo và dân chủ hoá Việt Nam.

Sau khi Hòa thượng Thích Quảng Độ được đặc xá năm 1998, và trong vị thế Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ngày 27.8.1999, Hòa thượng ký Quyết định mang số 01/VHĐ/QĐ, công cử tôi làm Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế là cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Đạo trong nước.

Tôi nhận lời vì hai lẽ. Một là vì thế giới và truyền thông quốc tế đã hoàn toàn lãng quên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, dù Giáo hội đấu tranh cho mục tiêu tự do tôn giáo và nhân quyền, dân chủ sớm hơn bất cứ tôn giáo hay phong trào nào tại Việt Nam. Cuộc tự thiêu tập thể của 12 Tăng Ni ở Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, ngày 2.11.1975 phản đối chính sách cộng sản đàn áp Phật giáo và vi phạm nhân quyền là hành động minh thị ý hướng tự do và dân tộc của Phật giáo thoát ly khuynh hướng truyền đạo cục bộ. Chưa kể hàng nghìn bức thư của Viện Hóa Đạo khiếu kiện Cộng sản, vạch trần các sự thể đàn áp, bức hiếp Tăng Ni, Phật tử sau ngày 30.4.75.

Thứ hai là vì tôi thất vọng với số lớn các tổ chức đấu tranh ở hải ngoại không có tầm chiến lược, lại không theo kịp xu thế thế giới và trào lưu phát triển con người. Trong khi ấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là xã hội dân sự lớn nhất tại Việt Nam, có cơ sở quy mô và tổ chức rộng tới các cấp làng xã. Đây là lý do làm cho Đảng Cộng sản sợ hãi, biến thành chính sách đàn áp cơ bản của Nhà nước Cộng sản. Đảng có ý thức quần chúng hơn bất cứ ai nên rất sợ phải đối đầu với khối quần chúng lớn rộng có tổ chức của Phật giáo vốn không thần phục Đảng.

Tài liệu “Thống nhất Phật giáo” của cán bộ cao cấp Đỗ Trung Hiếu viết năm 1994 tiết lộ sự sợ hãi này. Cần biết ông Đỗ Trung Hiếu, bí danh Mười Anh, người Ninh Hoà, đảng viên cộng sản thâm niên, được Ðảng giao làm công tác Tôn giáo vận. Trước 1975, ông là Trưởng ban Trí Trẻ (vận động trí thức, sinh viên, học sinh) khu Saigon - Gia Ðịnh, công tác dưới quyền của Khu ủy Trần Bạch Ðằng. Sau 1975, ông được Xuân Thủy rồi Nguyễn Văn Linh và Trần Quốc Hoàn trực tiếp giao phó nhiệm vụ “thống nhất Phật giáo”, mà thành quả là sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Nhà nước) ngày 4 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Chính ông Xuân Thủy, người điều khiển Phái đoàn Hà Nội tại hòa hội Paris cuối thập niên 60, bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, kiêm bí thư Ðảng Ðoàn Ủy ban Mặt trận Trung ương, đã triệu ông Đỗ Trung Hiếu từ Saigon ra Hà nội đầu năm 1979 và giao cho ông Hiếu chức Chính ủy của Ðoàn công tác thống nhất Phật giáo Việt Nam, tức công cụ hóa Phật giáo làm tay sai chính trị cho đảng Cộng sản.

Bìa Phật giáo Thống nhất của ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo cao cấp, kiến trúc sư của Giáo hội Phật giáo Nhà nước ra đời năm 1981. Chưa đọc tập tài liệu quan trọng này, thì không thể nào hiểu hết âm mưu Đảng cộng sản biến tướng Phật giáo thành công cụ chính trị.

Do bất mãn chính sách tôn giáo của Đảng mà ông Hiếu viết tài liệu này. Qua 50 trang đánh máy, khổ A4, ông Ðỗ Trung Hiếu cho biết chi tiết từng tên tuổi các vị lãnh đạo Ðảng đến hàng giáo phẩm cao cấp Phật giáo, theo hoặc chống, trong quá trình thống nhất Phật giáo, do Ðảng chủ trương sau ngày Saigon sụp đổ năm 1975.

Ông Hiếu cho biết một cách chính xác chủ trương của Trung ương Ðảng và Ban Dân vận Trung ương về vấn đề thống nhất Phật giáo. Ông viết :

“Nội dung đề án là biến hoàn toàn Phật giáo Việt Nam thành một hội đoàn quần chúng. Còn thấp hơn hội đoàn, vì chỉ có Tăng, Ni, không có Phật tử ; chỉ có tổ chức bên trên không có tổ chức bên dưới, tên gọi là Hội Phật giáo Việt Nam (...) Nội dung hoạt động là lo việc cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội (...) Lấy chùa làm cơ sở chứ không phải lấy quần chúng Phật tử làm đơn vị của tổ chức Giáo hội”.

Về sự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Nhà nước hay Quốc doanh) tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4.11.1981, ông Hiếu nhận định :

“Thực sự đại biểu là giữa Phật giáo của ta và Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam đều là đại biểu dự Ðại hội, trong đó đại biểu của ta đa số. Chín tổ chức và hệ phái Phật giáo, Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một, còn lại tám với những danh nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều hoặc là ta hoặc là chịu sự lãnh đạo của Ðảng”. (...) Cuộc thống nhất Phật giáo lần này bên ngoài do các hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Ðảng”.

Kể từ Chỉ thị số 20 do ông Trần Xuân Bách thảo và Bí thư thứ nhất Lê Duẩn ký năm 1960, chủ trương trên đây là lập trường bất biến của Ðảng và Nhà nước cộng sản đối với Phật giáo. Chính ông Xuân Thủy trình bày và nhấn mạnh trong cụ thể cho Ðỗ Trung Hiếu khi bàn giao nhiệm vụ :

“Việc thống nhất Phật giáo Việt Nam theo tôi biết, Ðảng chủ trương thống nhất Phật giáo của ta với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang. Phật giáo của ta là “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” và “Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước” ở miền Nam. Ở miền Bắc, phật tử đã vào các đoàn thể quần chúng hết rồi, chỉ còn những cụ già đi lễ bái ở chùa ngày rằm, mồng một, theo tục lệ cổ truyền. Sư tiêu biểu thật hiếm. Cụ Trí Ðộ đã luống tuổi, quanh đi quẩn lại vẫn cụ Phạm Thế Long, nhưng khả năng đức độ của cụ ảnh hưởng trong nước và quốc tế hạn chế. Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước có khá hơn một tí. Cụ Minh Nguyệt (đảng viên cộng sản, theo ô. Hiếu) có thành tích ở tù 15 năm Côn Ðảo, cụ Thiện Hào (đảng viên cộng sản, theo ô. Hiếu) có thành tích đi kháng chiến, nhưng điều phật tử cần ở nhà Sư, cả hai cụ đều hạn chế.

“Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang là một tổ chức tôn giáo và tổ chức quần chúng mang tính xã hội chính trị có màu sắc dân tộc, thu hút đông đảo quần chúng và có uy tín trên thế giới, nhiều nhà sư tài giỏi. Nếu thống nhất theo Kiến nghị của cụ Ðôn Hậu, có nghĩa là giải thể “Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước”, sáp nhập “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” (ở Miền Bắc) vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chịu sự lãnh đạo của họ. Như thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát triển ra toàn lãnh thổ Việt Nam chứ không chỉ ở miền Nam như trước năm 1975.

Quan trng là Ðảng không bao giờ lãnh đo đưc Giáo hi Pht giáo Vit Nam Thống nhất, mà ngưc li Giáo hi Pht giáo Vit Nam Thống nhất trở thành mt tổ chức tôn giáo rng lớn có đông đảo quần chúng, là mt tổ chức có áp lc chính tr thường trc với Ðảng và chính phủ Vit Nam.

“Thống nhất theo dự án của ban Tôn giáo chính phủ chưa ổn lắm, vì chung qui cũng đưa các cụ ở Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (của Ðảng ở miền Bắc) và Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước (của Ðảng ở miền Nam) xách cặp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà thôi”.

Đấy, sức mạnh thực hữu và uy tín của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát ra từ miệng các ông trùm Cộng sản. Có đâu như gần đây một vài Tăng sĩ cơ hội, Phật tử cơ hội ở Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu, Châu Úc bêu riếu Giáo hội chỉ còn có hai người là đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ !

Không có ai, trong nghĩa chẳng ra gì, mà sao cả đại Bộ Công An ở Hà Nội cho đến bọn khuyển mã Giao Điểm, rồi ba nhóm Phật giáo cơ hội Về Nguồn, Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại, Thân hữu Già Lam không ngớt chửi bới, bôi nhọ, vu hãm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại còn tiếm danh Giáo hội để làm tiền xây chùa và mong mỏi không bị Cộng đồng Người Việt Tị nạn hỏi thăm về việc thỏa hiệp hay đi đêm với Hà Nội của bọn này ?

Thập niên 60 uy danh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lớn biết bao trong dư luận thế giới và qua các hãng tin quốc tế. Thế mà sau 1975 chẳng còn ai nhắc đến, năm thì mười họa mới có một dòng tin không gây xúc động hay mang lại niềm hứa hẹn. Phật tử hải ngoại đông nhưng vắng mặt trong những động thủ quốc tế. Đây là lý do khiến tôi muốn ra tay điều chỉnh sự bất công đối với Phật giáo Việt Nam trên trường quốc tế. Và điều chỉnh được kể từ năm 1992 trở đi.

Tôi nhìn Phật giáo Việt Nam trong thế toàn cầu, như một đóng góp nhân loại trước các vấn nạn khủng hoảng tư tưởng, văn hóa và nhân tâm.

Lý do thứ hai như đã nói sơ bộ ở trên, là sau khi nghiên cứu các hoạt động của một số tổ chức người Việt ở hải ngoại, tôi nhận thấy hoạt động thường vụ tuyên truyền hay để thỏa mãn tự ái một thời, nhưng lại thiếu thực chất và chủ lực. Không có viễn kiến hoặc thù ứng với xu thế thế giới. Đặc biệt không gia công tiếp cận, hậu thuẫn hay gầy dựng chủ lực trong nước. Vì không có chủ lực trong nước, nên bơm phồng những con số kháng chiến quân, những mật khu ảo, hoặc nay bốc tên người này mai bốc tên người khác dương đông kích tây hòng phát triển tổ chức đảng phái. Có khi dựa hơi vào những người bất mãn thuộc phe Mặt trận Giải phóng miền Nam cũ, hoặc cựu đảng viên Cộng sản… Bắn bừa lên truyền thông hàng loạt tên những người không chân đứng, không thế lực, miễn những người này chịu nhắc tới hai chữ “dân chủ”, “nhân quyền”. Bất cần quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” của những người này có phù hợp với tiêu chí dân chủ của thế giới tiến bộ hay không. Họ chỉ vụ tuyên truyền ồn động nhằm phát triển đảng hay tổ chức họ, mặt khác chứng minh cho dư luận là có một “phong trào dân chủ” tại Việt Nam; dù bất lực trong việc tổ chức cơ sở quốc nội hay đoàn ngũ hóa quần chúng; dù đằng sau tên các người họ đề cao có lực lượng hay không, được tổ chức ra sao, dân chủ kiểu nào. Cung cách hoạt động ăn xổi như thế không đưa tới giải pháp thay thế mà tuyệt đại đa số dân Việt trông đợi. Nhìn cách cư xử “đem con bỏ chợ” đối với đoàn viên của họ khi những người này bị bắt là biết ngay sự đầu cơ của họ. Khi đoàn viên họ bị bắt trong nước, chẳng có cơ sở thăm nuôi, bênh vực. Đến khi được trả tự do thì những “chiến sĩ dân chủ” hay “kháng chiến quân” ồn ào trước kia bỗng im bặt, ngưng luôn các hoạt động.

