Wednesday, October 24, 2012

Nguyễn Thu Trâm-Viết cho ngày 01 tháng 11-cái chết


Viết cho ngày 01 tháng 11
Nguyễn Thu Trâm
Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư". Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.
Bọn Ác Ôn Côn Đồ Đáng Nguyền Rủa
Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả giá.
Một Lủ Ác Ôn Côn Đồ Đáng Nguyen Rủa,
 Đã Gián Tiếp Dâng Miền Nam Cho Cộng Sản
Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954 đó.
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ
Nguyễn Thu Trâm

Tuesday, October 23, 2012

tran minh - Résume của Thích Quảng Độ gởi TT Obama. xin job,



 









                            THAM VỌNG CHÍNH TRỊ CỦA HT THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ PGVNTN 
Trần Minh

Đọc xong lá thư của HT Thích Quảng Độ, người đứng đầu tổ chức PGVNTN, gởi cho TT Obama nói rằng PG có thể ổn định được Châu Á Thái Bình Dương và ngay cả những vùng rộng lớn hơn nữa, “beyond”,  chúng tôi tự hỏi Hoà Thượng muốn gì khi gởi lá thư vậy lên một vị nguyên thủ quốc gia có uy quyền nhất thế giới? Câu trả lời quá dễ là HT quảng cáo cho cá nhân và tổ chức PGVNTN để kiếm job lớn vùng Châu Á Biển Đông. Nhưng liệu HT có “sale” được món hàng này? và liệu chính phủ Hoa Kỳ có “buy” nó không?  Riêng Trần Minh tôi tuy rằng không dính líu vào chuyện mua bán này, nhưng thật tình cảm thấy có cái gì đó xấu hổ chung cho người Việt Nam. Đó là lý do tôi phải lên tiếng. Một lá thư  lố bịch hoang tưởng về chính trị như vậy lại được một người tu hành Việt Nam gởi đến cho TT Hoa Kỳ! HT Thích Quảng Độ muốn giỡn mặt chính quyền Hoa Kỳ? Chính quyền Hoa Kỳ sẽ nhìn người Việt Nam ra sao đây? Một đám mob ngớ ngẫn không biết mình là ai? Có câu con sâu làm rầu nồi canh là vậy.

Nếu quý vị là chính phủ Mỹ, quý vị sẽ nghĩ sao về lá thư này? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ nghĩ PGVNTN và HT Quảng Độ là một cái đám không nên nết, tu không lo tu mà lại lo chuyện làm lãnh tụ, coi thường chính phủ Hoa Kỳ nên mới dám gởi những cái thư bá láp như vậy! Hoặc giả họ sẽ nghĩa đây là cái đám mắc bệnh tâm thần chấp nhất làm chi. Tôi hoàn toàn đồng thuận với cả hai suy nghĩ trên. Thưa quý vị, một người đi tu, sở hữu trong tay một ngôi chùa nguy nga đồ sộ lại kể lể rằng bị nhà nước CHXHCNVN quản thúc tại gia mấy chục năm ròng không làm gì được, mà lại có thể thực hiện được một công việc đội đá vá trời là sẽ ổn định khu vực Châu Á Thái Bình Dương, mà ngay cả nước Mỹ với hạm đội Thái Bình Dương tối tân nhất thế giới lúc nào cũng ứng trực sẳn trong vùng còn chưa dám nổ như vậy?

Xin được tóm tắt nội dung lá thư xin làm thái thú nói trên của HT Thích Quảng Độ. Lợi dụng cơ hội đến Quốc Hội Hoa Kỳ lên tiếng cho nhạc sĩ Việt Khang bị nhà cầm quyền cộng sản bắt, ông Thích Viên Lý đã đệ trình một lá thư riêng của HT Thích Quảng Độ đề ngày 2 tháng 3 năm 2012 lên chính quyền Obama dạm ý xin cai quản vùng Châu Á Thái Bình Dương và có thể cai quản vùng rộng hơn nữa nếu Mỹ cần. 90% lá thư dùng để kể lễ về hoàn cảnh đang bị quản thúc tại gia trong Thanh Minh Thiền Viện nguy nga đồ sộ, vì đòi hỏi nhân quyền tự do tôn giáo cho Việt Nam v.v và vv. Cung nhạc đang ở nốt trầm kiểu con cá nó sống vì nước, tự nhiên ở đoạn cuối lại nhảy lên nốt bỗng một cách đột ngột, ngang xương và lãng xẹt. Nốt bỗng đó là TT Obama phải thấy rõ rằng Phật Giáo có khả năng ổn định vùng Châu Á Thái Bình Dương dựa trên những thành tích quá khứ của PGVNTN. Xin nhắc lại quý vị thành tích quá khứ rất bảnh của PGVNTN đó là chiếm chính quyền, đốt phòng văn hóa thông tin Hoa Kỳ đuổi Mỹ về nước chấm dứt chiến tranh có hòa bình sớm và là làm sụp đổ nền Cộng Hòa và giết cả ba anh em TT Ngô Đình Diệm và phá nát các chính phủ tiếp theo!

 HT Thích Quảng Độ dựa vào một ý kiến nhỏ về PGVN giai đoạn chiến tranh Việt Nam của bà cựu bộ trưởng ngoại giao Madeline Albright trong cuốn sách The Mighty and The Almighty để làm bằng cớ về khả năng của  PGVNTN. Cái bằng cớ này không có giá trị vì đây chỉ là ý kiến cá nhân phiến diện, không đủ chiều sâu, không có chứng cứ để hổ trợ. Bà cựu bộ trưởng ngoại giao ý nói rằng chính phủ VNCH đã không biết sử dụng lực lượng Phật Giáo trong vấn đề chống cộng. Thời phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, bà Madeline Albright chỉ là một sinh viên còn trẻ, hiểu cuộc chiến Việt Nam qua báo chí Mỹ thời bấy giờ, mà đa số là phản chiến và có cái nhìn rất sai trái về chính quyền VNCH. Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các sử gia chẳng hạn Mark Moyar cho thấy PGVNTN là một tổ chức tôn giáo hoạt động chính trị đã bị cộng sản cầm nắm. Không thấy ông Thích Quảng Độ trích dẫn sự ngao ngán của Henry Cabot Lodge với PGVNTN sau gần hai năm trăng mật đậm đà với nhau, cuối cùng Cabot Lodge đã bỏ hẳn PGVNTN hổ trợ Quân Đội VNCH dẹp tan phong trào cộng sản đem bàn thờ Phật xuống đường này. Cuốn sách The Mighty and The Almighty chủ yếu nói về liên guan giữa tôn giáo và chính trị, trong đó bà đề cập đến Hoa Kỳ, Hồi Giáo và các quan hệ quốc tế là chính. Chiến tranh Việt Nam được bà đề cập đến rất ít, chỉ để dẫn chứng về sức mạnh tôn giáo trong chính trị mà thôi. Nhưng điều quan trọng nhất đó là cuối cùng bà viết rằng Việt Nam thời hậu chiến tệ hại hơn thời chiến tranh rất nhiều. Đó mới là cái chính của vấn đề.

  Xin hỏi PGVNTN tranh đấu, kiêu binh biểu dương sức mạnh lật đổ chính quyền, để cuối cùng “được” cái gì cho đất nước? Kẻ có có lòng với dân tộc và đất nước luôn căn cứ vào hậu quả vấn đề để quyết định việc mình sẽ làm. Cụ thể, nếu PGVNTN là một tổ chức tôn giáo đứng đắn có lòng yêu nước, thì trước khi quyết định dấy động cuộc bạo loạn mà họ cho là để đòi hỏi tự do cho Phật Giáo, họ sẽ đánh giá vấn đề tranh đấu “chống đàn áp Phật Giáo” như  vậy sẽ có lợi cho cộng sản hay có lợi cho quốc gia đang lúc chiến tranh? thì họ sẽ không làm điều đó, mà sẽ đợi đến khi quốc gia ổn định, Miền Nam mạnh hơn Miền Bắc nhiều về quân sự và chính trị rồi hãy đặt vấn đề mà họ tin là họ bị đàn áp với quốc hội và chính phủ VNCH một cách văn minh lịch sự và tôn trọng luật pháp quốc gia, hoặc nếu cần, đưa chính phủ ra tòa án nếu họ tin rằng họ đúng. Đàng này, PGVNTN đã lợi bất cập hại, đã đánh đổi vận mệnh quốc giá đổi lấy uy quyền trần tục. Họ đã sử dụng những hành động vi phạm luật pháp để chống chính quyền. Chằng hạn thay vì biểu tình ôn hòa, họ đã biểu tình bạo động, đốt công sở, chiếm đài phát thanh, chiếm quốc lộ I, chiếm chính quyền, cấm chợ cấm trường, ép dân phải mang bàn thờ Phật ra đường. Những hành động như vậy không một quốc gia nào không một thời đại nào có thể chấp nhận được, và chắc chắn chính quyền quốc gia đó phải bắt những tên tội phạm này ngay. Nhưng đã gần 50 năm rồi mà sự hiểu biết về luật pháp và bổn phận phải tuân thủ luật pháp của công dân của HT Thích Quảng Độ và PGVNTN và của một số người ủng hộ họ vẫn còn trong tình trạng hoang dã như phường thảo khấu. Cho nên đến bây giờ tội vi phạm luật pháp quốc gia đã rành rành ra đấy mà ông Quảng Độ vẫn còn hãnh diện về hành động bán khai của mình, ca tụng nó là cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu chưa từng thấy của lịch sử Phật Giáo Việt Nam.

