Ac Tang Don Hau
Tin đồn Đôn Hậu đầu thai?!
Cách đây 7 tháng gia đình ông bà Phùng văn Sơn, xã Hưng Yên, ở thôn Tân Phong, xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, Quảng Nam, có nuôi một con bò cái và đẻ ra một con bê con, chỉ có hai chân sau mà thôi.
Hiện tại con bê vẫn phát triển bình thường, đã nặng trên 60 kí lô và có thể đi bằng hai chân sau như người.
Mấy ngày vừa qua nhiều người từ nơi khác đến để xem con bê lạ lùng này và trả giá cao để xin mua.
Trước đây gia đình này có nuôi một con heo nái đã đẻ được một heo con cũng chỉ có hai chân. Tuy nhiên, sau khi được sinh ra, con heo hai chân đó đã chết.
Những người “mê tín dị đoan” kháo nhau rằng, các ác tăng khi chết sẽ đầu thai trở lại như vậy, để trả nghiệp báo cho những tội ác của kiếp trước. Tỉ dụ như vụ “biển máu miền Trung” và “Thanh Bồ Đức Lợi” do phái Ấn Quang tạo ra. Cho nên cấp trên của họ, khi chết sẽ không lên cõi Niết Bàn mà cũng không xuống hỏa ngục, phải đầu thai trở lại thành những kiếp quái vật như vậy ở những nơi họ đã gây ra tội ác.
Vì thế có thơ truyền khẩu rằng:
Đôn hậu đầu thai
Đi tu mà lại có bồ
Hiếp dâm, uống máu, bây giờ đầu thai
Thành bò, chân chỉ có hai
Ăn rau, ăn cỏ, trả dài nghiệp xưa
Kiếp bò cho xứng tội lừa
Dân oan vụ biển máu miền Trung 1964 - 1966.
Liên Thành:
Ông Đôn Hậu không có bị việt cộng bắt đi lên núi , mà ông Đôn Hậu nằm trong tổ chức của tụi nó ( CS) mà vì nhu cầu thời bấy giờ của Bộ Chính trị đảng Cộng Sản hải ngoại lúc bấy giờ muốn đưa một số thành phần trí thức Miền Nam Việt Nam như các giáo sư, các đại diện tôn giáo mà tụi nó ( CS) đã sắp đặt trước ,. Đó là những người của nó đi ra Bắt rồi tổ chức thành một phái đoàn đi ra ngoại quốc để tuyên truyền là cuộc chiến Việt Nam , do người Miền Nam, do thành phần trí thức, do thành phần tôn giáo tại Miền Nam bất mãn chính quyền NGỤY và bất mãn chuyện xâm lăng của ĐẾ QUỐC MỸ đứng dậy để mà chống lại . Đó là cái lối tuyên truyền của Cộng Sản Miền Bắc. Những người như ông Đôn Hậu chấp nhận ra đi và đã nằm trong tổ chức của tụi nó lâu rồi. Khong phải Mậu Thân bị bắt buột mà đi...., xin nghe bài nói chuyện trên...)
Hàn giang Trần Lệ Tuyền "Cuộc bạo loạn 1966) :
Lúc này, Thích Đôn Hậu đã kéo một đám đệ tử từ Huế vào Đà Nẵng. Trong số này, có những tên cũng đã từng chỉ huy «Đoàn Thanh niên Phật tử Cứu quốc » trong cuộc tấn công hai phường Thanh Bồ và Đức Lợi vào ngày 24-8-1964, như các tên sau đây :
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Tuyên …và hơn hai ngàn thanh niên, hợp lại cùng với đám đệ tử tại Đà Nẵng cũng đã từng sát cánh với nhau trong cuộc thảm sát Thanh Bồ như: Phan Xuân Huy, Phan Chánh Dinh, Vĩnh Kha, Hồ Công Lộ, Hà Xuân Kỳ …
Sau khi vào Đà Nẵng, Thích Đôn Hậu và đám đệ tử tập hợp tại chùa Pháp Lâm, tức chùa tỉnh giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng, là cơ quan chỉ đạo chính trị ở số 500 đường Ông Ích Khiêm. Chính tại chùa Pháp Lâm, Thích Đôn Hậu đã nhân danh Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Miền Vạn Hạnh ( tức miền Trung ) dùng truyền đơn và loa phóng thanh phát lời kêu gọi :
« …Các quân nhân Phật tử hãy mau mau quay về gia nhập Quân Đoàn Cách Mạng Vạn Hạnh, các Phật tử trong mọi nghành cảnh sát, công tư chức, sinh viên học sinh, thanh niên và đồng bào Phật tử hãy gia nhập lực lượng đấu tranh để lật đổ chính phủ Thiệu-Kỳ. »
Và kể từ ngày ấy, cho đến hôm nay, đã bao nhiêu năm qua rồi. Nhưng khi nhắc lại lời kêu gọi này của Thích Đôn Hậu, chắc những ai đã từng chứng kiến cuộc nổi loạn này cũng thấy rằng : Quả thật, lời kêu gọi ấy có hiệu quả, bởi lúc ấy đã có không ít một số sĩ quan, binh lính, công tư chức rời bỏ hàng ngũ và nhiệm sở đế gia nhập « Quân Đoàn Vạn Hạnh » Riêng sinh viên, học sinh, thanh niên Phật tử đã được «Thượng tọa » Thích Minh Chiếu, Thiếu tá Trưởng phòng Tuyên úy Phật giáo vùng 1 chiến thuật trang bị súng đạn đủ loại, một số em học sinh nhỏ tuổi thì được trang bị bằng gậy gộc, gạch, đá để gia nhập « Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử » Thích Minh Chiếu hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ như tôi đã viết ở bài trước......