Chân nhận tính cách hoạt động không có tương lai như thế, tôi thấy cần giúp đỡ và phát triển những cơ sở thực hữu quốc nội, mà Phật giáo là một. Dù tình trạng quốc nội cũng khá nguy nan. Các đảng phái quốc gia mất chân đứng vì lãnh tụ nằm tù hoặc chạy ra nước ngoài. Quần chúng đảng phái bị siết cổ trong ba gọng kìm Cộng sản : chủ nghĩa lý lịch, công an khu vực và hộ khẩu. Ngoài đảng Cộng sản, đảng lớn nhất với số lượng đảng viên gần ba triệu, chỉ còn lại các tôn giáo như những xã hội dân sự còn sống sót. Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành… là những xã hội dân sự tồn tại dưới chế độ độc tài toàn trị. Nội hàm các tôn giáo đặt trọng tâm vào con người, nên nỗ lực thường xuyên bảo vệ con người trong nguồn sống tâm linh. Có thể nói quần chúng dân tộc hiện nay là quần chúng các tôn giáo, tiêu biểu là Phật giáo, đối đầu với thiểu số quần chúng tha hóa vì vọng ngoại là Đảng Cộng sản.

Muốn thay đổi thực trạng Việt Nam phải dựa vào quần chúng dân tộc. Không thể dựa vào các tổ chức ảo, sống bằng mộng ước xa rời thực tại, đang bị cắt lìa tổ quốc, hoặc hoạt động như con bài chờ thời chờ ngoại bang dẫn dắc.

Do thiếu hiểu biết về các tôn giáo khác, vì bản thân tôi theo đạo Phật và có liên hệ với giáo hội từ thập niên 40, tôi chọn xã hội dân sự Phật giáo thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để vừa bảo vệ Phật giáo trước sức tiến công tiêu diệt Phật giáo của chủ nghĩa Hư vô cộng sản, vừa đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Nếu tôi là người Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài… tôi cũng sẽ chọn lựa con đường tôn giáo tôi theo như thế. Nhưng điểm hẹn tối hậu và cuối cùng vẫn là Việt Nam - dân tộc Việt Nam.

11. Lê Thị Huệ: Nhìn lại các quốc gia tiến bộ đều là những quốc gia có nền văn hóa với nhiều ưu điểm, theo ông thì văn hóa Việt Nam có những ưu khuyết điểm nào trong việc phát triển quốc gia

Võ Văn Ái : Văn hóa hiện tại trong nước là văn hóa Mác-xít. Không phải văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam phát triển theo con đường truyền thống có tiếp thu qua lịch trình 2000 năm so với thế giới có nhiều ưu hơn khuyết. Điểm khuyết của nền văn hóa Việt Nam là chưa phát triển tận cùng Ý thức Dung hóa. Cụ Phan Khôi là người giải thích ý thức dung hóa khá hình tượng. Cụ bảo tằm ăn lá dâu nhả ra tơ, voi ăn bã mía chỉ thoát ra phân. Tôi hiểu ý thức dung hóa là con tằm.

Tục ngữ ví von khá cảm động : Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Cảm động và chan chứa tình quê nhưng không thực tế. Nhân loại ngày càng bước tới nền văn minh tổng hợp, vượt thoát biên giới quốc gia. Từ chân trời thiên niên kỷ thứ ba đã ló ra một nền văn minh xuyên hành tinh. Thế mà người Việt cứ quanh quẩn với cái “ao nhà” xem ra bất tiện và lạc hậu. Từ cái “ao nhà” chan chứa tình quê, nay biến thành quán tính và lối suy nghĩ cục bộ, vùng miền, địa phương, tất khó phát triển và tiến bộ, lại đánh mất tính nhân loại.

Truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long quân chia 50 con lên núi, 50 con xuống biển tạo dựng mối quân bình giữa trí tuệ (núi) và trái tim tức hành động (biển). Thế nhưng chúng ta quên mất thế quân bình giữa tim và óc ấy, để sống mãi với vong thức phân hóa, chia rẽ, tranh chấp.

Điều còn thiếu trong nền văn hóa Việt Nam là tính sáng tạo. Thiếu sáng tạo nên giỏi bắt chước. Giỏi bắt chước dẫn tới việc đi làm mọi cho người. Những thế kỷ xưa, khi Phật giáo tàn tạ vì giới Cư sĩ trí thức Phật giáo vắng bóng, đạo Phật rơi vào tay các ông thầy cúng, thì sĩ phu Việt Nam đi học Tàu, rất chăm và rất cố tín. Đầu thế kỷ XX sĩ phu Việt Nam thức tỉnh trước sự xâm lấn Tây phương. Nhưng sự thức tỉnh ấy chỉ đẻ ra hai giới trí thức làm mọi cho Tây phương thực dân và Tây phương cộng sản. Không thấy các ông sáng tạo được tư tưởng gì cho sự tự do tối hậu của con người, không đẻ ra một triết lý chính trị cứu dân cứu nước như ông Gandhi bên Ấn Độ.

Nước ta cần phát triển tính tự trào. Người Việt nghiêm trang quá. Nghiêm trang đến nghiêm trọng, rồi quan trọng hóa cá nhân mình thành những thần hoàng xa lạ, cô đơn nơi miếu thờ. Khiến cho một quốc gia mà số tổng thống đông hơn dân. Ta biết châm biếm và châm biếm giỏi, nhưng là châm biếm người khác. Không biết tự trào, tự châm biếm mình, không biết tự thân phục thiện, tự thân cầu thị.

Do vị thế địa chính làm cho đất nước bị kẻ mạnh thường xuyên xâm lấn, châm biếm trở thành vũ khí của kẻ yếu. Xài lâu qua trường kỳ lịch sử với bọn ngoại xâm, nay quay ngược trở thành châm biếm nhau trong cộng đồng dân tộc. Không còn biết quý trọng nhau. Nhân tài của nước Nhật được trân quý như Quốc bảo mỗi khi họ đi ra nước ngoài, được tôn vinh và bảo vệ. Nhân tài nước ta bị dân ta xúc xiểm, đàn hặc, ác khẩu châm biếm, miệt thị. Nay sự châm biếm vô ý thức ấy được bồi dưỡng thêm nền văn hóa chửi, nền văn hóa cáo buộc của Cộng sản, chúng ta biến châm biếm thành mạ lỵ tục tằn, thành bia miệng giết người. Đánh mất sự khôn ngoan của tổ tiên Khôn ngoan đá đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Cầu mong văn học nước ta xuất hiện một Lỗ Tấn, một Bá Dương, một Cervantès. Lỗ Tấn của Cố sự tân biên (Chuyện cũ viết lại), Bá Dương của Người Trung quốc xấu xí, Cervantès của Don Quichote, để sau đó tượng hình cho tư tưởng Việt - tư và tưởng cho con đường siêu vượt mọi giới hạn (Grenzsituation).

12. Lê Thị Huệ: Ông trả lời như thế nào khi Việt Nam nói nhân quyền là vấn đề thuộc về văn hoá, và Việt Nam có văn hóa riêng về nhân quyên

Võ Văn Ái : Chị muốn nói Việt Nam đây là Nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội phải không ? Chỉ có Cộng sản Hà Nội mới lụm ca lụm cụm phát huy “Ngoại lệ nhân quyền Châu Á” như thế. Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền Hà Nội đại biểu cho ý thức hệ ngoại lai Tây phương Cộng sản. Họ thiếu hiểu biết và không có tư cách để nói về văn hóa Việt Nam.

Tháng 5.1997, Viện Nghiên cứu Bắc Âu về Á châu học thuộc Đại học Copenhagen, Đan Mạch, cùng Trung tâm Nhân quyền Đan Mạch kết hợp với Bộ Ngoại giao Đan Mạch tổ chức cuộc Hội luận “Nhân quyền và các giá trị Châu Á” mời các học giả Anh, Bắc Âu, Đài Loan, Hoa Kỳ, Hồng Kông, Tây Âu và Úc đến tham luận. Tôi được mời tham dự cho Việt Nam. Bài tham luận của tôi “Human Rights and Asian Values in Vietnam” (Nhân quyền và Giá trị châu Á tại Việt Nam) sẽ là câu trả lời đầy đủ cho chị. Bài này được chọn cùng với 13 tham luận in trong sách “Human Rights and Asian Values, Contesting National Identities and Cultural Representations in Asia” do nhà xuất bản Curzon Press ấn hành tại Anh quốc năm 2000.

Nói tóm gọn có thể diễn trình như thế này : Á châu đi trước Tây phương rất lâu về Quyền Con Người. Quyền Con Người ở phương Đông đứng ở vị trí vũ trụ, chứ không chỉ ở vị trí pháp quyền trong xã hội phương Tây. Cần hiểu vũ trụ trong nghĩa là không gian, trụ là thời gian, cũng như thế giới thì thế là thời gian, giới là không gian, hai phạm trù quy định sự suy tưởng và cuộc sống con người.

Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền LHQ được công bố năm 1948, manh nha và gợi hứng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền thời Cách Mạng Pháp 1789 và 1793, từ Glorious Revolution/Bill of Rights của Anh quốc năm 1688 - 1689, và từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776. Nhưng gần ba nghìn năm trước, Đức Phật đề cao địa vị độc tôn của Con Người trong 6 thế giới (gồm 3 cõi lành - cõi Trời, cõi A Tu La, cõi Người - và 3 cõi ác - Súc sinh, Quỉ đói và Địa ngục). Khi Phật Thích Ca phát ngôn “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, thì địa vị con người không còn bị khinh miệt, trái lại rất cao cả và ở địa vị trung tâm. Giác ngộ dễ thực hiện nhất ở thế giới con người, là lời Phật dạy. Vì cõi trời sung sướng nên giãi đãi, cõi súc sinh quá khổ lụy để nghĩ tới việc tiến thân.

Hệ thống Tam tài của Khổng giáo – Thiên Địa Nhân – đặt con người ở vị thế trung gian, nối liền giữa trời và đất. Câu nói của Mạnh Tử “Người dân quý nhất, vua nên xem nhẹ, đất nước là thứ yếu” (Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi) là một phát biểu đề cao và tôn trọng Quyền Người, Quyền Dân.