Chính phủ VNCH đã quá yếu mềm hoặc thậm chí sợ “Phật Giáo” nên không dám trị tội các ông, để từ đó các ông vin vào cớ các ông không bị trị tội có nghĩa là các ông vô tội, các ông làm đúng. Bằng các hành động chiếm đài phát thanh, chiếm kho vũ khí, chiếm quân trang quân dụng, chiếm quốc lộ I và chiếm cả chính quyền, giấu súng trong chùa bắn giết người từ trong chùa, từ sau tượng Phật bắn ra mà xem là vô tội, là làm đúng à? 
Để chứng minh kết luận ông Thích Quảng Độ và tổ chức PGVNT là những tên tội phạm đã vi phạm luật pháp quốc gia một cách nghiêm trọng, tôi xin trân trọng gởi lời thách thức quý vị PGVNTN, bất kỳ người nào và bất kỳ bao nhiêu người, từ ông Thích Quảng Độ trở xuống, hãy đến Hoa Kỳ, một quốc gia dân chủ tự do nhất thế giới, tổ chức ngay một “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” như giai đoạn 1962 đến 1966 cho mọi người chứng kiến. Nếu cảnh sát Hoa Kỳ không còng đầu và truy tố các ông thì quả thật các ông xứng đáng với danh hiệu “cách mạng không tiền khoáng hậu”. Còn nếu họ ném các ông vô Jail thì các ông nên cảm thấy nhục nhã với tiền nhân và hậu nhân về “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” này. Còn tôi, trong lúc chờ đợi các ông nhận lời, xin các ông PGVNTN vui lòng nhận nơi đây sự xem thường của tôi về sự hiểu biết, tư cách, và tấm lòng của các ông đối với quốc gia dân tộc, cũng như kết luận các ông là những kẻ lẽ ra phải bị trừng trị về tội phản quốc.

Ông Thích Quảng Độ, “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu đầu tiên trong lịch sử  Phật Giáo” này có giúp chống lại cộng sản được hay không, đó mới là cái đáng để ông hãnh diện. Đàng này cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu chỉ để tô son điểm phấn diêm dúa cho cái tổ chức PGVNTN của ông và giúp dọn đường cho cộng sản vào nhà đem, đến thảm họa cho quốc gia dân tộc, thì ông hãnh diện gì về cái cuộc cách mạng này hả ông Quảng Độ? Hãy nhìn tấm gương Sư Vạn Hạnh giúp vua trị nước đem thái bình thịnh vượng đến cho thiên hạ, còn các ông PGVNTN, các ông giúp gì cho TT Ngô Đình Diệm và TT Nguyễn Văn Thiệu trong việc trị nước? Hay các ông đã gắng sức làm loạn lật cả hai vị tổng thống này xuống để hoan nghênh đám cộng sản bất lương vào nhà? Vậy thì các ông có công hay các ông có tội? Xin thưa, dĩ nhiên các ông là kẻ có tội và tội của các ông cũng nặng không thua gì tội của bọn cộng sản, đó là tội cõng rắn cộng sản vào cắn gà VNCH các ông có biết không?

Điều cần đánh giá lại về chính quyền “độc tài quân phiệt Thiệu Kỳ” như PGVNTN đã rêu rao, đó là vấn đề quốc pháp. Với hành động phản quốc rõ ràng như vậy, nhưng thay vì phải đem Thích Trí Quang ra tòa án quân sự, và bản án tử hình là điều thích đáng, thì chính quyền “quân phiệt” chỉ bắt nhốt Thích Trí Quang vào bệnh viện phụ sản của Bác Sĩ Tài! Thích Trí Quang tuyên bố tuyệt thực 100 ngày nhưng vẫn sống nhăn răng! Về vấn đề hành xử luật pháp quốc gia, cả chính quyền đệ nhất lẫn đệ nhị Cộng Hòa đều không xử sự nghiêm minh với các thành phần chủ chốt của PGVNTN. Chẳng hạn, lẽ ra Thích Trí Quang phải nhận bản án tử hình về tội phản quốc, và tất cả các thành viên chủ chốt khác trong Phong Trào Bàn Thờ Phật xuống đường đều phải bị án từ chung thân đến nhiều năm khổ sai, trong đó phải có các ông Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Quốc gia VNCH đã đặt tất cả các hoạt động dính líu đến cộng sản ra ngoài vòng luật pháp. Ngay cả ở Hoa Kỳ, TT Harry Truman cũng đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Cũng vì quá nhẹ tay với với đám PGVNTN mà hậu phương mới bị dấy loạn liên miên bởi Thích Như Ý, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, Thích Chánh Lạc, Thích Quảng Liên, Thích Thiện Hoa, Huỳnh Liên, và đám sinh viên tranh đấu như Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, bạn thân cùng hoạt động tranh đấu chống chính phủ VNCH với Chánh Án Nguyễn Trọng Nho, một thành viên kín đáo liên hệ nặng với Chùa Điều Ngự hiện nay.

Nhân đây cá nhân người viết xin gởi lời chân thành cảm ơn QLVNCH và LLCSQG đã đứng lên dẹp “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” năm 1966 của các ông họ Thích, ổn định lại đất nước sau ba năm làm loạn của Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu. Nếu không, Miền Nam đã lọt vào tay cộng sản ngay vào năm 1966 chứ không đợi đến năm 1975. Lãnh đạo giỏi nhất có khả năng đương đầu với cộng sản mà Miền Nam có được  là TT Ngô Đình Diệm, sau khi ông bị giết vì phong trào Phật Giáo Tranh Đấu thì không ai có thể lãnh đạo quốc gia được nữa. Ba năm sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm là giai đoạn bi thảm đầy xáo trộn mà quan hệ lãnh đạo đã bị hoàn toàn tê liệt, trong đó thần quyền PGVNTN đã khống chế thế quyền một cách trầm trọng. Chính phủ Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Huy Quát đều là phật tử, không hề đàn áp Phật Giáo cũng bị PGVNTN khống chế, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Phật tử cũng bị cho là quân phiệt đàn áp Phật Giáo. Đất nước bên bờ vực thẳm chờ cộng sản thôn tính, Phan Huy Quát đành để chính phủ Johnson tự ý đổ quân vào Miền Nam giao chiến với cộng sản mà không có một hiệp ước song phương nào cả, vì hoàn cảnh Miền Nam lúc đó đã quá nguy hiểm, người Mỹ không dám chần chờ thêm. Và cuối cùng Phật Tử Phan Huy Quát giao hẳn chính quyền lại cho Quân Đội VNCH. Từ đó Miền Nam mới đứng vững thêm 9 năm nữa. Cái chết của TT Ngô Đình Diệm là một thiệt hại lớn cho quốc gia, ngoài ông ra không chính trị gia của Miền Nam nào có thể đương đầu nổi với cộng sản. 

Cái chết này lịch sử sẽ lên án chính phủ Kennedy, kết tội các tướng lãnh phản loạn, và kết tội PGVNTN, trong đó có cả ông Thích Quảng Đức. Cuộc bị thiêu của ông Thích Quảng Đức không đem lại ích lợi gì cho “đạo pháp” hay dân tộc gì cả, chỉ làm lợi cho cộng sản mà thôi. Phật nào chủ trương chống chính phủ VNCH mà các ông tự hào danh nghĩa  “Phật Giáo Tranh Đấu”  hở ông Thích Quảng Độ? “Bàn Thờ Phật” nào biết tự động xuống đường nếu không phải là “Bàn Thờ Phật Hồ Chí Minh” được Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Lạc, Thích Chánh Trực, Thích Như  Ý đem xuống đường, dưới sự chủ trương của Thích Thiện Minh, Thích Thiện Hoa, Thích Minh Châu, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Huỳnh Liên?
Trở lại vấn đề lá thư hay nói đúng hơn là cái Résume của HT Thích Quảng Độ gởi TT Obama. Theo đúng protocol xin job, đoạn đầu khá dài dòng, ông Thích Quảng Độ nêu thành tích của PGVNTN và của cá nhân mình bằng cách kể kể chuyện ông bị nhà nước CHXHCNVN quản thúc tại Thanh Minh Thiền Viện, mà Thanh Minh Thiền Viện được biết đã được xây cất lại từ năm 2009 rất đồ sộ bóng loáng. Ông Quảng Độ cũng không đá động việc mỗi phòng của chốn tu hành này đều có gắn máy lạnh, trong một xứ sở mà còn đầy rẩy trẻ em phải bươi rác kiếm sống, phải tranh dành với nhau thức ăn thừa của khách sót lại tại tất cả các tiệm ăn lớn nhỏ tại Sài Gòn. Thanh Minh Thiền Viện to lớn đẹp đẽ đến độ đã trở thành địa điểm “tham quan du lịch” . Thế rồi đang ở tình trạng thảm hại, bổng chuyển tông  lưu ý TT Obama nên có “clearer vision” về tiềm năng của Phật Giáo, dĩ nhiên do ông Quảng Độ lãnh đạo, có thể ổn định an ninh khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