Trich trong Giấc mơ lãnh tụ (3/62)
* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC :
Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đã công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TTCS Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đã thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam cho CS Hà Nộị Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu:
TTCS Phạm văn Đồng :
"- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, PHật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm TT. Lập làm gì vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?
HT Thích Đôn Hậu đáp :
- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế nàỵ Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đã hỏi các vị trong Viện Hóa Đạo.Các vị cho biết như sau : "HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập Chính Phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đã bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồi. Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng còn gì, mà Cách Mạng đã đến bên lưng.Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại gì muốn lên làm Tổng Thống lúc ấỵ"
Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp :
"PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống gì con người ! Đã 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố : "Đánh" ! Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nưa.? Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ, chẳng còn ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nhìn? Nên phải lập Chính Phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Mạng.
Phạm Văn Đồng hỏi :
- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng thì để làm gì?
Tôi hỏi Thủ Tướng :
- Khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không?
- Không.
- Như vậy, Dương Văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh."
Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố :
- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975.
- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN.
Hòa thượng pháp danh Trừng Nguyện, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương Thuần. Ngài sinh vào ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ (16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệu là Phước Điền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi Ngài vừa lên 9 tuổi.
Năm 1945, Ngài thay thế Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật Học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, Ngài nhận chức trụ trì Quốc Tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ.Năm 1951, Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử làm Giám luật.
Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm.
Năm 1963, Ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống ( vnch, chống chính quyền Ngô Đình Diệm). Đêm pháp nạn 20 tháng 8 năm 1963
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được cử làm Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh.
Năm 1965, Ngài được cung thỉnh làm Yết ma A Xà Lê Đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế.
Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam,( ngoại vi của Việt gian Cộng Sản ) Ngài ( tự nguyện) vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời.
- Tháng 1/1968: Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng 6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
- Năm 1970, đi tham quan các quan thầy Cộng Sản ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình. ( Đi tuyên truyền cho CS)
(Liên Thành: Ông Đôn Hậu không có bị việt cộng bắt đi lên núi , mà ông Đôn Hậu nằm trong tổ chức của tụi nó ( CS) mà vì nhu cầu thời bấy giờ của Bộ Chính trị đảng Cộng Sản hải ngoại lúc bấy giờ muốn đưa một số thành phần trí thức Miền Nam Việt Nam như các giáo sư, các đại diện tôn giáo mà tụi nó ( CS) đã sắp đặt trước ,. Đó là những người của nó đi ra Bắt rồi tổ chức thành một phái đoàn đi ra ngoại quốc để tuyên truyền là cuộc chiến Việt Nam , do người Miền Nam, do thành phần trí thức, do thành phần tôn giáo tại Miền Nam bất mãn chính quyền NGỤY và bất mãn chuyện xâm lăng của ĐẾ QUỐC MỸ đứng dậy để mà chống lại . Đó là cái lối tuyên truyền của Cộng Sản Miền Bắc. Những người như ông Đôn Hậu chấp nhận ra đi và đã nằm trong tổ chức của tụi nó lâu rồi. Khong phải Mậu Thân bị bắt buột mà đi...., xin nghe bài nói chuyện trên...)
- Năm 1975, miền Nam được giải phóng, Ngài trở về chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
- Năm 1976, Ngài đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng Sản Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cũng chính trong năm này, Ngài được mời giữ chức Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Từ năm 1976 đến 1986, liên tục trong mười năm liền, Ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo Quốc và Linh Quang.
Năm 1977, Đại hội kỳ VII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang. Ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
Năm 1979, đức Đệ nhị Tăng Thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên - viên tịch, Đại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng Lưỡng Viện bèn cung thỉnh Ngài kiêm chức vụ Xử lý Viện Tăng Thống.
Năm 1981, Đại hội Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội, đã suy cử Ngài vào Hội đồng Chứng minh với chức vụ Đệ Nhứt Phó Pháp Chủ kiêm Giám luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo quốc và Trúc Lâm - Huế.
Trích trong Thư Viện Hoa Sen ...
No comments:
Post a Comment