Các nước độc tài, độc đoán, quân phiệt ở Á châu như Trung quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai của Mahathir… cao giọng vào đầu thập niên 90 đòi hỏi “Ngoại lệ Nhân quyền Châu Á” là thủ thuật bế môn tỏa cảng để đàn áp dân lành và ngăn cản xự can thiệp của các nước Âu Mỹ trên lĩnh vực nhân quyền. Xin làm thành viên LHQ tất phải tôn trọng Hiến chương, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các Công ước quốc tế của LHQ. Hà cớ gì chữ ký chưa ráo mực đã phản bội các công ước LHQ khi đòi hỏi biệt lệ nhân quyền Châu Á ? Ông Hồi giáo Mahathir của Mã Lai còn lên tiếng đòi viết lại bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế cho phù hợp với Châu Á ! Có nền văn hóa nào trên thế giới xem khinh con người ? Ngoại trừ nền văn hóa không-có-con-người của Cộng sản - cá nhân là con số không trong tập thể.

Các cuộc Hội thảo do Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam thuộc cơ sở Quê Mẹ tổ chức tại Điện Quốc Liên ở Genève hằng năm vào dịp Uỷ hội Nhân quyền LHQ họp thường niên, để vận động các phái đoàn chính phủ và phi chính phủ lưu tâm tới những vi phạm nhân quyền trầm trọng tại Việt Nam. Trên đây là bích chương do chúng tôi mời tham dự Hội thảo về đề tài “Nhân quyền & Ngoại lệ Nhân quyền Châu Á”, với sự tham dự phát biểu của Nguỵ Kinh Sinh (Trung quốc), Giải Nobel Hoà bình Jose Ramos-Horta, Võ Văn Ái (Việt Ban), Haung Htun (Miến Điện), Lobsang Nyandak (Tây Tạng).

Việt Nam có văn hóa riêng về nhân quyền. Đúng. Nhưng trong nghĩa bổ sung sự cao đẹp nhân quyền, chứ không chống bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Việt Nam đây là Việt Nam không Cộng sản. Trái lại, nhân quyền Cộng sản là Trại Tập trung Cải tạo lao động, là tố khổ, là tòa án nhân dân, là thảm sát người hiền lương, là phỉ nhổ nhân phẩm. Làm sao có được nhân quyền trong chủ nghĩa không-có-con-người của Cộng sản ?! Vì vậy mà ngày bỏ phiếu thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền tại đại hội đồng LHQ năm 1948, Liên Xô và 5 nước chư hầu Ba Lan, Belarus, Tchecoslovaquie, Ukraine và Yougoslavie bỏ phiếu trắng vì chê Tuyên ngôn “lỗi thời”, “lạc hậu”. Hai nước chống là Arabie Saoudite và Nam Phi. Arabie Saoudite không chấp nhận việc con người có quyền thay đổi tôn giáo, không chấp nhận kiểu sống một vợ một chồng và không chấp nhận triệt tiêu chế độ nô lệ. Còn Nam Phi cho rằng việc cấm phân biệt đối xử là quá đáng.

Bộ luật Hồng Đức đời Lê mới là văn hóa nhân quyền của Việt Nam tiền Cộng sản, khiến giáo sư Olivier Oldman ở Đại học Havard, Hoa Kỳ, đánh giá cao bộ luật đời Lê này. Ông viết : “Việc xây dựng một nhà nước dân tộc mạnh với sự bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp bằng hệ thống luật pháp tiến bộ so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”.

Tôi xin đơn cử vài điều để so sánh luật thời Lê, thời vua chúa phong kiến nói theo ngôn ngữ Mác-xít Hà Nội, với “luật pháp” dưới triều đại Hồ Chí Minh, thời của “đỉnh cao trí tuệ” :

Trong bộ luật thời Lê, ở điều 2 về Thập ác, tức 10 điều ác, thì tiết 1 về tội mưu phản, gọi là mưu mô làm nguy đến xã tắc, tiết 3 về tội mưu chống đối, tức mưu phản nước theo giặc. Ta thấy rõ luật pháp ở thời Lê liên hệ đến xã tắc, tức quốc gia, dân tộc, liên hệ đến việc giữ nước. Còn thời nay, các tội ấy liên quan riêng chế độ Cộng sản, chẳng liên quan chi đến đất nước. Người dân bị trừng phạt là những người có quyết tâm bảo vệ xã tắc và dân tộc, bảo vệ Tổ Hồng Bàng, nhưng không chịu thờ lạy ông Mác, ông Mao, ông Lênin.

Điều 3 trong Quốc triều hình luật thời Lê quy định 8 trường hợp được giảm tội, gọi là Bát nghị, thì có 3 trường hợp giảm tội cho những người có đức hạnh lớn, gọi là Nghị hiền, những người có tài năng lớn, gọi là Nghị năng, và những người cần cù, chăm chỉ, gọi là Nghị cần. Còn ngày nay, dưới chế độ Cộng sản, thì pháp luật bỏ tù, hành hạ, ngược đãi tất cả các hiền nhân lãnh đạo tôn giáo, các nhà trí thức, chuyên gia, văn nghệ sĩ, các nông dân, nghệ nhân, chẳng phân biệt ai. Cộng sản không cần người hiền, người tài, người cần cù cho tổ quốc, họ chỉ cần những tên nô lệ gọi dạ bảo vâng.

Điều 16 trong Quốc triều hình luật thời Lê, thì những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người phế tật đều được giảm khinh, cho phép chuộc tiền để thay tội ; từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống mắc tội chết thì phải tâu vua xét lại ; từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống có bị tội chết cũng không hành hình, đặc cách không thích vào mặt. Còn ngày nay dưới thời đại nhà Hồ, thì già đến 90 tuổi, 80 tuổi, 70 tuổi, trẻ đến 15 tuổi, 10 tuổi, 7 tuổi đều bị trừng trị không nương tay, và ở tù mút mùa. Tại các trại Cải tạo lao động, như trại Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai là một, những người già, bệnh, run rẩy 70, 80 tuổi đang chết mòn. Còn thiếu nhi, từ bé sơ sinh đến 9, 10 tuổi đầy dẫy trong các trại này.

Đấy, nội dung nhân quyền giữa một chính quyền dân tộc và một chính quyền ngoại lai mác-xít là như thế.

13. Lê Thị Huệ: Ông nghĩ gì về chủ nghĩa Cọng Sản và những hệ quả của nó trên đất nước Việt Nam

Võ Văn Ái : Chủ nghĩa Cộng sản là Hư vô chủ nghĩa, tập đại thành tiêu cực của triết lý Tây phương từ Platon đến Marx. Một chủ nghĩa Không-Có-Con-Người. Nó chỉ sản sinh loài nô lệ. Nô lệ là kẻ sống bằng giấc mộng của kẻ khác, mệnh lệnh của kẻ khác. Kẻ khác sáng thế ra nó. Nó mất khả năng sáng tạo của con người toàn diện và toàn bộ trong các tương quan cá thể với thế giới, với mọi loài, và vũ trụ. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ biết thống trị, không biết thành tựu thế mệnh nhân sinh.

Chỉ có Tuệ giác Siêu việt Bát Nhã của Không tính (Śūnyatā) Phật giáo mới có thể phá đổ toàn triệt tất cả chủ nghĩa Hư vô[7].

Phê phán của Marx về tư bản Tây phương thế kỷ XIX có tính công bằng và nhân đạo. Nhưng từ khi Lenine đem phê phán kinh tế và xã hội của Marx vào áp dụng chính trị Bolchevik ở Nga, rồi kế tục với Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, thì chủ nghĩa Cộng sản biến thành chủ nghĩa hút máu, một thứ chính trị côn đồ - Voyoucratie - tập trung vô liêm sỉ các quyền lực quốc gia.

Marx để lại cho con gái Laura một thủ bản viết bằng tiếng Anh như lời tự thú khi ta đem so sánh với những chi đảng Cộng sản thực hiện trên địa cầu : “Ý tưởng của cha về sự khốn cùng là sự ngoan ngoãn phục tùng (submission) và cái tật mà cha ghét nhất là sự nô lệ đê hèn (servility)”.

Hệ quả của chủ nghĩa Cộng sản trên đất nước Việt Nam còn gì phải hỏi : lỗi thời và tụt hậu vào hạng bét trên bảng thứ nhân loại từ tinh thần đến vật chất. Đưa một nước phú cường so với các nước Đông Nam Á trong vùng vào thập niên 60, 70, ngày nay tụt hậu sau các nước như Singapore, Thái Lan… Đại công thần của Nhà nước cộng sản là Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng phải thán lên trong thời gian chuẩn bị Đại hội X Đảng Cộng sản năm 2006 rằng : “Phải thấy rằng, đến năm 2020, nước ta vẫn còn là một nước kém phát triển ngay trong nhóm các nước ASEAN, vẫn còn thua Thái Lan khoảng 20 năm về chỉ tiêu GDP tính theo đầu người” !

14. Lê Thị Huệ: Bây giờ nhìn lại, ông nhìn cuộc chiến Việt Nam vừa qua như thế nào ?

Võ Văn Ái : Đây là cuộc chiến thừa sai của hai khối Tư bản và Cộng sản. Người Việt Nam không có tiếng nói, không đạt được mục tiêu sơ đẳng là độc lập, hòa bình, nói chi tới tự do và dân chủ. Bi kịch thảm thương của nước Việt là số người chết cả hai bên Nam Bắc lên tới 8 triệu (lính và thường dân), chưa kể đất đai, rừng núi, nhà cửa bị tàn phá, văn hoá vong thân.

Ấn Độ, Phi Luật Tân, Miến Điện, Singapore, … giành độc lập không thông qua chiến tranh đổ máu như Việt Nam cộng sản. Đâu là thần trí và văn hiến Việt Nam mà ta cứ hãnh diện hoài ? Cho nên trách nhiệm này Đảng Cộng sản phải chịu trước lịch sử.

Trách nhiệm thương đau này cũng đến từ giới lãnh đạo chính trị và trí thức. Cuộc va chạm với Tây phương thế kỷ thứ XIX chỉ đẻ ra được hai lớp trí thức theo Tây phương Tư bản và Tây phương Cộng sản. Không hội tụ thành giới sĩ phu dân tộc khôn ngoan đảm lãnh việc nước như ta chứng kiến tại Nhật Bản, Singapore, Nam Hàn, Đài Loan.

Một phần khác còn có trách nhiệm của thực dân Pháp. Nhà nước thuộc địa Pháp chỉ đẻ ra giới quan lại làm khuyển mã, tay sai, nhưng không đào tạo những cán bộ hành chính. Biến động 1945 ập tới, cả bộ máy quốc gia tan vỡ, không người điều hành, bỏ ngỏ cho những tay mơ cộng sản thao túng với mục tiêu Xô viết hóa dân tộc chứ không là xây dựng bộ máy nhà nước quốc gia.