 Cũng theo đúng format xin job, HT Quảng Độ cũng có lá thư giới thiệu của một chách khách nỗi tiếng về ngành nằm vùng chống Mỹ cứu nước Võ Văn Ái, có trình độ học vấn cỡ trung hoc là tối đa, nhưng rất thích được gọi là Giáo Sư. Võ Văn Ái nói rằng khả năng của PGVNTN ngay cả còn “beyond ” khu vực Châu Á Thái Bình Dương chớ không giỡn! Và trong thời đại khủng bố toàn cầu này, TT Obama nên cần có một lực lượng không tiền khoáng hậu như PGVNTN vậy mới có thể răn đe được bọn cà chớn trong vùng. Nếu cần, lực lượng không tiền khoáng hậu này có thể đập phá công sở, cướp đoạt vũ khí chiếm đài phát thanh, cướp vũ khí, huấn luyện võ trang nhân dân, block freeways v.v Làm cho bọn chính quyền “phản động” biết mặt. Sức mạnh của cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu do PGVNTN lãnh đạo thật vô cùng rùng rợn, oai phong số một mà không luật pháp nào dám đụng đến.

 TT Obama còn chần chờ gì nữa mà không bổ nhiệm lực lượng GPVNTN làm thái thú cai trị Châu Á và Biển Đông? Theo thư cảnh báo của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tháng 5 năm 2010, ngài Quảng Độ chẳng đã lên tiếng về Hoàng Sa Trường Sa vào ngày 27 tháng 12 năm 2007 để dằn mặt China rồi đó sao? Và China khiếp PGVNTN quá nên đã mướn tên Thế Lực Đen Hải Ngoại Liên Thành viết sách Biến Động Miền Trung đánh phá GHPGVNTN bị thương trầm trọng, vu hãm cho các ngài dân tộc Đôn Hâu Quảng Độ và PGVNTN là cộng sản đó sao?

Đọc xong  lá thư văng miểng này, tôi bâng khuâng tự hỏi phải chăng cái Pháp Nạn ròng rã mấy chục năm trời của Phật Giáo Việt Nam và quốc nạn cho Miền Nam từ năm 1963 đến nay chính là tổ chức PGVNTN mượn danh Phật để hoạt động chính trị. Tổ chức PGVNTN phần lớn chỉ bao gồm những kẻ tu hành không lo tu hành, chỉ lo hoạt động chính trị, tìm đủ cách để phá nát chính phủ VNCH chạy theo cộng sản kiếm danh lợi, chẳng hạn như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Minh Châu, Thích Đôn Hậu, Thích Quảng Liên, Thích Như Ý, Thích Chánh Trực v.v. Và đến bây giờ là ông Thích Quảng Độ

Hãy điểm lại những thành tích hoạt động chính trị của HT Thích Quảng Độ:

   1/-Năm 1962- 1963 ông Thích Quảng Độ tích cực tham gia chống lại chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông là một trong những thành viên chủ lực trong lực lượng Phật Giáo Tranh Đấu, lập được thành tích vô tiền khoáng hậu giựt sập chính quyền và rất hả hê về cái chết của  Tổng Thống và hai bào đệ. Những thành viên của đảng Cần Lao cũng bị PGVNTN thanh trừng, kẻ bị tù đày người bị mất việc, kẻ bị giết. Biết bao nhiêu người đã bị các ông cố tình kết án để hãm hại. Chẳng hạn ông Dương Văn Hiếu bị tù, ông Ngô Đình Cẩn bị PGVNTN giết qua áp lực thủ tuớng Nguyễn Khánh về tội đàn áp Phật Giáo, trong lúc ông Ngô Đình Cẩn hoàn toàn không có một tội gì cả, mà ngược lại ông đã giúp cho rất nhiều chùa ở Huế đặc biệt là chùa Từ Đàm. Vấn đề điều hành quốc gia bị tê liệt vì tất cả các chuyên viên giỏi bị đều bị mất chức, hoặc đi tù với một tội chung duy nhất là mật vụ Nhu Diệm. PGVNTN đã kết án toàn bộ chính quyền TT Ngô Đình Diệm, từ bộ trưởng đến tỉnh truởng đến trưởng ty đều là tay chân mật vụ Nhu Diệm, và họ đã thay thế bằng rất nhiều Việt Cộng nằm vùng vào trong bộ máy chính quyền hậu TT Ngô Đình Diệm, kể cả ngành an ninh tình báo. Đã 48 năm trôi qua, nhưng gần đây, ngày 8 tháng 5 năm 2011 ông Thích Quảng Độ vẫn một giọng điệu không thay đổi, vẫn hãnh diện về việc phản quốc này như sau: “Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lý tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hãn của các ý thức hệ ngoại lai làm tha hóa xã hội và con người”.

Ai tấn công ông hung hãn xã hội Việt Nam hả ông Thích Quảng Độ? Yêu cầu ông chứng minh giai đoạn 1954 đến 1966 là giai đoạn Miền Nam bị ý thức hệ ngoại lai tấn công hung hãn, ông làm ơn chứng minh đạo đức Đông Phương ở Miền Nam đã bị tha hóa  dưới cả hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. HT Quảng Độ nhớ rằng, chứng minh khác với tuyên bố khơi khơi. Chứng minh là phải đưa ra những dữ kiện có thật để hổ trợ ý kiến của minh, còn nói mà không có dữ kiện để bảo vệ ý kiến của mình là nói khơi khơi, nói sảng, nói bậy bạ, nói để tuyên truyền hy vọng rằng nói quấy nói quá nói, riết chúng cũng tin. Thí dụ, chúng tôi nói HT Thích Quảng Độ ham mê chính trị thế quyền, chúng tôi có bằng cớ, đó là HT đã không lo việc tu đạo mà lo biểu tình chống chính phủ giai đoạn 1962-1966, và tháng 10 năm 1974 lại tuyên bố nếu Thiệu không xuống thì Ấn Quang sẽ hành động. Xin hỏi lúc đó TT Nguyễn Văn Thiệu có đàn áp Phật Giáo không? HT lấy uy quyền gì đòi TT Thiệu phải xuống chức nếu không ngoài uy quyền quá lớn của một ông thầy tu của PGVNTN? Tức là hể vào tổ chức PGVNTN là đương nhiên có uy quyền. Đó là sự thật. Và như vậy việc tôi nói ông Thích Quảng Độ không lo tu chỉ lo hoạt động chính trị có gì sai không? Kiếm cớ đòi tự do tôn giáo chống đàn áp Phật Giáo để hoạt động chính trị, trong khi chính quyền VNCH rất tôn trọng tôn giáo, ai muốn mở chùa thì mở ai muốn đi chùa thì đi, không ai ngăn cấm, không ai bắt quý vị phải đứng trọng Mặt Trận Tổ Quốc nào cả, miễn là đừng đem cộng sản cạo trọc đầu vào chùa là được, mà các ông vẫn cho là đàn áp Phật Giáo rồi các ông làm loạn, như vậy các ông có phải là những người tu hành thuần túy hay không? Hay là các ông dùng Phật để hoạt động chính trị? Chẳng hạn việc Chùa Xá Lợi chứa cộng sản là có thật, và vì thế, việc chính phủ tấn công vào chùa Xá Lợi là một điều đúng đắn, vì đó là bổn phận và trách nhiệm hàng đầu của chính phủ. Chính miệng Thích Trí Quang sau này cũng đã xác nhận với Tạ Văn Tài về vụ chùa Xá Lợi, Thích Trí Quang nói rằng “trong chùa có người của phía bên kia”. Sở dĩ Thích Trí Quang nói vậy để làm ra vẻ Thích Trí Quang tách biệt với cộng sản, không là cộng sản. Nhưng Thích Trí Quang dấu đầu lòi đuôi. Thích Trí Quang không là cộng sản thì làm sao Thích Trí Quang biết ai là cộng sản ai không cộng sản? Thích Trí Quang là đảng viên cộng sản phụ trách tôn giáo vận đã được kết nạp tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa bởi chính Tố Hữu năm 1949, nên Thích Trí Quang đã là một nhân tố chủ chốt vụ chùa Xá Lợi chứa cộng sản. Cộng sản biết chính phủ VNCH rất ngại việc tấn công các cơ sơ tôn giáo vì rất dễ bị vu vạ là đàn áp tôn giáo, cho nên cộng sản đã mặc sức cài cán bộ vào chùa. Quá dễ để ngụy trang, cán bộ chỉ việc cạo trọc đầu là thành thầy tu. Còn cầm nắm các chức vụ huynh trưởng gia đình Phật tử, khuôn hội trưởng Phật Giáo lại càng quá dễ. Chỉ cần chăm lo Phật sự cho chùa là tha hồ leo đến chức nào cũng được. Chẳng hạn như cách thức tên cán bộ cộng sản vô cùng nguy hiểm Võ Đình Cường leo lên chức huynh trưởng Gia Đình Phật Tử toàn khối PGVNTN. Từ đó cộng sản tha hồ tác yêu tác quái, hoành hoành và thao túng Miền Nam như chổ không người. Cộng sản đã sử dụng và lèo lái Phật Giáo vì Phật Giáo là cái khiên đỡ đạn bách chiến bách thắng. Cho nên cho đến nay chúng cũng tiếp tục chiến thuật cũ mà không cần phải thay đổi, vì NVQG vẫn còn sợ quý thầy, có biết cũng ngậm miệng không dám làm gì. Một điều vô cùng đáng tiếc nữa là người Việt Quốc Gia bao giờ cũng thiệt thà nhẹ dạ và mau quên. Bị mắc bẩy bọn cộng sản giả dạng thầy tu giả dạng huynh trưởng không biết bao nhiêu lần trong hơn nữa thế kỹ, mà vẫn tiếp tục cả tin nhẹ dạ, vẫn đi tôn sùng những thấy tu có lý lịch mù mờ, có thành tích chống và thù ghét chính phủ VNCH một cách thậm tệ, chẳng hạn như NVQG đã tôn sùng các ông Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang chỉ vì một lý do duy nhất là sau này các ông này bất đồng với cộng sản, còn những chuyện các ông đó đã phá hoại Miền Nam như thế nào thì NVQG quên hết! Cộng sản đã dùng chiến lược Cộng Sản- Phật Giáo để kiểm soát và phá hoại thành công Miền Nam lúc trước, và bây giờ cũng dùng tiếp vũ khí đó để thôn tính Cộng Đồng NVQG. Việt Cộng sử dụng những khẩu hiệu “đòi hỏi tự do tôn giáo”, “Pháp Nạn” “Đàn áp Phật Giáo” để ngụy trang cho cán bộ cộng sản là NVQG, phá nát an ninh trật tự xã hội và gây khủng hoảng chính trị trầm trọng cho hậu phương Miền Nam, ảnh hưởng rất nhiều đến sức chiến đấu và làm nao núng tinh thần của Quân Lực VNCH nơi mặt trận. Chính phủ TT Ngô Định Diệm đã trùng tu gần như tất cả các ngôi chùa trên toàn lãnh thổ Miền Nam và xây mới gần 2000 ngôi chùa, trong đó khu đất rộng mênh mông của chùa Vĩnh Nghiêm trên đường Công Lý được chính phủ TT Ngô Đình Diệm cấp không, chỉ lấy 1 đồng tượng trưng, nhưng bọn cộng sản giả dạng thầy tu vẫn tỉnh bơ nói ông là “độc tài gia đình trị đàn áp Phật Giáo”. Bọn cộng sản giả dạng thầy tu đã giựt dây bọn thầy tu ích kỹ nhỏ nhen chỉ muốn tôn giáo mình là số một, chúng luôn nói TT Ngô Đình Diệm là độc tài gia đình trị đàn áp Phật Giáo, chúng nói đi nói lại nói mãi một giai điệu và đã làm một số người tin theo. Nhiều người Việt Quốc Gia vẫn cứ tiếp tục hời hợt và nhẹ dạ, vẫn không thấy được điều nguy hiểm này. Để rồi phải chăng Việt Cộng lại sẽ thành công trong việc bóp nát Cộng Đồng NVQG tại hải ngoại?