Trái lại tại các quốc gia thuộc Anh, ngoài tính cách thực dân, Anh quốc chú tâm đào tạo quy mô và hệ thống giới viên chức hành chính tới cấp làng xã. Nhờ vậy sau biến động giành độc lập, các cơ quan hành chính toàn quốc không bị xáo trộn, khủng hoảng, mà được tiếp tục điều hành ổn định.

Trên đây chỉ đề cập hình thái vận hành một xã hội theo mô thức nhà nước. Chưa đề cập hay đặt lại vấn đề căn cơ là thể tính con ngườisử tính dân tộc.

15. Lê Thị Huệ: “Nguyễn Trãi, Sinh Thức Và Hành động”, tác phẩm thể hiện triết lý sống của ông? Ông đã viết tác phẩm này với mong ước gì ? Và Nguyễn Trãi là một mẫu trí thức dấn thân, bây giờ Nguyễn Trãi thời đại này phải làm cái gì ?

Võ Văn Ái : Ba lý do khiến tôi viết “Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành động”.


Hình bìa Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động, Quê Mẹ ấn hành 1981, 1985, 1992

Nhận thấy đa số trí thức Việt Nam, từ Bắc chí Nam của hai chế độ, ca tụng những ông thần hoàng Tây phương, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, triết học, văn hóa… tôi tự thấy nên bỏ công nhìn lại lịch sử và nhân tài nước mình xem dân Việt có gì đáng hổ thẹn trên học trường thế giới. Đó đã là bước đầu khi tôi tiếp cận với Nguyễn Trãi giữa thập niên 60. Tôi nhận xét trong cuộc chiến tranh lúc bấy giờ, Hà Nội sử dụng lá bài dân tộc khi cho ra hàng loạt bài và sách nghiên cứu về Nguyễn Du, mà trước kia có thời họ chỉ trích, và Nguyễn Trãi, v.v… Thoạt đầu sự trở về cội nguồn dân tộc, nguồn cổ văn làm tôi xúc động. Nhưng đọc các công trình này mới thấy chủ ý họ khai thác tình tự dân tộc cốt phục vụ cuộc chiến tranh Chống Mỹ, mà chống Mỹ là chống cho Liên Xô, làm lính đánh thuê cho Liên Xô, không cho dân tộc Việt. Một thứ tâm lý chiến, hơn là đào sâu và bộc lộ tính dân tộc trong việc giải quyết cuộc tranh chấp phân đôi thế giới để Việt Nam có con đường chính trị mới. Truyền thống Việt Nam gọi là “bốn nghìn năm văn hiến” không đẻ ra được một Gandhi, một Nerhu như ở Ấn Độ.

Tôi nhớ hồi thập niên 60 có dịp trao đổi chính tình Việt Nam với ông Jean Sainteny, tác giả sách “Histoire d’une Paix manquée”“Face à Ho Chi Minh”. Ông là một nhân vật chính trị Pháp thuộc phe kháng chiến của tướng De Gaulle trong thế chiến hai, dính líu vấn đề Việt Nam những năm 45 và là bạn của ông Hồ Chí Minh. Ông Sainteny nói với tôi rằng người Cộng sản Việt Nam dùng lá bài dân tộc với mục tiêu cộng sản hóa đất nước. Hơn chục năm sau, tôi bắt gặp lại ý kiến ấy nhưng cụ thể hơn trong sách “Duel Rouge” của François Missoffe nói về cuộc tranh chấp giữa 200 triệu người Xô Viết chống 800 triệu người Tàu. Ở chương 7 sách này, Missoffe tiết lộ cuộc chuyện trò với một đại tá tình báo Liên Xô tại Hà Nội năm 1945. Đại tá này nói đến chiến lược xích hóa các nước đệ tam thế giới của Liên Xô. Ta nên chú ý thời điểm của câu chuyện là năm 1945, thì mới tỏ tường các biến động lịch sử sau đó ở Việt Nam, Cuba, Ai Cập, Angola, v.v… Vị đại tá Liên Xô nói với François Missoffe :

“Chính trị cơ bản của Liên Xô thật dản dị. Phá đổ các cựu cường quốc Tây phương và Hoa Kỳ đang là vật cản hiển nhiên trước mắt chúng tôi. Chúng tôi có hai cách tiếp cận. Một là nuôi dưỡng các đảng Cộng sản ở bên trong. Hai là cắt đường những cường quốc Tây phương với kho nguyên liệu, nghĩa là chận đường tới các thuộc địa cũ. Để hoàn tất việc này chúng tôi thực hiện kế hoạch ba giai đoạn.

“Giai đoạn một, tái tạo hay phát kiến ý thức quốc gia thúc đẩy quần chúng giành độc lập. Việc này có nghĩa giúp đỡ nghiên cứu, khai quật khảo cổ học để chứng minh rằng, hai ba nghìn năm trước Jésus-Christ đất nước đã có cư dân, cần sáng tạo hoặc khôi phục lịch sử. Ý thức độc lập sẽ phổ biến nhanh chóng và kích động giới trí thức và sinh viên… Thật dễ kiếm trong số người Đông dương theo học ở Sorbonne. Cũng dễ tìm những thanh niên thuộc quốc du học các trường bên Anh không cứ gì ở đại học Oxford. Tất cả giới trí thức này đều khao khát tham chính.

“Như ngọn lửa cháy rừng, giai đoạn một này chẳng khó khăn chi. Giai đoạn hai : Ý thức quốc gia chắc chắn nổ ra tranh chấp với thế lực thuộc địa. Ở đây chúng tôi có thể hậu thuẫn giới đòi độc lập dân tộc. Trong mọi trường hợp các anh khó đối diện với cuộc đấu tranh giành độc lập, vì nó nổ ra khắp mọi nơi, các anh ở xa hậu cứ, và các anh không thể giết hết mọi người. Kết luận : các anh buộc phải thương thảo với chúng tôi, còn chúng tôi thăng tiến quan điểm của chúng tôi [trên địa cầu].

“Một khi thu hồi độc lập, quốc gia trẻ trung còn mong manh và bị cô lập. Muốn có đủ phương tiện tất phải chọn theo một chế độ. Các quốc gia này có nhu cầu kết hợp. Quanh cái gì ?Chẳng cần là tiên tri, cũng có thể mường tượng ra. Kết hợp quanh một ý thức tôn giáo, hay quanh một ý thức chính trị. Ở Á châu này, tôi không tin tôn giáo là chất keo dính kết. Ý thức tôn giáo còn quá khuếch tán, nào là Hồi giáo, nào là Phật giáo…Làm sao liên kết mọi người quanh một chọn lựa tôn giáo thống hợp ? Chỉ còn lại ý thức chính trị, đó là đảng Cộng sản”. (Duel Rouge, François Missoffe, NXB Ramsay, Paris, 1977, tr. 33)

Trở lại câu hỏi của chị. Vấn đề dấn thân chỉ là phụ. Chính yếu là nan đề tư tưởng và thần trí một dân tộc. Cho nên khi viết về Nguyễn Trãi tôi cố tìm tòi, sờ mó, xem tư tưởng Việt Nam là gì, thần trí Việt Nam là gì? Làm sao thoát ly thứ Praxis manh động nhị nguyên của Cộng sản ? Trong cùng ý hướng và thời kỳ này, tôi dịch bản kinh cơ bản tiếng Phạn của Phật giáo Prajāñāparāmita hrdayasūtra / Kinh Ruột Tuệ giác siêu việt – Biện chứng phá mê trừ khổ. Tàu gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh.

Hình bìa Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt – Biện chứng Phá mê Trừ Khổ, Thi Vũ dịch và chú giải bản kinh chữ Phạn Prajāñāparāmita dayasūtra, Nhà Xuất bản Rừng Trúc, Paris'hr 1973

Lý do thứ hai, là trước cuộc khủng hoảng tâm thức và chính trị Việt Nam qua cuộc chiến tranh dữ dội, tàn khốc cuối thập niên 60 tôi muốn đối thoại với người làm chính trị Việt Nam, đặc biệt giới thanh niên, sinh viên, rằng có một con đường chính trị hào hùng Việt Nam ở thế kỷ XV. Đó là bản « Tâm pháp » của Nguyễn Trãi khai triển ở chương 9 như một Thông điệp chính trị của hồn thiêng sông núi.

Lý do thứ ba, tôi muốn kín đáo làm cuộc đối thoại với các học giả mác-xít ở Hà Nội. Cuốn sách viết xong năm 1971 tôi mong được in ở Saigon như một tiếng nói từ phương Nam. Nhưng anh Thanh Tuệ của nhà An Tiêm trì hoãn, chẳng hiểu lý do gì ? Cuốn sách gửi riêng cho các bạn tri âm được các anh Quách Tấn, Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương ngạc nhiên và tán thưởng sự tiếp cận của riêng tôi. Sau đó anh Mặc Đỗ, một tri âm khác, Giám đốc Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký tình cờ đọc bản cảo viết thư xin tôi giao quyền xuất bản với tiền nhuận bút khá hậu hĩ. Tôi biên thư dàn xếp với Thanh Tuệ, nhưng anh ta không khứng, mặc dù chúng tôi chẳng có giao kèo gì. Chỉ là chuyện tình cảm, mà Thanh Tuệ là đệ tử của Nhất Hạnh. Tạp chí Bách Khoa có giới thiệu một hai chương rồi chẳng bao giờ được in trong nước.

Đến năm 1981 do hoạt động cho Con Tàu ra Biển Đông vớt Người Vượt Biển (Tàu Đảo Ánh Sáng) tôi bị Hà Nội, Đảng Cộng sản Pháp cho đến mấy ông « quốc gia » ở Paris phá. Hậu quả là nhà in của chúng tôi ở Paris lâu nay tài trợ cho việc tranh đấu và in tạp chí Quê Mẹ bị vỡ nợ và bị tịch biên gia sản. Vào lúc xé lòng ấy tôi mới nghĩ chuyện xuất bản “Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành động” như kỷ niệm một thời. Sau tái bản hai lần vào 1985, 1992.

Lý do đối thoại là tôi biết ở Hà Nội có những học giả uyên thâm, nhưng bị chế độ kềm kẹp văn hóa, không ai dám lên tiếng lại không có hoàn cảnh trước tác. Giới học giả của chế độ thì vô tình hay cố ý bị vo tròn theo luận điểm nhà nước Mác – Lê, nên sự khai thác vốn cũ dân tộc của các ông Nguyễn Hồng Phong, Trần Huy Liệu, v.v… quá sai lệch, nguy hiểm. Ông Hà Văn Tấn một học giả uyên thâm, có công trình độc đáo khi viết về ba cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông. Nhưng bước sang lĩnh vực Phật học, thì tỏ rõ học thuật Mác-Lê miền Bắc chỉ vụ đấu tranh giai đoạn. Không vào sâu quá trình nghiên cứu. Nhân đọc bài ông Tấn viết trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 1965 về 100 cột kinh Phật do Tiết độ sứ Nam Việt Đinh Liễn sai khắc năm Quý Dậu (973) mà Hà Nội khai quật và phát hiện ở Hoa Lư năm 1963, tôi hiểu ngay nền Phật học suy tàn ở miền Bắc. Thăng Long đất khởi phát huy hoàng nền Phật giáo Lý Trần, đất Chấn hưng Phật giáo năng động vào những năm 30 với nhiều nhà học Phật uyên thâm như Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, Trần Trọng Kim, Nguyễn Trọng Thuật, v.v… thế mà nay giới học giả Hà Nội viết về đạo Phật như một tư tưởng yếm thế, tiêu cực, lỗi thời. Có đôi chỗ tôi không đồng ý với ông Hà Văn Tấn về từ ngữ và thuật ngữ Phật giáo qua bản ông dịch thần chú Phật đỉnh tôn thắng đà la ni, nên tôi viết như một lời đối thoại về Phật học với giới học giả Mác xít miền Bắc trong chương 5 sách Nguyễn Trãi,.

Chị hỏi bây giờ Nguyễn Trãi thời đại này phải làm cái gì ? Tôi không là Nguyễn Trãi để trả lời. Chỉ tin quyết rằng, nếu chúng ta chịu sống lại cái sống của tiền nhân ở những giai kỳ sinh mệnh đất nước treo trên sợi chỉ mành, sống như người Tàu xưa kia đêm nằm giường gai, mỗi sáng ra nếm mật để nuôi chí, tất biết phải làm gì trong hiện tiền một cách sáng tạo thay vì tụ thủ bàng quan hay đi làm đầy tớ cho ngoại bang.

16. Lê Thị Huệ: Quyển “Luận Chiến Nước Ngoài”, với tiêu đề nhỏ là "Đi Tới Tận Cùng Sự Hoá Giải Dân Tộc" được tái bản lần thứ hai vào năm 1991. Đã gần hai mươi năm trôi qua, mở quyển sách của ông ra đọc lại, tôi vẫn có cảm tưởng như tình hình Việt Nam không xê dịch chút nào ? Ông có hi vọng gì về một sự hoá giải nào sẽ xảy ra cho xứ sở ấy không ?

Võ Văn Ái : Chị nhận xét đúng. Mấy năm trước anh Ngô Vương Toại phụ trách mục Điểm sách trên Đài Á châu Tự do, một hôm gọi điện qua Paris xin phỏng vấn tôi về sách “Luận chiến Nước ngoài” mà anh bảo đọc vẫn thấy rất mới ở đầu thiên kỷ thứ ba này.

Hình bìa Luận Chiến Nước Ngoài, Quê Mẹ ấn hành 1990, 1991

Tình hình Việt Nam có xê dịch gì đâu ! Người Cộng sản và người Chống Cộng vẫn hầm hè nhau trên một cái statu quo. Quê hương chưa tìm thấy sinh lộ. Cần có một tiếng nổ giữa tâm tư, một sự thức tỉnh, một chớp giác ngộ trong lòng giới sĩ phu Việt Nam, mới mong có biến động.

“Hòa giải hòa hợp dân tộc” là lá bài chính trị mà Cộng sản Hà Nội tung ra như mẻ lưới gom dân vào cảnh chim lồng cá chậu. Được đưa vào bản Hiệp ước Paris năm 1973 để sập bẩy kẻ nhẹ dạ và ngây thơ chính trị. Hàng chục năm qua, lá bài chính trị này được đem ra xài lại nhằm phá vỡ thế kết hợp Cộng đồng dân tộc, khơi dậy “tình quê hương” mẹ mìn để diệt mầm chống kháng, và khoanh vùng các lực lượng dân tộc. Vài con cá đã vào lừ, tiêu biểu cho viên chức cũ có Nguyễn Cao Kỳ, tôn giáo có Nhất Hạnh, văn nghệ sĩ có Phạm Duy.

Hóa giải thì khác. Nội hàm của Hóa giải là ba bước chuyển vận tâm thức : Hóa giải sự mê hoặc của ý thức hệ ngoại lai Cộng sản ; Hóa giải sự nghi hoặc tự thân vì dao động trước những chướng ngại của thời thế ; và Hóa giải nguy cơ thành Giải pháp thay thế, một Giải pháp mới cho dân tộc.

Hóa giải không là phép lạ xuống từ trời cao. Hóa giải chỉ xẩy ra bằng ba cách : Một là người Cộng sản và người Chống Cộng bỗng một sáng thức dậy thấy rằng quê hương không thể tụt hậu như 64 năm qua, 85 triệu dân không thể đói nghèo, mất tự do như 64 năm qua nữa. PHẢI LÀM MỘT CÁI GÌ ! Vấn đề là cái gì đó là CÁI GÌ ?

Hai là những người không-Cộng-sản kết liên thành lực lượng thực hữu, có sách lược, đồng thời tạo được chủ lực trong nước và viện lực quốc tế, nắm thế tương quan lực lượng với người Cộng sản thương thảo cho một giải pháp mới : Giải pháp dân tộc.

Ba là cuộc bạo loạn lật thay thời thế.

Nếu một trong hai điều trên không xẩy tới, điều thứ ba sẽ hiện ra. Khác nhau là ta sẽ có một chuyển tiếp hòa hài và tích cực cho việc tái thiết đất nước khi cách một hoặc cách hai xẩy ra. Cách thứ ba mù mịt về tiền đồ, bởi cộng sản, hậu cộng sản hay phát xít sẽ thay nhau sau cuộc bạo loạn lấn áp ngưỡng vọng tự do, dân chủ của quần chúng.

Châm ngôn của Đảng Cộng sản từ năm 1945 là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc sở dĩ không thành đạt là vì ông Hồ Chí Minh đánh cắp khẩu hiệu nghe kêu này của ông Tôn Trung Sơn (Quốc dân đảng Trung quốc). Chứ tự thân ông Hồ và đảng Cộng sản không nghĩ ra tiêu chí này đâu, cũng chẳng cố công và cố tâm làm cho ra lẽ. Ông Hồ là chúa bắt chước và chúa thời cơ.

Năm 1990 khi Hà Nội còn bị Tây phương cấm vận, cô lập, chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, tôi có làm một dự án Hóa giải mà qua đó người Việt dân tộc nắm phần chủ động. Ấy là tổ chức một Hội nghị Việt Nam do người Việt dân tộc đứng ra chủ súy. Xưa nay các hội nghị Việt Nam, như hội nghị Genève năm 54 rồi Hội nghị Paris năm 73 đều do các thế lực quốc tế khai mở và nắm phần quyết định. Đề xuất của tôi năm 1990 là lần này do người Việt, và người Việt dân tộc, đứng ra điều động tổ chức. Hội nghị tổ chức tại một thủ đô Châu Âu hay Châu Á, mời Hà Nội tới họp với các thành phần đảng phái quốc gia, các thành phần dân tộc không phân chính kiến, tôn giáo. Bỏ ngoài cửa hội nghị tất cả mọi thiên kiến, thành kiến, ý thức hệ. Quanh bàn hội nghị thảo luận duy nhất một nan đề là làm sao phát triển Việt Nam cho dân được no ấm và nước được hội nhập vào cộng đồng văn minh dân chủ thế giới. Tôi mang bản dự án này bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Anh đi hỏi ý kiến các nhân sĩ trong Cộng đồng. Nhưng đa số ngại và sợ “không chơi lại với Cộng sản”. Nên dự án chỉ là dự án. Thời ấy tôi cũng tham khảo với một số bằng hữu quốc tế tại một số đại học, một số tổ chức nhân quyền, một số Sáng hội có tính chất think-tank, thì lại được hoan nghênh và thúc đẩy tôi sớm thực hiện. Như đã nói, vấn đề chính là người Việt, cơ duyên chưa hội đủ đành bỏ qua.

Báo Japan Times ở Tokyo viết về chuyến đi vận động tại Nhật Bản tháng 4 năm 1994

17. Lê Thị Huệ: Ông đến Pháp lúc nào ?

Võ Văn Ái : Trước hết phải nói về sự may mắn. Trong hoàn cảnh năm 1955 từ thế lực tới phương tiện vật chất tôi không có điều kiện xuất dương. Bị thôi thúc bởi kinh nghiệm “tìm đường cứu dân” của hai Cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, tôi nuôi mộng ra nước ngoài. Cứ tưởng cái học ở nước ngoài giúp đem lại một giải pháp dân tộc. Tôi làm đơn xin đi Pháp ở Tổng nha Cảnh sát. Ba tháng không thấy trả lời. Có người bảo tôi phải kiếm tiền đút lót mới được. Nhưng quen ai và tiền đâu. Thời ấy tôi đi dạy học để nuôi thân. Nhân biết một người bạn học của thân phụ tôi làm ở Tổng nha Cảnh sát, tôi đánh bạo viết thư xin ông giúp. Một tuần sau tôi có thông hành. Có thông hành nhưng không có tiền mua vé máy bay. Tình cờ than thở với hai người ân nhân tôi xem như Phiếu mẫu : bác Vân ở đường Cầu Quẹo Đà Lạt, người xem tôi như con, nuôi tôi những năm học ở trường Yersin, và dì Lễ, bà và chồng là người cứu tôi thoát chết ở Huế cuối thập niên 40. Hai Mẫu thân này cho tôi tiền vé máy bay đi Pháp. Kiếp nào tôi mới trả được ơn trời biển này ?!

Năm 1955 tôi bị khủng hoảng tâm thức trầm trọng, lần thứ hai xẩy tới năm 1970. Do năm 1955 nhận rõ cuộc kháng chiến thần thánh và dân tộc bị người Cộng sản đầu cơ và lèo lái sang đường hướng phi dân tộc. Bởi vậy tôi nung nấu việc ra đi.

Tôi đến Paris ngày 6.10.1955 với 200 quan tiền Pháp cũ trong túi (cỡ 4 Mỹ kim), một lọ cà cuống, và hai bộ đồ, mà một bộ do các bạn thợ may trong nhà tôi làm gia sư ở Saigon may tặng. Lọ cà cuống là một chuyện trần sanh. Nguyên người bạn của thân phụ tôi mới di cư ở Bắc vào. Ông khuyên tôi có bao nhiêu tiền mua cà cuống mang sang Paris bán cho các hiệu ăn Việt, ít nhất lãi mười lần hơn. Chú mang tiền trong túi bất tiện, nhỡ mất mà chẳng lời lãi chi. Tôi dạ và làm theo, nhưng không biết cà cuống là gì, mua ở đâu. Ông dẫn tôi ra chợ Bến Thành vào một tiệm kim hoàn đường Gia Long mua giúp. Tôi ngạc nhiên thấy bà chủ kim hoàn tay đầy hột xoàn bỏ lọ cà cuống lên cân vàng cân và tính tiền. Nâng lọ cà cuống quý như vàng như nâng trứng. Đến Paris tôi đi tìm hiệu ăn Việt được giới thiệu. Câu đầu tiên thọ lĩnh là : Ối giời mang làm gì cái thứ này ! Ở đây đắt quá sinh viên nào dám ăn ! Thưở ấy tiệm ăn Việt ở Paris còn lác đác. Vào tiệm chỉ là những sinh viên con nhà giàu, không đông khách Pháp như bây giờ. Sáu tháng sau tôi được trả món tiền cà cuống 50 quan Pháp tiền cũ. Không lãi mười lần hơn mà mất xuống mười lần.