Tóm lại, thưa HT Thích Quảng Độ, chỉ có cộng sản là hạng người không có danh dự cho nên chuyện gì chúng cũng tuyên bố một cách khơi khơi không cần bằng cớ kiểu hang Pắc Pó. Người Việt Quốc Gia và người có lòng tự trọng không nên ăn nói rừng rú như vậy. Các ông trong PGVNTN trong quá khứ và hiện tại đã tuyên bố rất nhiều điều vô bằng vô chứng, không khác gì bọn cộng sản. Một ví dụ nhỏ, khi tố cáo là có “thế lực đen tại hải ngoại” đánh phá các ông, các ông phải cho biết cụ thể “thế lực đen tại hải ngoại” là ai, hãm hại các ông thế nào, vu khống các ông ra sao? bằng cớ? Hãy nhìn một số sự kiện, trong lúc  ông Liên Thành đưa ra đầy đủ chứng cớ những gì ông ta cáo buộc về PGVNTN, bằng hình ảnh lẫn tài liệu, thì phe PGVNTN lại tổ chức Tòa Án Nhân Dân Chùa Điều Ngự, gọi ông ta là “thế lực đen” đánh phá HT Thích Quảng Độ và PGVNTN đang trực diện đối đầu với cộng sản trong nước mà  hoàn toàn không chứng minh được bất cứ các cáo buộc nào của ông Liên Thành về PGVNTN là sai, thế thì xin thưa, chỉ có những loại người ngu dốt mới tin những gì PVNTN chống chế. Xin hỏi, chẳng hay HT Quảng Độ và PGVNTN trực diện đối đầu với cộng sản đến đâu rồi? Hay việc chống cộng bằng mồm của ông Thích Quảng Độ chỉ dùng để làm bức bình phong để cho để tử tại hải ngoại lấy các mác chống cộng của ông mà tha hồ hoành hành, tha hồ làm cộng sản nằm vùng, và tha hồ cho cộng sản gởi Công An Đầu Trọc ra hải ngoại cư ngụ trong chùa của khối PGVNTN, cầm nắm cộng đồng hải ngoại?. Tóm lại, khẩu hiệu “thế lực đen tại hải ngoại” và khẩu hiệu “HT Thích Quảng Độ và GHPGVNTN đang trực diện đối đầu với cộng sản trong nước” cái đó chỉ là mẩu giấy lộn đáng bỏ vào sọt rác! Câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn đúng trong mọi trường hợp, đừng nghe những gì PGVNTN nói mà hãy nhìn kỹ những gì PGVNTN làm

   2/-Ngày 20 tháng 10 năm 1974, Thích Quảng Độ hăm dọa chính phủ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, yêu cầu Tổng Thống phải từ chức, nếu không Phật Giáo sẽ hành động. Ông Thích Quảng Độ đã sử dụng tổ chức PGVNTN để đe dọa TT Nguyễn Văn Thiệu  như sau: “Nếu Thiệu ngoan cố không từ chức, thì Ấn Quang, tức PGVNTN, sẽ hành động kéo Thiệu xuống”.
Việc kéo Thiệu xuống là kế hoach ưu tiên của cộng sản nhằm làm suy sụp quan hệ lãnh đạo kéo đến rối loạn quân sự của Miền Nam, đưa đến chiến thắng dễ dàng cho cộng sản. Điều này đã xảy ra đúng như vậy. Miền Nam một lần nữa lại bị thay ngựa giữa dòng và bị thay bằng những con ngựa rất tồi tệ như Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh để rồi dẫn đến việc đầu hàng vô điều kiện một cách nhanh chóng và trong một hoàn cảnh thảm hại chưa từng thấy. Vì vậy, những kẻ đã yêu sách TT Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức phải chịu trách nhiệm rằng họ đã giúp cộng sản rất lớn trong việc thanh toán nhanh gọn Miền Nam. Bằng chứng hoạt động chính trị của PGVNTN nhằm nhanh chóng giao Miền Nam cho cộng sản bao gồm thứ nhất đó là PGVNTN đã có kế hoạch hơn nữa năm trước đó đòi TT Thiệu phải từ chức,  mà lời tuyên bố của ông Thích Quảng Độ nói trên là một bằng chứng, thứ hai là sự vận động con thoi giữa Thích Trí Quang, Hà Nội và Dương Văn Minh, thứ ba là sự biểu tình rầm rộ trên đường phố Sài Gòn của tăng ni PGVNTN vào tháng 3 năm 1975 để tạo áp lực cho việc kéo Thiệu xuống, đưa bù nhìn Dương Văn Minh lên. Và cộng sản đã đi bộ vào Miền Nam thật! Để ngày 30 tháng 4, GHPGVNTN sau khi hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ đuợc giao phó, bèn làm một văn bản hoan nghênh cộng sản vào tiếp thu Miền Nam, được ký và gởi lên cho chính quyền cộng sản bởi chính ông Thích Huyền Quang và tổ chức PGVNTN. Điều này chính ông Thích Huyền Quang đã xác nhận, được đăng trong “Thích Huyền Quang Kỷ Yếu”, trang 41, dòng thứ 11 đến thứ 21, xuất bản bởi Viện Hóa Đạo PGVNTN tại chùa Pháp Luân Houston, Texas năm 2008. Nguyên văn như sau:
 “ Trưa 30/4/75 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thất thủ. Sau khi nghe Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện trước sự tiến công của Bộ Đội Cách Mạng, lúc ấy tôi có mặt tại trụ sở GHPGVNTN ở chùa Ấn QuangChúng tôi họp bàn và bàn thảo tờ tuyên cáo nội dung hoan nghênh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vừa kết thúc. GHPGVNTN sẽ tìm phuơng tiện để hàn gắn vết thương chiến tranh.

Văn bản hoan nghênh cộng sản xâm lăng Miền Nam này và hành động trên 500 tăng ni tay cầm cờ giải phóng, chân xếp hàng tề chỉnh, hồ hởi đi đón Bộ Đội Cụ Hồ vào Sài Gòn đã nói lên tất cả sự phản bội Miền Nam nối giáo cho giặc của PGVNTN. Đây cũng là một sự sĩ nhục lớn không riêng gì cho Quân Lực VNCH đã đổ biết bao xương máu để bảo vệ Miền Nam khỏi tay cộng sản và các tướng lãnh đã tuẩn tiết khi cộng sản chiếm Miền Nam, mà còn là sự sĩ nhục cho hơn 20 triệu dân chúng Miền Nam đã bị nuôi ong tay áo!

3/-Ông Thích Quảng Độ đã coi cả hai chính phủ Cộng Hòa tại Miền Nam là kẻ thù. Đó là một sự kiện thật mà hai bằng chứng nói trên là sự chứng minh 100%. Còn ông Thích Huyền Quang thì tệ hơn nữa, ông  không những căm thù hai nền cộng hòa mà ông còn căm thù và kết án ngay cả các Vương Triều Việt Nam đã có công vô cùng to lớn trong việc xây dựng và mở mang bờ cõi đất nước. Dẫn chứng: ông Huyền Quang viết như sau: “ Giáo hội không mưu đồ chánh trị mà chỉ đòi hỏi sự độc lập chủ quyền của tôn giáomà luôn bị những thế lực chính trị thời đại đánh phá suốt 300 năm cận đại..”( Huyền Quang Kỷ Yếu trang 173,  mục số 8, dòng 20-22). 

Theo tôi, sự hận thù của một người bình thường có lẽ không thể nào  bằng sự hận thù của các ông sư GHPGVNTN. Các ông sư của PGVNTN thù cả những chính quyền của tận 300 năm về trước! Các ông nói các ông không hoạt động chính trị nhưng sự thật thì Giáo Hội của các ông đã mưu đồ chính trị với đầy đủ bằng cớ. Các ông trong PGVNTN và ông Thích Huyền Quang không thể chối được. Vì sự tự tôn quá đáng, nghĩ mình là cái rốn của Miền Nam Việt Nam nhưng lại không được chính phủ VNCH tôn sùng đúng mức, nên các ông PGVNTN căm thù tất cả các chính quyền VNCH, nên các ông PGVNTN đã mơ mộng đến người tình lý tưởng chưa cai trị mình đó là cộng sản. Do đó các ông PGVNTN đã tiếp tay cho cộng sản và trực diện đối đầu với hai chính quyền VNCH đến cùng và giúp đỡ cộng sản tận tình bằng việc chống lại chính quyền VNCH. Các ông PGVNTN tưởng bở cộng sản sẽ trả công bội hậu cho các ông, cho các ông “tự trị” sau khi cách mạng thành công, nhưng số phận của các ông PGVNTN hoàn toàn không khác gì số phận của MTGPMN, các ông cũng bị cộng sản xóa sổ như họ

 Lời nói của ông Thích Quảng Độ với Washington Post ngày 24 tháng 10 năm 1975 đòi TT Thiệu phải từ chức nếu không các ông sẽ kéo tổng thống Thiệu xuống, rồi sau đó các ông PGVNTN đã hồ hởi ra tận ven đô đón người anh hùng Bộ Đội và cái văn bản hoan nghênh sự xâm lăng của cộng sản đối với Miền Nam rành rành ra đó, thì bây giờ các công còn mở miệng chống cộng sản cái nổi gì? Chỉ có những kẻ ngớ ngẫn mới tin sự chống cộng của các ông!

  Xin được lập lại một lần nữa văn bản hoan nghênh cộng sản xâm lăng Miền Nam mà NVQG không được quyền quên:
 “ Trưa 30/4/75 chính quyền VNCH thất thủ. Sau khi nghe Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện trước sự tiến công của Bộ Đội Cách Mạng, lúc ấy tôi có mặt tại trụ sở GHPGVNTN ở chùa Ấn Quang.Chúng tôi họp bàn và bàn thảo tờ tuyên cáo nội dung hoan nghênh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vừa kết thúcGHPGVNTN sẽ tìm phuơng tiện để hàn gắn vết thương chiến tranh”.

Trong thời gian hương lửa mặn nồng với người tình cộng sản, các ông PGVNTN rất hoan hỷ. Bằng chứng là ông Thích Quảng Độ rất hoan hỷ với đồng chí  Mai Chí Thọ trò chuyện. Đó cũng là bằng chứng mà ông đã từng yêu thương bọn cộng sản, và đã từng mơ tưởng quyền lực chính trị. Ông tu hành thuần túy thì ông gặp tên trùm Công An Mật Vụ Mai Chí Thọ để làm gì?. Tiếc thay, tuần trăng mật giữa chú rễ Bộ Đội và cô dâu PGVNTN kéo dài chỉ một hai năm gì đó rồi nữa đường gãy gánh. Chú rễ Sở Khanh Việt Cộng mất dạy vài năm sau đã nhốt cô dâu PGVNTN vào lãnh cung. Hãy nghe ông Thích Đôn Hậu phát biểu về cuộc tình cay cú  đầy nước mắt nhưng không kém phần hài hước này như sau:
 “Tình đoàn kết đó, thương yêu đó, kính trọng đó đối với người kháng chiến, cách mạng chỉ được 10 ngày ! Sau 10 ngày đó : tình đoàn kết xưa nay bây giờ rã hết ! Lòng thương yêu đổi thành ghét cay ghét đắng!”

Đối với chính phủ VNCH lương thiện và nhân hậu thì các ông làm tới. Các ông chiếm công sở chiếm chính quyền, tự thiêu để đổ vạ cho chính quyền, ngày đêm đả đảo Mỹ Diệm Thiệu Kỳ không dứt, Mỹ phải cút về nước để có hòa bình lập tức. Rồi hòa bình đã đến như các ông mong đợi, ông Thích Huyền Quang và PGVNTN đã hoan nghênh chính quyền cách mạng một cách tận tình bằng những hành động nịnh bợ đón rước ăn mừng sinh nhật Bác Hồ hết sức mất tư cách. Đến khi chú rễ cộng sản dở thói sở khanh thì các ông PGVNTN mới đòi ly dị. Vậy thì, lý tưởng gì,? chính chuyên gì? chống cộng gì? NVQG gì ở các ông PGVNTN? Các ông bị cộng sản cho một quả lừa tổ bố, bị tịch thu gần như toàn bộ chùa chiền bất động sản mà chính phủ VNCH đặc biệt là chính phủ TT Ngô Đình  Diệm đã tặng dữ cho Giáo Hội của các ông. Các ông bị cộng sản trừng trị cho ngồi tù, bị quản thúc, ngay cả bị giết như ông Thích Thiện Minh, bị vô hiệu hóa như Thích Đôn Hậu, Thích Huyền  Quang. Nhản tiền không xa, nhản tiền ngay trước mắt! Ngày trước chính phủ VNCH chiều chuộng các ông, sợ các ông, thì các ông được đàng chân lân đàng đầu, các ông làm cho được  “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu”, hả hê giết được một vị tổng thống vì ông ta “đàn áp Phật Giáo” và vênh váo về việc đó, hãy đọc ông Quảng Độ viết:
  Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lý tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hãn của các ý thức hệ ngoại lai làm tha hóa xã hội và con người”.