Sống cảnh vừa đi làm vừa đi học rất khổ. Tôi ghi danh học y khoa được một năm thì tình cờ gặp một người bạn cũ trên đường Boul’Mich. Anh ta nói với tôi nước mình cần có một tờ báo nội dung như báo chí văn minh ở Pháp, “cậu phải học văn chương để về làm báo”, một tờ báo lớn tại Việt Nam. Biết tôi quá nghèo, làm lụng lam lũ, anh dụ tôi nếu chịu học văn chương anh sẽ trợ cấp tiền ăn mỗi tháng. Thời ấy do quá nghèo nên tôi được phụ tá xã hội ở đại học cho ăn ở nhà ăn sinh viên với giá rẻ hạng nhất, mỗi bữa ăn 31 xu, nghèo hạng hai 45 xu, sinh viên bình thường trả 55 xu. Tôi nhận lời và ghi danh vào đại học Sorbonne. Nhưng một năm sau tình cờ gặp người bạn mới kiếm cho tôi học bỗng sang Đức học.

18. Lê Thị Huệ: Về sự lôi cuốn của Phương Tây đối với Đông Phương. Theo André Malraux trong quyển The Temptation Of The West thì các điểm quyến rũ của Tây Phương như là sức mạnh lý trí, đời sống sinh họat trí thức, tôn trọng phụ nữ ..., tôi muốn hỏi, theo ông thì đâu là những điểm lôi cuốn nhất của văn minh Tây Phương đối với một trí thức Việt nam như ông ?

Võ Văn Ái : Hồi còn ở Việt Nam, tiêm nhiễm lối đánh giá của người Việt, tôi cứ ngỡ Tây phương rất vật chất, Đông phương mới tinh thần. Cũng như bị ảnh hưởng lối tuyên truyền phe tả, tôi tưởng Hoa Kỳ là đệ nhất đế quốc, đệ nhất kỳ thị chủng tộc.

Nhưng từ khi sang sống ở phương Tây, và năm 1969 lần đầu tiên tôi sang Hoa Kỳ trong một chuyến thuyết trình dài gần hai tháng qua mấy chục tiểu bang, tôi mới biết các đánh giá kia hoàn toàn sai lạc. Quán tính “ao nhà” và chủ nghĩa bài ngoại của giới trí thức Á châu cộng với tuyên truyền Cộng sản chống đế quốc tư bản từ những năm 30 là sự đánh lừa những tâm hồn non trẻ tại các nước kém phát triển thuộc thế giới đệ tam như tôi.

Người ta biết nhiều tới nạn kỳ thị da màu là nhờ bộ máy truyền thông đa chiều tại Mỹ. Nhờ hệ thống truyền thông đa chiều phơi phong các tệ nạn xã hội như phương pháp tự phê, mà các tệ nạn được chữa chạy. Cứ áp dụng hệ thống truyền thông đa chiều này vào Trung quốc, Việt Nam, Bắc Hàn thử xem ba xã hội này tàn độc, kỳ thị, hũ tục và gian ác tới ngần nào.

Do sống quá lâu trong thấp hèn, chiến tranh, dân ta đại kỳ thị với đủ thứ. Chủng tộc thì gọi người Thượng là mọi, người Miên là Man trên cao (Cao Man), người Lào là Lèo, rồi chú Bảy, chú Chệt, Tây đen, v.v…, người cao, người lùn, người mập, người gầy... Tất cả đều trong tầm nhắm đả kích, bêu riếu, cười cợt không thương xót. Thấy cái xấu, cái khuyết của người, không nhìn ra được điều thiện hảo để tụng ca, đùm bọc. Nhất là với người tàn tật thì chẳng ai thèm ngó ngàng.

Năm 1990 được ông Đô trưởng Léningrad mời dự Hội nghị Nhân quyền đầu tiên tổ chức tại Liên Xô vừa thoát xác. Thành phố này sau lấy lại tên cũ Saint Petersburg. Sang đấy, tôi không thể ngờ xã hội Nga nghèo khó và bị hạn chế mọi mặt tinh thần đến như thế. Chẳng hiểu vì sao các ông Cộng sản Hà Nội lại có thể xem đó là gương mẫu, mẫu quốc hay thiên đường !

Tôi cũng vô cùng ngạc nhiên lần đầu tiên đến Hoa Kỳ năm 1969 thấy sự nâng niu tôn trọng trẻ nít ở các quán ăn, học đường, đến như Pháp cũng không bằng, và sự bình đẳng với người tàn tật. Ngạc nhiên khi vào Quốc hội hay Bộ ngoại giao Hoa Kỳ và Canada thưở ấy gặp những viên chức ngồi xe lăn với bao thiết bị thuận tiện dành cho họ. Trong chuyến đi này tôi mới thấy Âu châu là một cái làng, Âu châu là quá khứ, Hoa Kỳ là tương lai - một dân tộc trẻ trung, không mặc cảm, vạm vỡ hướng về tương lai và cao đầu nhìn các tinh hà.

Hai kỷ niệm đánh động tâm tư tôi trong chuyến đi này. Một kỷ niệm biểu thị lòng tự tin và tự hào của cá thể và tính bình đẳng tuyệt vời. Hôm ấy tôi đến thành phố Atlanta, trên đường gặp đoàn biểu tình lớn của người Mỹ chống Mỹ cho hòa bình Việt Nam. Người biểu tình rất đông, đối diện với lượng người biểu tình này, trơ trọi một người thanh nữ Mỹ. Một thân một mình cô cầm tấm bảng viết tay : “Ủng hộ người lính Mỹ tại Việt Nam”. Chao ơi, nếu cuộc biểu tình này xẩy ra tại Việt Nam, người thanh nữ Mỹ sẽ bị đánh chết. Tôi không bàn tới lý tưởng của hai bên biểu tình, mà nói tới sự can đảm, tự tin, tính cách bình đẳng và dân chủ trong cư xử dân sự. Kỷ niệm thứ hai cũng tại Atlanta là cuộc gặp gỡ với ban lãnh đạo người Da đen đại diện Mục sư Luther King. Khi tới cơ sở họ, ba người bạn Mỹ da trắng tháp tùng tôi bị họ ngăn cản không cho vào, chỉ một mình tôi bước tới phòng họp.

The Temptation Of The West của nhà văn André Malreaux viết hồi còn trẻ tuổi vào những năm ông sang Việt Nam, Cam Bốt khoảng 1925. Đây là thư trao đổi giữa một người Pháp, 25 tuổi, lấy tên MM. A.D. và một người Tàu, 23 tuổi, lấy tên Ling W.Y. Hai bên trình bày cảm nhận mình về hai nền văn minh Trung quốc và Tây phương ở thời điểm đầu thế kỷ XX.

Tuy nhiên từ đó đến nay có biết bao biến đổi, xáo trộn, đan xen trong hai nền văn minh. Đặc biệt là phương tiện di chuyển bằng máy bay ngày nay thông dụng như xe đò năm mươi năm trước, thêm sự bùng nổ tin học, thông tin Internet khiến cho năm châu xích lại gần nhau như trong một ngôi làng. MM. A.D. và Ling W.Y sống lại ngày nay viết cho nhau cái Temptation Of The West họ sẽ không còn thắc mắc hay trao đổi những ưu tư của năm 1925 nữa. Trung quốc của ông Ling W.Y đã Tây phương hóa theo tư trào Cộng sản. Nước Pháp của MM. A.D. hay André Malraux cũng chịu ba biến động lớn nhất thay đổi tâm tư, cách sống và xã hội con người phương Tây, là chế độ thực dân và thuộc địa Tây phương chấm dứt thập niên 50, phong trào bùng vỡ xã hội Tây phương thập niên 60 (thông qua nhạc Beatles, văn Kerouac, suy tưởng Herbert Marcuse) đưa tới hiện tượng nổi bật thứ ba, một hiện tượng trái ngược : hàng nghìn thanh niên nam nữ Mỹ tràn qua bờ sông Hằng, Ấn Độ, kiếm tìm cõi sống tâm linh, và phong trào sinh viên tả phái theo Mao nổi dậy ở đại học Sorbonne Pháp năm 1968. Báo hiệu hai con đường tiếp cận Đông phương mà dần dà sẽ rõ nét vào thiên niên kỷ thứ ba Tây lịch này.

André Malraux thời viết Temptation Of The West (1925) đã rất khác trên mọi quan điểm Đông Tây với André Malraux của các bộ Antimémoires (bao gồm Hôtes de passage, Lazare, Miroir des limbes) giữa thập niên 70. Thời 1925 là thịnh thời của chủ nghĩa thực dân đế quốc phương Tây ở Châu Á, manh nha từ giữa thế kỷ XV. Nhưng hai năm cột mốc 1947 và 1949 đã đánh đổ phương Tây, từ đó hình thành thế giới quan (Weltanschauung) mới về Đông và Tây. 1947 : Ấn độ được giải phóng sau cuộc đấu tranh bằng phương tiện và tinh thần thuần túy Đông phương của Thánh Gandhi, đế quốc Anh cuốn gói ra đi. 1949 : Mao giải phóng Hoa lục bằng chủ thuyết Cộng sản phương Tây trá hình cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Lấy nông dân thay thế công nhân đã khởi mầm cho sự bất thần phục lý thuyết Cộng sản Liên Xô nói riêng và chống phương Tây nói chung.

Ba việc chị nêu ra, sức mạnh lý trí, đời sống sinh họat trí thức, tôn trọng phụ nữ… quả là những nét nổi bật ở phương Tây.

Phía ta rất tình cảm, nhưng ủy mị. Không có mối khắn khít lớn. Do đó, sinh hoạt trí thức cũng vặt vãnh theo chọn lựa tình cảm. Theo nhau hay thù nhau đều do những chuyện thuộc phạm vi cảm tính chứ không là tri thức. Thiếu khoan dung trong tình bạn nên người Việt giận nhau là giận suốt đời, đến nỗi “không đợi trời chung” dù trời cứ ngờ ngờ trên đầu hai người.

Việc tôn trọng phụ nữ, đậm nét ở phương Tây dù chưa tuyệt đối, nhưng khác xa phương Đông. Tình yêu cũng vậy. Tình yêu ở ta là bổn phận. Trai gái gặp nhau lễ nghi, luân lý và định kiến đi trước. Luân lý nho giáo lâu đời hằn trong máu thịt, cột dính con người với quá nhiều thành kiến, làng xã, vùng miền, vọng tộc, làm cho đa số người Đông phương không sống trọn vẹn với tình yêu - tình yêu Đôi lứa. Tôi ngạc nhiên nghe giáo sư Pierre-Bernard Lafont chủ trì luận án tiến sĩ của tôi ở Sorbonne, một hôm trong bài giảng ông nói rằng cây súng là mặc cảm của dương vật đấy. Nếu đúng thì ta sẽ hiểu người Cộng sản như những kẻ bị dồn nén, ẩn ức trong tình yêu đôi lứa, khiến họ yêu thương cây súng giết người - đấu tranh giai cấp là cái cớ sử dụng cây súng. Văn hóa khạc nhổ và vu cáo của bộ máy tuyên truyền Cộng sản chắc cũng từ mặc cảm ấy mà ra - những kẻ không hạnh phúc trong đời sống luyến ái vì chẳng biết tình yêu là gì, đàn bà là gì ?