 Xin hỏi ông Thích Quảng Độ và các ông PGVNTN, Ý thức hệ ngoại lai ở Miền Nam thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm là ý thức hệ nào? ông Quảng Độ vui lòng cho biết và nói rõ? Có phải ý thức hệ ngoại lai là ý thức hệ tự do dân chủ do bọn đế quốc Mỹ ngoại lai xâm lược đem đến hay không? hay là ý thức hệ ngoại lai là ý thức hệ Thiên Chúa Giáo do người Pháp đem lại, cạnh tranh với đạo của ông nên các ông thù ghét? Các ông kiếm cớ Đức Cha Ngô Đình Thục là anh ruột của Tổng Thống nên các ông đổ tất cả các tội lỗi lên đầu Đức Giám Mục Ngô Đình Thục, kể cả việc những kẻ nịnh bợ đến ăn mừng kim khánh của Đức Giám Mục cũng là tội lỗi của Đức Cha và người em là Tổng Thống Ngô Đình Diêm hay sao? Các ông nên nhớ rằng Đạo Thiên Chúa hay Đạo Phật đều là “ngoại lai” theo định nghĩa của các ông. Phật Thích Ca là người Ấn Độ và Đạo Phật cũng là “ý thức hệ” ngoại lai du nhập vào nước ta như  Đạo Thiên Chúa chứ không phải bắt nguồn từ nước ta. Nước ta nguyên thủy chỉ có Đạo Thờ Cúng Tổ Tiên mà thôi. Các ông lấy tư cách gì mà thẩm định người khác hoặc các triết lý khác là ngoại lai hay nội lai? Các y thức hệ này tấn công xã hội và tấn công các ông một cách hung hãn như thế nào, xin vui lòng dẫn chứng, nó làm ai trong các ông chết chưa, hay là các ông tự đốt ông Thích Quảng Đức rồi vu cáo cho người khác đàn áp các ông? Không phải chỉ có một mình ông Thích Quảng Đức, các ông còn biểu tình đốt nhiều thầy tu và chú tiểu khác qua việc bốc thăm tự thiêu. Các ông đốt phòng thông tin Hoa Kỳ, đình công bãi thị, chợ không họp trường không mở, các ông chiếm quốc lộ I huyết mạch của quốc gia không cho lưu thông dân sự và quân sự. Các ông núp trong chùa và sau tượng Phật để bắn chết dân. Các ông chiếm chính quyền địa phương, chiếm đài phát thanh quốc gia mấy tháng trời là để bảo vệ lý tưởng đạo đức đông phương, chống trả lại sức tấn công hung hãn đó sao? Mô Phật! Luật nhân quả nhà Phật đã chứng không đâu xa, chứng ngay vào việc Việt Cộng trừng trị các ông PGVNTN liền sau đó. Kẻ cắp gặp bà già, với cộng sản , các ông không vâng lệnh chúng, không vào Phật Giáo Quốc Doanh đứng dưới sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc là chúng bóp nát các ông ra từng mãnh. Chúng nó giết ông Thích Thiện Minh, chúng nó tịch thu tất cả các bất động sản mà chính phủ VNCH đã tặng dữ cho các ông, chúng nó bỏ tù các ông. Tất cả những gì các ông đang lãnh đủ âu cũng là sự công bằng của Phật về những gì các ông đã gieo rắc cho “gia đình trị độc tài bách hại Phật Giáo Ngô Đình Diệm”, cho “ độc tài quân phiệt Thiệu Kỳ” và cho dân chúng Miền Nam. Các ông không thấy điều đó nhưng NVQG chúng tôi thấy điều đó!

  4/- Ngày 18 tháng 1 năm 2010 ông Thích Quảng Độ viết bài chữi Quân Lực VNCH và chính quyền VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ. Vào thời điểm này ngôi chùa Thanh Minh Thiền Viện nơi ông nói rằng đang bị quản thúc , đã được xây cất nguy nga lộng lẫy. Câu hỏi đặt ra là phải chăng việc sĩ nhục Quân Đội VNCH này là cách mà ông trả ơn cho chính quyền cách mạng xây cất lại Thanh Minh Thiền Viện cho ông?

5/- Ngày 30 tháng 1 năm 2011, thừa thắng xông tới, ông Thích Quảng Độ viết“Pháp lý của Giáo hội Phât giáo Việt Nam Thống nhất còn, đạo Phật Việt còn. Pháp Lý của GHPGVNTN mất đi, đạo lý suy vong, văn hiến sẽ trở về thời kỳ ngoại thuộc, công cuộc cứu khổ và giác ngộ chúng sinh sẽ tan biến nơi vô minh mù mịt.

Thưa ông Thích Quảng Độ, cái Pháp Lý của GHPGVNTN tôi không biết nó tròn hay nó méo, nhưng tôi biết chắc rằng cái đạo lý đó là một thứ gì đó rất dễ sợ mà người đàng hoàng phải tránh xa. Bởi vì cái Pháp Lý PGPGVNTN này nó được đẻ ra và rao giảng bởi những tên thầy tu có hạnh kiểm tồi bại, chẳng hạn như Thích Chánh Lạc Chủ Tịch Viện Hóa Đạo GHPGVNTN sách nhiểu tình dục trẻ em,vu cáo gia đình nạn nhân là cộng sản, âm mưu ăn cắp tài sản của Phật Tử Colorado là chùa Bồ Đề. Thích Giác Đẳng, Tổng Thư Ký GHPGVNTN thì lường gạt 200 ngàn Francs của Phật Tử Thụy Sĩ, tiếp không biết bao nhiêu là nữ tín đồ trong phòng riêng, Thích Viên Lý thì có hai tình nhân chính thức đã từng đánh ghen phải đi nhà thương Fountain Valley, một tình nhân là người Tàu tên Liễu Cẩm Hồng đã có hai con trai với ông và không biết cơ man nào là những nữ tín đồ đến phòng riêng của ông trong nhiều giờ chẳng khác nào gái gọi. Còn Võ Văn Ái đã từng tranh chấp tài sản với Thích Nhất Hạnh, nghe nói đã vớt được của Thích Nhất Hạnh một vố khá nặng. Võ Văn Ái hoạt động cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo báo chí tây phương có đăng rất nhiều, tên này cũng thù ghét VNCH và yêu Bác Hồ như các ông Thích Quảng Độ và Thích Huyền Quang, nên y đã đi vào quốc hội Mỹ yêu cầu để yêu cầu cắt viện trợ cho Miền Nam. Với chất lượng của Ban Giảng Huấn Thích Giác Đẳng, Thích Chánh Lạc, Thích Viện Lý và Võ Văn Ái như vậy, vậy thì Đạo Lý của PGVNTN là cái đạo lý gì? đạo lý của ai? Của Phật hay của quỹ sa tăng?

Thưa ông Thích Quảng Độ, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, không có quốc giáo, với triết lý sống nói chung giống nhau trên căn bản của những con người có đạo đức. Các vị chủ chăn của các tôn giáo đều dạy tín hữu của mình phải tôn trọng các tôn giáo khác và chẳng ai dám tự cho tôn giáo của mình là số một, đừng nói chi đến dám đồng hóa tổ chức tôn giáo của mình là dân tộc, không ai dám nói nếu pháp lý của tổ chức tôn giáo mình bị mất đi thì đạo lý Việt Nam sẽ suy vong, trở về thời kỳ ngoại thuộc, khổ nạn sẽ dài dài. Hãy nghe ông Thích Quảng Độ vọng ngữ kiêu binh:
 “Pháp lý của Giáo hội Phât giáo Việt Nam Thống nhất còn, đạo Phật Việt còn. Pháp Lý của GHPGVNTN mất đi, đạo lý suy vong, văn hiến sẽ trở về thời kỳ ngoại thuộc, công cuộc cứu khổ và giác ngộ chúng sinh sẽ tan biến nơi vô minh mù mịt” .
 Thưa HT Quảng Độông rao giảng pháp lý nhà Phật hay ông tiếp thị PGVNTN của ông đây? Tu hành mà kiêu căng như vậy sao ông Quảng Độ? Giáo lý nhà ông thì số một còn giáo lý nhà người là thứ ngoại lai hung hãn ?  Tu hành mà cái ngã chỉ toàn là sự hiếu thắng và tự kiêu. Và qua đó cũng thấy thủ phạm của sự kỳ thị ghen ghét giữa Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo không ai khác chính là các ông, khơi mào từ tổ chức PGVNTN của ông chứ không ai khác. Hèn gì mà các đệ tử Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng, Võ Văn Ái, Thích Chánh Lạc của ông lúc nào cũng dạy Phật Tử rằng PGVNTN là dân tộc. Ai nói xấu PGVNTN kẻ đó là phản quốc phi dân tộc. Các ông nói rằng các ông chống cộng, nhưng rõ ràng giữa các ông và cộng sản có gì khác mà các ông chống? Hay là ông chống cộng chỉ để trèo lên vị trí độc tôn của dân tộc Việt Nam cho bảnh hơn cộng sản? Vì bọn Cộng Sản cũng tự cho mình là tổ quốc và dân tộc, ai không yêu Bác Hồ không yêu XHCN kẻ đó là phản quốc, nên các ông ganh tị chăng?! Thưa các ông PGVNTN và HT Thích Quảng Độ, thật tình mà nói các ông quả là những kẻ ngu si không khác gì Việt Cộng, tưởng rằng đem ba cái thứ lý luận lếu láo kiểu hang Pắc Pó ra tuyên truyền là ngu muội hóa được tín đồ hay sao? Xin thưa Việt Cộng nó có súng, có nhà tù và có nghĩa địa nên người dân phải cố nhịn bọn thảo khấu sống qua ngày. Còn các ông, các ông có gì để trấn áp người khác, đặc biệt là người ở hải ngoại phải phải tin cái lý luận “PGVNTN là dân tộc? Chống PGVNTN là phản quốc phi dân tộc? Pháp Lý của các ông mất đi thì văn hiến Việt Nam sẽ suy vi?” của các ông? Xin thưa, các ông PGVNTN, các ông chả là cái đinh gì cả, các ông chỉ là những tên khoác lác vọng ngữ không biết xấu hổ, nói mà không biết mình nói gì mà thôi

6/-Ngày 8 tháng 5 năm 2011 ông Thích Quảng Độ tự hào việc giựt sập chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa là “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu” và thóa mạ thời kỳ chính quyền VNCH lãnh đạo là thời kỳ xã hội bị tha hóa ngoại lai, cho nên các ông đã làm cách mạng để làm sạch xã hội Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lý tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hãn của các ý thức hệ ngoại lai làm tha hóa xã hội và con người

7/- Ngày 2 tháng 3 năm 2012, HT Thích Quảng Độ viết thư cho TT Obama nói rằng chỉ có tổ chức PGVNTN mới có thể ổn định vùng Châu Á Thái Bình Dương. Võ Văn Ái nói thêm rằng PGVNTN ngay cả còn có thể take care một vùng rộng hơn thế nữa! Chỉ có GHPGVNTN là đóng vai trò chủ yếu trong sự chuyển hóa ôn hòa Việt Nam sang một xã hội đa nguyên… Lưu ý Tổng Thống về "tiềm lực"của GHPGVNTN trong việc "khai mở kỷ nguyên dân chủ mới, an ninh và hòa bình tại Châu Á và khu vực Thái Bình Dương”.
Tất cả các bằng chứng trên là kết luận chính xác cho thấy HT Thích Quảng Độ và tổ chức PGVNTN là những thực thể đầy tham vọng chính trị và rất kiêu binh, muốn dùng thần quyền để đoạt thế quyền. Đó cũng là căn gốc của vấn đề tại sao tổ chức PGVNTN không đựợc NVQG tôn trọng như các tổ chức tôn giáo thuần túy và đáng kính khác!
 Rõ ràng, tổ chức này toàn những kẻ tu hành nhưng lại không lo tu hành, không lo làm những việc thuộc về phục vụ xã hội như từ thiện mồ côi v.v, mà chỉ lo làm chính trị. PGVNTN chỉ lo tranh dành quyền lực, hành động phản quốc để trấn áp và khống chế thế quyền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa, lo trang hoàng cho tổ chức PGVNTN của họ sao cho bảnh nhất, to nhất, và uy quyền nhất. Tự cho mình là tổ chức tôn giáo thượng đẳng, mọi chính quyền đều phải đội PG lên đầu, PGVNTN không những đã vu khống đặt điều cho nhiều chính quyền, kể các chính quyền  cách đây 300 năm!. Với tâm lý cho là mình bị chèn ép, họ đã ganh ghét đặt điều cho Công Giáo, một tôn giáo có tổ chức có kỹ luật và có hệ thống đào tạo tương đối tốt nhất và mang tính quốc tế. Hãy đọc một đoạn viết của ông Thích Huyền Quang về Công Giáo khi nói về chính sách chống cộng của chính phủ VNCH qua chương trình Ấp Chiến Lược, khu Trù Mật và Dinh Điền như sau: “ Chính sách chống cộng là để lùa dân nghèo khổ vào các khu này nhằm bảo vệ an ninh cho hậu phương. Các thành phần đưa đi lập nghiệp mới này đa số là tín đồ Phật Giáo và một số dân chúng đã có đời sống ổn định. Đa số các khu nói trên do cán bộ chống cộng điều khiển nghiêm nhặt, có nơi nằm dưới quyền các vị Linh Mục. Ai chịu phục tùng hoặc ai chịu cải đạo theo Thiên Chúa Giáo thì được cấp phát lương thực đầy đủ. Những kẻ khác bị đối đãi phân biệt..”( Kỷ yếu Huyền Quang trang 39)

Quả là một sự đặt điều dối trá hết sức tồi tệ cho tôn giáo khác, không xứng với hạnh kiểm của một người tu hành. Họ dối trá với tín đồ, với người ngoài và dối trá ngay cả với chính họ. Sự dối trá lên cao độ đến mức tạo ra sự hoang tưởng và tự kiêu ngỡ mình là cái rốn của vũ trụ, đến độ tạo ra cả sự hài hước. Không hài hước sao khi mà bây giờ số phận của ông Thích Quảng Độ vẫn còn như con cá nằm trên thớt không thể nhúc nhích gì được với cộng sản, nhưng ông vẫn nghĩ mình có khả năng ổn định Châu Á Thái Bình Dương và ngay cả “beyond”!. Xin hỏi ông Thích Quảng Độ, ông và và tổ chức Phật Giáo của ông lấy gì để răn đe các quốc gia trong vùng nhất là Trung Cộng không được manh động, để vùng Châu Á Thái Bình Dương và “beyond” được ổn định? Xin ông đưa ra đề án về khả năng hoạt động của các ông để cho người Việt chúng tôi hãnh diện và lé mắt chút coi? Ông biết rằng ở các nước phương tây đặc biệt là Hoa Kỳ, làm việc gì cũng phải có đề án trình lên hội đồng để xem xét tính khả thi của đề án đó và ngân khoản để thực thi. Xin ông Thích Quảng Độ cho biết đề án cai quản vùng Châu Á Thái Bình Dương tốn bao nhiêu tiền? Tại sao ông lại kiếm job từ Mỹ, một chính phủ mà các ông đã từng mĩa mai là “chế độ Mỹ -Diệm chế độ Mỹ -Thiệu độc tài quân phiệt đàn áp Phật Giáo” mà không là một chính phủ khác? Nga? Tàu? hoặc ngay cả cái chính phủ nước CHXHCNVN mà các ông đã từng “đoàn kết, thương yêu kính trọng”? Phải chăng vì PGVNTN nghĩ rằng chính phủ Hoa Kỳ lắm tiền nhiều bạc, dễ xin “viện trợ” và dễ dụ hơn  Nga Tàu và Việt Cộng chăng, nên các ông làm đại, được thì tốt, không được thì cũng có mất mát gì đâu, phải không? Thưa ông Thích Quảng Độ, cái mất mà những kẻ tâm địa vốn nhỏ nhen tham lam không bao giờ biết đó là cái mất của DANH DỰ

Danh dự nào dành cho một kẻ tu hành đã dùng thần quyền để hành động phản quốc, biểu tình tấn công chính phủ, chiếm công sở chiếm quốc lộ chiếm chính quyền phá nát quốc gia, gây xáo trộn đời sống người dân mà còn ở miệng nói đó là cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu nhằm bảo vệ đạo lý đông phương trước sức tấn công hung hãn của ý thức hệ ngoại lai?
Danh dự  nào dành cho một kẻ tu hành lại đèo bồng chuyện chính trị thế gian?

Danh dự nào dành cho một kẻ tu hành đã hơn 80 tuổi rồi mà vẫn còn huyên hoang khoác lác, trong tay không một chút quyền lực không một chút tài năng nào cả mà dám tuyên bố tổ chức PGVNTN của mình có khả năng ổn định an ninh chính trị cho Châu Á Thái Bình Dương? “Với những kinh nghiệm trong quá khứ, hy vọng rằng Tổng Thống sẽ có một cái nhìn rõ về khả năng của Phật Giáo trong việc mở ra một kỹ nguyên mới về dân chủ, an ninh và hòa bình của Châu Á và khu vực Thái Bình Dương” , “ Trong thời đại khủng bố toàn cầu này, Phật Giáo đóng một vai trò năng động trong việc duy trì sự ổn định cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương và còn xa hơn nữa” ( Vũ trụ chăng?)

Thú thật, đọc xong mấy câu nổ văng miểng này tôi nổi da gà. Nổi da gà không phải vì những từ ngữ tầm cỡ ngoài hành tinh mà HT Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái dùng  mà nổi da gà vì xấu hổ. Xấu hổ vì tại sao lại có một người Việt Nam làm nghề đi tu, trong tay không có lấy một tên lính làm thuốc, lại đi nổ sảng với một chính phủ hàng đầu thế giới rằng mình có tiềm năng ổn định Châu Á Thái Bình Dương? Con sâu làm rầu nồi canh, người Mỹ họ sẽ nhìn những người Việt Nam như thế nào đây sau khi đọc những giòng chữ ba hoa khoác lác như vậy?  PGVNTN có khả năng duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực Châu Á và Thái Bình Dương? God Bless Châu Á Thái Bình Dương!

 HT Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái muốn gì với cái Resume long trời lỡ đất nói trên? Xin tiền Mỹ? xin quyền Mỹ? Xin làm lính đánh thuê cho Mỹ để kiếm hàng tỉ đô la mà không phải làm gì để bảo vệ Miền Nam? xin cả ba thứ? Thưa ngài Quảng Độ, tôi không hiểu ngài có khả năng ổn định và duy trì hòa bình trong cái phường mà ngài đăng ký hộ khẩu thường trú chưa, mà ngài đòi ổn định khu vực Châu Á Thái Bình Dương?  Nghe ngài và Võ Văn Ái nói tôi nhớ đến nhân vật Xuân Tóc Đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Giá gì ông Vũ Trọng Phụng còn sống để viết một cuốn sách về khả năng duy trì ổn định hòa bình khu vực Châu Á Thái Bình Dương và vũ trụ không người lái (beyond) của PGVNTN và HT Thích Quảng Độ
Khơi khơi cho mình có tiềm năng ổn định Châu Á Thái Bình Dương, khơi khơi tự cho mình và tổ chức PGVNTN của mình là dân tộc, truyền thừa từ đời nhà Đinh tới nay, còn mấy đạo khác kể như là không phải dân tộc.  Dựa vào định lý bá láp đó, PGVNTN kết tội bất cứ ai chống PGVNTN là đứa đó chống dân tộc và phản quốc. HT Thích Quảng Độ cũng không hề đưa ra được một miếng giấy thừa tự nào của Phật Giáo từ đời nhà Đinh hay nhà Lê nhà Lý chứng nhận truyền ngôi  Phật Giáo lại cho PGVNTN. Ngay giấy của thời cận kim nhà Nguyễn cũng không có, nhưng HT Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái đi đâu cũng lãi nhãi mình kế thừa Phật Giáo Việt Nam từ thời Đinh Lê Lý Trần! Như vây, nếu Trần Minh tôi cũng cạo đầu rồi tập họp một số các ông không có tóc khác, mở ngành chùa mới, lấy tên GH Phật Giáo Việt Nam Độc Nhất chẳng hạn, cũng tuyên bố thừa tự Phật Giáo từ đời Ngô Quyền, trước cả đời nhà Đinh của PGVNTN, thì giữa hai bên PGVNTN và phe Trần Minh Thượng Tọa có gì khác nhau? Chẳng ai có văn tự giấy tờ di chúc gì cả thì ai làm gì được ai? Ai kiện được ai về chuyện đại lý độc quyền đại diện dân tộc đại diện Phật Giáo?