Tây phương hấp dẫn tôi ở sự dám sống, dám thể hiện nhân cách, không mặc cảm. Đặc biệt là óc mạo hiểm, lòng tự tin, dám vượt khỏi khuôn thước, lối mòn. Nhờ vậy sức sáng tạo mạnh mẽ. Người Đông phương sống cho qua kiếp, sống chờ, sống cho định mệnh, sống phải đạo, nghĩa là phục tùng và tuân thủ. Người Tây phương sống kiếp, sống vạm vỡ cho cá nhân mình. Người Đông phương là cây trong rừng. Người Tây phương là cây trong vườn.

Mặt khác, đừng quên rằng chúng ta đang sống trong một thời đại mà Đông phương không còn là Đông phương và Tây phương cũng không hẳn là Tây phương.

Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng trường hợp tôi khá cá biệt. Ở Đông tôi học Tây, ở Tây tôi học Đông. Thời bên nhà tôi khao khát cái học và đọc, đọc ngấu nghiến tất cả những chi rơi vào tay. Bất cứ ai học hơn mình vài lớp, đặc biệt các anh đỗ thành chung, tú tài là tôi tìm đến học hỏi, nói chuyện say mê bất tận như muốn lấy đầu họ lắp vào đầu mình. Thưở 9, 10 tuổi tôi mê đọc Kant, Nietzsche, Siêu hình học… chẳng biết có hiểu gì không nhưng mê thì mê tít. Khác với các bạn cùng lớp, tôi không mê sách kiếm hiệp loại Bồng Lai Hiệp khách … hay trinh thám, Đoan Hùng Lệ Hằng…. Chỉ bắt đầu đọc Kim Dung năm 1969. Ấy cũng là chuyện tình cờ.

Như có dịp nói lúc nãy, năm 1969 tôi được Hoàng thân Sihanouk mời thăm Cam Bốt. Mỗi đêm tôi xuống chợ Nam Vang lúc 12 giờ khuya mua tờ báo tiếng Việt vừa ra lò in. Tờ này do Hoàng thân Sihanouk làm chủ nhiệm. Ông Hoàng này cũng lạ, chẳng việc chi không nhúng tay vào. Đã đành là làm Vua, nhưng ông còn làm diễn viên đóng hàng chục bộ phim, làm nhạc, làm báo… Tờ báo Kampuchia tiếng Việt của ông cũng lạ. Trang đầu ca tụng tình hữu nghị Miên Việt. Trang hai chửi bọn Việt Nam mánh khóe, ác độc mà « người Miên chúng ta cần tiêu diệt chúng như giết kiến ». Hữu nghị với người Việt ở trang một là Việt Cộng, không phải Việt Nam Cộng hòa. Người Việt ở trang hai là Việt truyền thống lịch sử. Trang ba đăng feuilleton « Tiếu ngạo giang hồ ». Thời tôi đọc là lúc Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung về Vô chiêu. Ôi chao, đọc mê tít. Từ đó tôi không thèm đọc trang một và tranh hai nữa. Cứ từ 12 giờ khuya là đi tìm Kim Dung. Cho đến lúc phải rời Nam Vang qua Vạn Tượng có cái hẹn gặp Thủ tướng Souvanna Phouma. Ra đi tiếc cái trang ba của tờ báo ông Sihanouk.

Và Vạn Tượng là nơi giấc mộng thành tựu. Một hôm Tôn Thất Kỳ làm cho hãng Reuter dẫn tối đi dạo phố rồi vào một hiệu sách Việt. Ông chủ là người Huế. Tôi hỏi tìm sách Kim Dung. Ông leo lên kệ cao sát trần mang xuống 11 cuốn Tiếu ngạo giang hồ và bảo rằng thiếu mất năm cuốn. Mừng quá xin mua. Nhưng ông chủ biết tôi từ Pháp sang và có nghe tên tôi đâu đó trên đài, trên báo, nên hoan hỉ tặng sách. Nói gì ông cũng không nhận tiền. Qua cuộc trả lời phỏng vấn này tôi xin chị một lời riêng tri ân ông chủ hiệu sách ở Vạn Tượng. Tôi mang ơn ông từ đó đến nay đã bốn mươi năm. Bây giờ ông ở đâu ? Tôi cầu nguyện cho ông sống lâu trăm tuổi.

Khía cạnh đọc sách của tôi là vậy. Bởi suốt đời, ngày nào cũng thấy mình còn dốt. Nói chuyện với ai, ở bất cứ thành phần nào, tôi đều tìm ra chuyện học thêm. Thời kháng chiến có người ghé qua vùng mang theo cuốn Principes élémentairs de la philosophie (Triết học sơ giản) của Politzer tôi mượn và ngồi năm ngày chép lại. Bây giờ nghĩ lại mới thấy cuốn sách sơ sài và sơ đẳng.

Một ấu thời mọt sách học và đọc như thế. Sang phương Tây học hỏi phương Tây đã đành. Nhưng phần chính lại là thời kỳ tôi tìm lại nguồn Đông phương. Tìm đọc lại Khổng, Trang, Lão, Kinh Dịch, khám phá Ramakrishna, Vivekananda, Rabibdranath Tagore, Gandhi… đọc lại Krismanurti mà tôi đã làm quen hồi 10 tuổi vì chú Ấm tôi mê Krismanurti. Ông dịch và in một số sách của vị thầy phương Đông này như cuốn Dưới Chân Thầy những năm 40. Tôi ôm mộng mở đại học trong rừng như Tagore. Ở đại học tôi mời một số bạn các nước thành lập nhóm Bạn Đường mong tới giúp dân nghèo ở các nước đệ tam trong tinh thần quốc tế.

Sách, mộng và mị. Đôi khi thấy lý tưởng hão, nhưng nhớ câu viết của Einstein nên cứ tiếp tục mộng mị : «Imagination is more important than knowledge. Knowledge is limited, imagination encircles the world » (Tưởng tư quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức còn giới hạn, tưởng tư bao trùm vũ trụ).

19. Lê Thị Huệ: Herman Hess lại nói "Ánh Sáng đến từ Phương Đông", Herman Hess đã viết sách nói về Đức Phật như là một quyến rũ của nhu cầu tâm linh trí thức của Tây Phương ... Tôi muốn hỏi, theo ông thì điểm quyến rũ của Đông Phương đối với Tây Phương là gì ?

Võ Văn Ái : Vì sao biển cứ trào dâng hải triều đến cuồng loạn sóng thần ? Biển đi tìm núi đấy. Tây phương đi tìm Đông phương đấy. Đông phương là suy tưởng, hòa nhập. Tây phương là hành động và khám phá.

Hermann Hesse là hồn Tây phương lăn trầm vào phương Đông biền biệt, đưa ý thức phân tán hội nhập vào ý thức trọn vẹn. Bước vận chuyển ấy phá vỡ cả đông lẫn tây. Vì ý thức trọn vẹn là sinh thức vũ trụ (Conscience cosmique). Từ bỏ chủ nghĩa Hư vô phương Tây, từ hư vô Nada của Miguel de Unamuno, của For whom the bell tolls của Hemingway, Nichts của Heidegger hay Néant của Sartre… đến mở cánh cửa Không tính của Śūnyatā Phật giáo qua vị Luận sư kỳ vĩ Nāgājuna - ngài Long Thọ.

Weg nach Innen/Đường về nội tâm hay Siddharta của Hermann Hesse mà Phùng Khánh dịch thành « Câu chuyện của dòng sông » là cuốn sách hay nhất, đẹp nhất, thơ mộng nhất viết về cuộc đời đức Phật Thích Ca, cũng là thể tính của phương Đông. Tôi nhớ tặng cuốn sách này và hai tập thơ Tagore, Yeats cho Phùng khánh ngày chúng tôi chia tay ở Paris. Người dịch Hermann Hesse ở Việt Nam nay đã qua đời, cho tôi gửi mấy dòng tưởng mộ :

Chiều rụng

Sao bừng sáng

Vạt áo khuất bên sông

Em đi

không dấu sóng

Bên bờ

hương nở hoa.

(Khóc Pháp muội Trí Hải - 7.12.2003)

Người ta đi tìm cái thiếu, cái khiếm khuyết. Cho nên những trí tuệ ở phương Tây hay phương Đông đi tìm cái bổ túc cho Ý thức Trọn vẹn chưa thành trong tâm khảm mình. Biển phẳng lặng nghìn đời sóng, trào lên xin đứng núi. Núi như Hy mã lạp sơn nhón mình lên mỗi năm một hai phân để cụng trời. Thiên nhiên còn như thế huống chi con người khát khao. Tây phương và Đông phương cần nhau như trai gái. Tây phương là vùng mặt trời lặn. Đông phương là triêu dương. Hai bên có nhau làm nên ngày cho thời gian. Hai bên quấn quýt nhau quay vòng trái đất mở rộng không gian. Không – thời của niềm suy tưởng mở rộng biên cương tri thức vào thiên hà kỳ bí mà con người mới hiểu biết có 10%. Dù muốn dù không vận động ấy đang hình thành nền văn minh tổng hợp cho kịp chuyến viễn thiên liên hành tinh vô tận ở cõi mà đức Phật Thích Ca gọi là tam thiên đại thiên thế giới (xem chú thích 1).

Câu hỏi của chị về sức quyến rũ Đông Tây bình dị như sự quyến rũ của người đàn bà với người đàn ông và ngược lại, khi ta ý thức cuộc hành trình trai gái từ phương diện Éros lên đến Cosmos.

Đông hay Tây đều ở quá trình nắm bắt thực tại. Nắm bắt thực tại mới vượt lướt thực tại đi vào cái tối hậu của nhiệm mầu giác ngộ.

20. Lê Thị Huệ: Và kể từ Karl Jasper với các thảo luận về Phật, Chúa, Khổng, cho đến Jean Francois với quyển Ni Max Ni Jesus, đã tạo nên những luồng sóng tư tưởng chính yếu mà ông đã sinh sống tại Âu Châu vào lúc đó .... Thế thì bây giờ nhìn lại, ông đã thấy mình chịu ảnh hưởng các nhà trí thức Tây Phương này như thế nào. Điều này có liên hệ đến việc ông sáng tác ra những tác phẩm như Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành Động, hoặc Luận chiến Nước Ngoài ?