Ai đã làm cho ông Thích Quảng Độ mắc chứng bịnh nổ không thuốc trị này? Phải chăng bịnh tự kỹ ám thị của chính ông ta và cả cái đám đệ tử và tín đồ vô liêm sĩ  của ông ta chẳng hạn Võ Văn Ái, Thích Viên Lý,  Thích Giác Đẳng v.v đã bơm ông tận mây xanh để ông nghĩ ông là thánh sống và ông sống trong ảo giác đó, còn chúng thì hưởng lợi từ sự đóng góp của những người Việt Quốc Gia chống cộng?

Rõ ràng, qua lá thư trên chúng ta đã thấy rõ những khát khao chính trị và hoang tưởng của bản thân ông Thích Quảng Độ và tổ chức PGVNTN. Ông hoang tưởng mình là thừa tự chân truyền của Phật Giáo Việt Nam từ thủy tổ đến nay, dựa vào sự hoang tưởng đó ông leo lên một mức hoang tưởng khác nữa đó là Phật Giáo là Dân Tộc, mà GHPGVNTN lại là đại diện chính thống của Phật Giáo Việt Nam, suy ra PGVNTN là dân tộc, tức ông Quảng Độ là dân tộc. Dân tộc Việt Nam và nước Việt Nam không chưa đủ, ông muốn tiến đến đỉnh cao trí tuệ đó là khu vực Châu Á Thái Bình Dương, và beyond! Tôi tin rằng tham vọng của HT Thích Quảng Độ và PGVNTN sẽ không ngừng ở đó, vì vậy tôi chúc ông và PGVNTN sau khi được Hoa Kỳ cho cai quản vùng Châu Á Thái Bình Dương sẽ tiến thẳng ra vùng beyond tức là vượt qua mây xanh rơi tỏm vào chốn vũ trụ không người lái! Có câu là ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung là thế

Dường như GHPGVNTN chỉ gồm những kẻ hành nghề đi tu, chứ không phải đi tu.

Hãy xem cách thức mà chùa Điều Ngự họp báo để phản bác tất cả các cáo buộc trên của ông Liên Thành là rõ: Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo PGVNTN đang trực diện đối đầu với cộng sản trong nước và đang lên tiếng về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh đó PGVNTN lại là dân tộc, cho nên tất kẻ những kẻ chống lại hoặc nói xấu GHPGVNTN tại hải ngoại, tức Liên Thành và tập đoàn của hắn, đều là những thế lực đen phản dân tộc phản tổ quốc! Sau đó PGVNTN ra nghị quyết sẽ thực thi cái này sẽ làm cái nọ, rồi biểu quyết đồng ý nhất trí, xong giải tán! Ngoài vở kịch toà án nhân dân như vậy, các ông Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng, Thích Chánh Lạc đã không trả lời các câu hỏi liên quan đến hạnh kiểm của các ông mà những người được mời đến chùa đã hỏi. Vì vậy, lúc đầu số người đến dự ước lượng gần cả ngàn người, sau nữa giờ con số chỉ còn khoảng 120. Vì người có tư cách và có lý trí, ai có thể chịu đựng được những phát ngôn mất trí của các ông sư nói trên và tên nằm vùng Võ Văn Ái? Chỉ có những kẻ stupid hết thuốc chữa mới ngồi nghe   những lý luận nhảm nhí và hài hước như thế.
Chỉ có những người tự hạ phẩm giá mình ngang hàng với những tên lừa đảo tiền bạc, sách nhiễu tình dục, quan hệ bừa bãi với phụ nữ, hoạt động nằm vùng mới đến Chùa Điều Ngự ngồi nghe Võ Văn Ái, Thích Chánh Lạc,Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lý nói chuyện đạo lý nhà Phật và chuyện chống cộng cứu nước!

Trước cuộc họp báo của ông Liên Thành, rất nhiều cú phone đã được gọi tới đài truyền hình, gọi tới cá nhân nói rằng sẽ có biểu tình lớn chống đối, nhưng chuyện đó đã hoàn toàn không xảy ra.  Điều này chứng tỏ tổ chức PGVNTN đã cố ra sức hù dọa mong ông Liên Thành bỏ cuộc, nhưng chẳng có gì cả, ngoài ba người mang poster nói rằng GHPGVNTN không là cộng sản. Ai nói vậy chẳng được? khác nhau là ở lời nói nào có giá trị lời nói nào không. Điều này cho thấy tổ chức PGVNTN chỉ là con cọp giấy chỉ có thể phùng mang trợn mắt nhưng không cắn ai được cả. Từ năm 1963 đến nay không ai phanh phui sự thật về PGVNTN nên tổ chức này nghĩ mình là thần quyền số một, muốn nói gì thì nói, muốn chữi ai thì chữi, chẳng đứa nào dám hó hé. Hể cái gì made in PHVNTN thì cái đó là dân tộc Việt Nam! Hể cái gì chống lại PGVNTN thì cái đó hẳn là thế lực đen phản quốc phản dân tộc! Xin nhừong lời bình lại cho quý vị
Hẳn giờ này HT Thích Quảng Độ vẫn hãnh diện về các ông Thích Chánh Lạc, Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lý và Võ Văn Ái, vì không thấy ông Thích Quảng Độ lên tiếng về những hành động bất chính này của các thành viên cao trọng nói trên. Phải chăng những chuyện đồi bại nói trên là chuyện bình thường, không có gì gọi là vi phạm đạo đức con người, phải không thưa Đức Đệ Ngũ Tăng Thống PGVNTN???

 Thêm những câu hỏi tôi muốn hỏi HT Thích Quảng Độ tại sao ông sĩ nhục QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ, nhưng ông lại muốn xin job Mỹ cai trị vùng Châu Á Thái Bình Dương?

Hồ Chí Minh làm thơ trước tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn “Bác đưa một nước qua nô lệ, tôi dẫn năm châu đến đại đồng”. Thoang thoảng mùi của Hồ Chí Minh trong ý tưởng của HT Thích Quảng Độ, xin mời NVQG đọc các đoạn văn rất “khiêm tốn” sau đây của một kẻ tu hành:
“Pháp lý của Giáo hội Phât giáo Việt Nam Thống nhất còn, đạo Phật Việt còn. Pháp Lý của GHPGVNTN mất đi, đạo lý suy vong, văn hiến sẽ trở về thời kỳ ngoại thuộc, công cuộc cứu khổ và giác ngộ chúng sinh sẽ tan biến nơi vô minh mù mịt. (Quang Do ngay 30 thang 1 năm 2011, queme.net) “Chỉ có GHPGVNTN mới có khả năng giải trừ quốc nạn”( Võ Văn Ái)
Có một chút mắc cỡ của người có liêm sĩ khi đọc mấy áng văn chương kinh hồn của HT Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái. Còn người bạn Mỹ của tôi, khi đọc xong lá thư của HT Quảng Độ gởi TT Obama thì ông nói “ muốn bịt mũi!” Đó là sự thật 100%

Người viết bài này không mong gì hơn là tất cả những người tự cho mình là NVQG phải thức tỉnh về cái gọi là GHPGVNTN và cảnh giác với tất cả những tổ chức chính trị, tổ chức tôn giáo, những “chính trị gia” chuyên đến chùa kiếm phiếu, miệng thì tự xưng là NVQG, nhưng hành vi thì chống lại những NVQG đang nổ lực bạch hóa chiến lược và chiến thuật dùng tôn giáo và các đoàn thể NVQG để thôn tính NVQG. Chúng ta sẽ không cho phép bất kỳ tổ chức nào, tôn giáo hay trần thế, khống chế sự thật. Chúng ta có quyền này. Và nếu mọi người đều sử dụng quyền tự do ngôn luận một cách có trách nhiệm, thì bọn cộng sản sẽ không còn chổ ẩn náu và kế hoach thôn tích cộng đồng NVQG xóa bỏ lá cờ vàng ba sọc đỏ kể như phá sản
GHPGVNTN, Một biểu tượng hay một vấn nạn của Phật Giáo Việt Nam và Việt Nam?
Hoa Kỳ ngày 22 tháng 10 năm 2012
Trần Minh
__._,_.___