Võ Văn Ái : Lúc nãy tôi hình tượng Hermann Hesse thơ mộng đi vào nội tâm phương Đông. Karl Jaspers với Die Grossen Philosophen / Những ông thần triết đã khép lại biên cương Đông Tây qua câu ông viết ở thành phố Bâle năm 1956 trong lời dẫn sách : “Nét chính của mọi tinh túy triết là không đi tìm đệ tử, mà tìm những con người tự do. Bởi vậy dù lòng chúng ta tôn kính bao nhiêu các nhà triết học lỗi lạc này, chúng ta chỉ đến với họ bằng tự tâm khải triết với chính chúng ta”.

Tôi mang ơn Karl Jaspers trong những năm tháng khủng hoảng tâm thức trầm trọng vào năm 1955, khi tôi chân nhận chín năm kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt bị người Cộng sản cướp công đưa vào viễn trình thiết lập mô thức dân tộc xô viết theo quan điểm Staline chứ không là dân tộc của các Vua Hùng. Tôi nhớ đọc ngấu nghiến Karl Jaspers thời ấy nơi nguồn sông Ulm (Danube) ở thành phố Ingolstadt trong một nông trại - tu viện của các bà mẹ Công giáo. Thật hiếm thấy một thần trí phương Tây nắm bắt được đức Phật, Nāgājuna, Khổng tử, Lão tử giữa khi viết về chúa Jésus, Plotin, Kant, Socrate, Platon, Saint Augustin, Anaximandre, Héraclite, Parménide, Saint Anselme…

Jean François Revel cũng như Raymond Aron là bằng hữu sau này vào thập niên 70. Hai người hậu thuẫn tôi trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam và cứu sống Người Vượt Biển. Raymond Aron giúp tôi hết mình khi tôi tung dự án thành lập Đại học Việt Nam cùng với các bạn Eugène Ionesco, Soljenitsyne, Mircea Eliade, Jean Paul Sartre, Michel Foucault, Xenakis, René Huyghe, Edgar Morin, Anthony Burgess, Leopold Senghor, Jean Guiton, cha Henri de Lubac… Với sự hứa hẹn, giúp đỡ của bà Bộ trưởng Giáo dục Pháp thời ấy. Việc “xuýt” thành.

Năm 1979 tôi đưa ra dự án thành lập Đại học Tự do Việt Nam, được sự hỗ trợ của Bà Bộ trưởng Bộ Giáo dục Pháp Alice Saunier-Seité hứa cho mượn phòng ốc và điều một số giáo sư người Việt tại Đại học Pháp về dạy miễn phí. Nhưng sang năm 1981 chính phủ Đảng Xã hội lên thay, việc bỏ dở. Trong số hàng chục học giả, giáo sư, nhân sĩ Việt, Pháp và quốc tế nhận lời vào Ban Bảo trợ Đại học có nhà văn Soljenitsine, Triết gia Jean Paul Sartre và Triết gia Raymond Aron, Triết gia Michel Foucault (Pháp quốc Học viện), Giáo sư Thomas Nagel (Đại học Princeton). Dưới đây là năm bức thư nhận lời tiêu biểu :

Bản dịch thư Việt ngữ :

Dự án “Đại học Tự do tại Paris” của các bạn thật đáng yêu. Chúng tôi cũng có dự án tương tự cho Cộng đồng Tị nạn Nga. Nhưng than ôi, vì nhiều lý do chuyện ấy không thực hiện được. Tôi chúc các bạn may mắn hơn chúng tôi.

Tôi vô cùng thương cảm cho nỗi khổ đau của dân tộc các bạn. Và rất hân hạnh để tên tôi vào trong Ban Bảo trợ Đại học. Tiếc thay, tôi không thể đóng góp gì về vật chất cho Đại học, vì bao nhiêu tiền làm ra tôi đểu gửi hết về Nga.

Bắt chặt tay các bạn,

Alexandre Soljenitsyne

25.10.1979

Cavendish

Bản dịch thư Việt ngữ :

Trường Cao đẳng Khoa học Xã hội – Bộ Đại học

Paris, ngày 1.10.1079

Gửi Ông Võ Văn Ái

Chủ nhiệm Quê Mẹ

25 rue Jaffeux

92230 Gennevilliers

Thưa Ông,

Xin cảm ơn bức thư ông viết hôm 21.9, và sau khi suy nghĩ kỹ,tôi chấp thuận để tên tôi vào Ban Bảo trợ.

Với tất cả lời chúc lành cho dự án thành công, mong ông nhận nơi đây mọi tình cảm nồng hậu của tôi.

Raymond Aron

Bản dịch thư Việt ngữ :

Paris ngày 15 tháng 11

Với tất cả sự hoan hỉ và vinh dự tôi chấp nhận vào Ban Bảo trợ với những vị khác cho sự rắp tâm của quý vị trong việc giáo dục và bảo vệ nền văn hoá Việt Nam phong phú và lâu đời.

Tôi cầu chúc cho dự án thành lập Đại học Tự do thành công, và quý vị có thể tin vào sự hậu thuẫn của tôi.

Xin hãy tin vào lòng yêu quý cùng kính trọng của tôi.

J.P. Sartre


Thư hồi âm nhận lời và hoan nghênh Đại học Tự do Việt Nam của Triết gia Michel Foucault, Pháp quốc Học viện (Collège de France)


Thư hồi âm hỗ trợ của Giáo sư Thomas Nagel, Đại học Princeton và New York

Không kể những trước tác đồ sộ về triết lý chính trị, Jean-François Revel còn là chủ bút nhật báo tiếng tăm Express tại Paris đã vận động hết mình cùng với Raymond Aron để Tổng thống Pháp Giscard d’Estaing hậu thuẫn chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” do cơ sở Quê Mẹ xướng xuất năm 1978. Tôi đã phải vận dụng đến nghệ thuật trong chiến dịch. Nhờ họa sĩ nổi danh Raymond Moretti vẽ cho hai bức tranh cổ động, một bức là Người Tù Cải tạo và một bức Thuyền Vượt Biển như Quả trứng Âu Cơ bồng bềnh. Nhờ họa sĩ Lê Tài Điển nắn bức tượng Thuyền Vượt Biển đem tặng tổng thống Pháp. Nhưng hai lý do chính trị và xã hội khiến ông Giscard d’Estaing không khứng lúc đầu. Thời ấy tổng thống Pháp bắt bồ với Brejnev nên sợ mất lòng Mạc Tư Khoa khi phải choảng Hà Nội qua chuyện cứu giúp Người Vượt Biển. Lý do thứ hai là vớt Người Vượt Biển tất phải nâng quota người tị nạn chính trị Việt Nam vào Pháp. Tuần báo cực hữu Minute không ngớt viết bài chống phá, luận điệu báo này rêu rao rằng “ Giúp làm quái gì bọn ngày xưa theo Việt Minh đá Pháp ”, hoặc “Bọn tị nạn sẽ cướp công ăn việc làm của dân Pháp”. Chính báo Minute với sự trợ giúp « chỉ điểm » của nhà báo « quốc gia » TN ở Paris tố cáo tôi « ăn tiền Con Tàu ». Tôi truy tố báo Minute ra toà án Paris và đã thắng kiện. Ngày xử các bạn quốc tế làm nhân chứng cho tôi là nhà ly khai Leond Pliouchtch, nhà văn nữ Claudie Broyelle (Chủ tịch Uỷ ban Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam), nhà báo Olivier Todd, bà François Gautier (Thủ qũy Uỷ ban Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam)... Đại loại như vậy.

Raymond Aron và Jean Paul Sartre là bạn đồng song thưở sinh viên, nhưng lại chống báng, tranh cãi như sừng với đuôi từ năm 1945. Thế mà cả hai người đều ký tên ủng hộ lời kêu gọi “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” ra Biển Đông vớt người. Chúng tôi nẩy ý kiến đề xuất hai người cùng vào gặp Tổng thống Giscard d’Estaing. Cuộc gặp gỡ thuyết phục ông tổng thống hậu thuẫn chiến dịch của chúng tôi. Các bạn Pháp nói với chúng tôi thưở ấy “Nhờ các bạn mà hai bộ não của Pháp hòa giải nhau sau 23 năm tranh chấp thù hận : Sartre – Aron”.

Khác với Hermann Hesse và Karl Jaspers, trước tác của Jean François Revel cùng với Raymond Aron là cuộc thanh toán nội bộ Tây phương giữa hai tư trào Cộng và phản Cộng. Chúng tôi gặp nhau, hoạt động với nhau trên thực tại thế giới thập niên 70. Một bên là lý luận, một bên là nhân chứng trên vấn đề Cộng sản quốc tế.

Các sáng tác của tôi qua hai cuốn sách « Nguyễn Trãi : Sinh thức và Hành động »« Luận chiến Nước ngoài » giới hạn vào cuộc suy tưởng Việt. Riêng hành động tôi mới chung cùng cộng tác với các bạn trí thức Âu Mỹ, đặc biệt giới ly khai ở Liên Xô cũ và Đông Âu. Hành động chung này đặt cơ sở trên Quyền Con Người. Trước tác tôi thời kỳ này nhắm vào căn bản tư tưởng Việt Nam và Đông phương để thoát ly sự mê hoặc Cộng sản và thời cuộc. Không có ảnh hưởng qua lại trên mặt tri thức với các bạn nói trên trong vấn đề Việt Nam. Trái lại chúng tôi mang lại cho họ nhiều thông tin, hiểu biết về vấn đề Việt Nam. Thời ấy triết gia Jean-Paul Sartre ngỏ ý có cuộc trao đổi với tôi về vấn đề Việt Nam qua tiêu đề : Vì sao những người cộng sản đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống đế quốc lại trở thành kẻ đàn áp nhân dân ? ». Tiếc rằng bệnh tình của ông thời gian cuối đã ngăn cản việc này.

30.4.1995 tại Paris : Hội luận “Đổi mới và Nhân quyền : Việt Nam 20 năm sau”
Từ trái sang phải : Võ Văn Ái, Patrick Baidoin, André Glucksmann, Robert Ménard, Leonid Pliouchtch, Jean-Françoi Revel và Olivier Todd

Nhận kỷ niệm 50 năm bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1998) tổ chức tại Paris Hội thảo Các Nhà Dân chủ Châu Á, từ trái sang phải : Marie Holzman, Nguỵ Kinh Sinh, Võ Văn Ái. Tổ chức “Diễn Đàn Dân chủ Á Châu” ra đời dịp này anh Nguỵ Kinh Sinh làm Chủ tịch Danh dự, Võ Văn Ái làm Chủ tịch


(còn tiếp 3 kỳ nữa)

(kỳ tới: kinh nghiệm trí thức dấn thân trên các diễn đàn quốc tế, các chiến dịch Giúp Người Vượt Biển, Con Tàu Đảo Ánh Sáng (Ile de Lumière), Thi Vũ nhà thơ , các phát biểu về thi ca Việt Nam, về tập Tùy bút “Gọi Thầm Giữa Paris", về nhà thơ Nh. Tay Ngàn, về sáng tác bên ngòai Việt Nam...)


No comments: