Saturday, May 23, 2009

GHPGVNTN- GIẤC MƠ LÃNH TỤ 8-15

GIẤC MƠ LÃNH TỤ



Phần 8/62



Đòi nợ máu, diệt Công giáo, ngụy hòa và cướp chính quyền



3 năm sau khi chế độ NĐ sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là "3 năm xáo trộn", 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không còn chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai thì bắt, muốn phá chỗ nào thì phá, muốn đốt nơi nào thì đốt, muốn giết ai thì cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của ho..

Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ "lật đổ" được NĐ, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lạị Say men chiến thắng, họ đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đòi một "quy chế đặc biệt" cho PG, rồi đòi "diệt dư đảng Cần Lao TCG", đòi đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đòi hỏi phản phúc này không được thỏa mãn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.


* Một biến cố bất ngờ :


Sau khi tiếng reo hò ngày 1/11/63 chưa dứt thì một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc "chỉnh lý" này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậỵ

Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh : "Từ 3 tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp".

Các nhà bình luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy vì các lý do :

- Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.

- Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lãnh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Lodge đã gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng khi họ đã củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ý D'Orlandi đã lưu ý 2 tướng Đôn và Kim (vẫn còn giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp :

"Sau hết, tại nước này hiện nay, ít khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan tro.ng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp.


"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...

"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN".

Vào tháng 3/64, TT Johnson đã chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ý tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ý kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.

Quan điểm của Lodge rất quan tro.ng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.

Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.



* Tiễn đưa "ân nhân" :

Khi biến cố "chỉnh lý" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG.

Trước khi lên máy bay, Lodge đã nói với các ký giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đã nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong thì bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đã làm nhóm PG đấu tranh khó chịụ

Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodge.



* Đòi nợ máu :



Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đã nhận xét :

"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đã hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".

Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đòi nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :

- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái.

- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.

- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...

Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh còn do dư..

Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân thì có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đã chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đã không dám đáp ứng đòi hỏi của TT Trí Quang.

Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đã làm cuộc "chỉnh lý". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.

Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy thì còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đã ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 người.

Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ



1. Vụ Phan Quang Đông :

Ngày 26/3/64, Tòa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.

Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và tình báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều tra. Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên tình báo của Pháp, nên PQD đã bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm thì Nguyễn Phương đã nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đình Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư vì đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc trình cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc trình được Đỗ Mậu trình lên TT Diệm và sau đó vụ này không còn nhắc tới nữa.

Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của hình luật để xử tử hình PQD và Ngô Đình Cẩn thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử hình ngày 28/3/64.



2) Vụ Dương Văn Hiếu :

Ngày 23/6/64, Tòa Án Cách Mạng tại Saigon lại xét xử vụ Dương Văn Hiếu, Tư lịnh Cảnh sát Đặc biệt và các cộng sự viên là Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái và Phan Khanh.

Ông Dương Văn Hiếu là người phụ trách công tác phản gián để tìm bắt các cán bộ CS nằm vùng. Năm 1958, trong một cuộc hành quân tại Quảng Ngãi, Trung doàn 4 của Sư đoàn 1 đã phát hiện 1 tài liệu bí mật của VC chôn giấu và cho cơ quan mật vụ của BS Trần Kim Tuyến biết. Dương Văn Hiếu được cử đi và ông khám phá đó là một tài liệu ghi khóa mật mã của VC. Hiếu cho làm bản sao, chôn lại chỗ cũ và cho pháo binh bắn vào để phá dấu vết đào bớị Nhờ vậy VC không nghi ngờ các khóa mật mã của họ đã bị khám phá.

Dùng các khóa mật mã bắt được, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Hiếu đã giải mã hàng trăm văn kiện liên lạc giữa VC và nhờ đó phát hiện hàng trăm cán bộ nằm vùng của VC từ Quảng Trị tới Saigon. Trong các nhân viên cao cấp của VC bị bắt có Cao Đăng Chiếm, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền,... Nhóm TT Trí Quang đã có nhiều hồ sơ tố cáo Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã bắt giam người trái phép, trong đó có vụ lớn nhất là vụ Nguyễn Văn Đạt ở Huế. Các lãnh tụ chùa Từ Đàm quả quyết Đạt đã bị bắt oan, nhưng hồ sơ tình báo cho thấy Đạt chính là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên của VC. Có nhiều cán bộ VC hoạt động dưới quyền của Đạt đã làm tờ tự thú và xin trở về với chính phủ VNCH. Về sau, bịnh sốt rét của Đạt tái phát nặng, cơ quan an ninh đã cho Đạt về với gia đình và giúp cho phương tiện cứu chữa.

Mặc dù có những tài liệu minh chứng các hồ sơ do các tăng ni chùa Từ Đàm đưa ra tố cáo về việc bắt giam trái phép đều liên hệ đến đặc công CS nằm vùng, ngày 25/6/64 tòa tuyên án Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 năm khổ sai.

Hậu quả của các bản án này là các nhân viên tình báo và an ninh ở miền Trung không còn dám bắt các cán bộ nằm vùng hoạt động trong các tổ chức PG nữa nên tình hình miền Trung đã trở nên rối loạn liên tục.

Các nhân viên tình báo cao cấp nói rằng TT Trí Quang cương quyết loại trừ tất cả những nhân chứng biết rõ và nắm trong tay hồ sơ hoạt động cho CS của nhóm ông. Những người có tên trong danh sách đòi nợ máu của ông đều là những nhân chứng biết về sự liên hệ của ông với VC, trong đó Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông là 2 người biết nhiều chi tiết nhất. Tuy 2 nhân chứng này đã chết, nhưng cơ quan tình báo của VNCH và CIA đã lưu trữ đầy đủ hồ sơ hoạt động của nhóm này.

Về chiến dịch "diệt dư đảng Cần Lao", VC cho biết :

"Hoạt động của ta từ sau hồi Diệm đổ diễn ra mạnh mẽ, đã kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả 3 vùng, từ rừng núi đến đồng bằng, thành phố, tới giới tuyến giáp ranh vùng sâu.

"Trên cơ sở phong trào đấu tranh quần chúng, công tác xây dựng thực lực cách mạng cũng phát triển mạnh : Ở Thừa Thiên cơ sở chính trị đã tăng 40% so với năm 1962, phong trào thanh niên ra vùng giải phóng tham gia cách mạng ngày một nhiều.

"Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh, nổi lên là những cuộc đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân lao động đòi trừng trị những tên ác ôn đầu sỏ có nợ máu với dân như tên Đỗ Cao Trí, đòi hạ bệ tên Nguyễn Quang Trung, tỉnh trưởng Quảng Tri.. Cuộc đấu tranh đòi xử tội tên Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông có tới 5 vạn người tham giạ Khi Nguyễn Khánh ra Huế bị quần chúng la ó, ném guốc, dép phải bỏ về Saigon" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).

Sau vụ PG miền Trung bị dẹp tan vào tháng 6/1966, uy lực của TT Trí Quang không còn nữa, chính phủ đã ký sắc lịnh ngày 31/10/66 giảm án khổ sai của các đương sự bị Tòa Án Cách Mạng kết án xuống còn 5 năm khổ sai rồi qua năm 1967 trả tự do hết.

* Thanh toán Công giáo và các đảng phái chống Cộng dưới danh nghĩa diệt trừ "dư đảng Cần Lao" :

Sau khi chế độ NĐ sụp đổ, TT Trí Quang cho lập ngay Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, phát xuất từ Huế, để tiếp tục cuộc "đấu tranh". Như chúng ta đã thấy, mục tiêu chiến lược của ông không phải là chống đàn áp PG; nghĩa là PG chỉ là con cờ của ông. "Chống đàn áp PG" chỉ là chiến thuật. Do đó, khi mục tiêu chiến thuật này được thỏa mãn, ông tạo mục tiêu mới ngay và xử dụng PG để đạt tới mục tiêu mới nàỵ Mục tiêu chiến thuật mới đó là "diệt dư đảng Cần Lao". Như đã nói, coi là "dư đảng Cần Lao" tất cả mọi người theo Công giáo và bất cứ tổ chức nào chống hay không đồng quan điểm với ông. Về sau, các khẩu hiệu của nhóm PG cực đoan miền Trung ghi rõ "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo". Phải diệt xong CG và các đảng phái quốc gia chống Cộng mới có thể cướp chính quyền, vì đó là các đối thủ có thể ngăn chặn hoặc phá vỡ kế hoạch tiến công của ông. Vì thế, mới ra quân, ông và nhóm của ông đã chỉ thị cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc chĩa mũi dùi thẳng vào CG và các đảng phái quốc gia chống Cô.ng. TT Trí Quang không lường trước được phản ứng của CG, các đảng phái và các Phật tử chân chính, nhất là các tông phái miền Bắc và miền Nam.

1) Tạo lý do mới : Để xách động Phật tử đứng lên diệt "dư đảng Cần Lao TCG", ngày 3/8/64, TT Thích Thiện Minh dẫn một phái đoàn Phật tử đến gặp Tướng Nguyễn Khánh, đưa hồ sơ tố cáo tại các địa phương "dư đảng Cần Lao" đang "đàn áp PG" ở Quảng Nam và Đà Nẵng : bắt bớ Phật tử ở Duy Xuyên, đốt nhà ở Phước Tuy, sát hại Phật tử ở An Thạch, v.v... Sau khi điều tra, ban điều tra thấy rằng những người bị bắt đều là cán bộ CS nằm vùng tổ chức phá rốị

2) Đánh phá các cơ sở CG : Áp đảo được chính quyền địa phương, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại miền Trung quay mũi dùi tấn công thẳng vào CG. Các nhân viên CG trong các cơ quan công quyền bị phân biệt đối xử. Nhiều người bị bắt, bị cất chức hay bị đổi đi xạ Các giáo xứ thường bị khiêu khích và đe dọạ Khi thấy nhóm PG miền Trung này quá lộng hành, các giáo xứ này đã liên kết để đối phó.

Ngày 26/8/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bất thần ra lịnh tấn công 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, đốt sạch nhà cửa, giết 11 người và gây thương tích cho 42 ngườị 2 giáo xứ này đã trở thành một bãi tha ma, nhà thờ và tượng ảnh bị đập nát, những cột nhà đen nám chơ vơ giữa đống tro tàn... Tướng Nguyễn Chánh Thi tuyên bố cứu trợ nhưng không cho bồi thường, viện lý do vụ thiệt hại này không phải lỗi của chính quyền. Ông cho điều tra qua loa rồi xếp luôn hồ sợ Người điều khiển cuộc đốt phá và chém giết "kiểu phong trào Văn Thân" này là Hà Xuân Kỳ và Phan Xuân Huỵ Nhờ chỉ huy vụ chém giết và đốt phá này Huy được nhóm TT Trí Quang đưa ra làm dân biểu đơn vị Đà Nẵng. Cũng trong ngày đó, các giáo xứ tại Qui Nhơn cũng bị đánh phá nặng nề, nhưng dân làng đã tự cứu lấy mình.

Được tin cầu cứu từ Đà Nẵng và Quy Nhơn, ngày 27/8/64, khoảng 2000 giáo dân các xứ di cư đã đến bao vây Bộ Tổng Tham Mưu ở Saigon đòi gặp Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, yêu cầu giải quyết vụ Đà Nẵng và Quy Nhơn, đòi phải có biện pháp đối với các tổ chức gây rốị Cuộc xô xát xảy ra làm 4 người bị bắn chết và 11 người bị thương. Một toán đến Đài phát thanh đọc bản Tuyên ngôn chống Cộng và chống trung lập. Tại đây có một cuộc xô xát với học sinh Nguyễn Trường Tô.. Viện Hoá Đạo và Tòa Giám Mục đã đứng ra yêu cầu tín đồ giữ bình tĩnh và giữ hòa khí.

Ngày 28/8/64, Hội Đồng Nhân dân Cứu Quốc vây trường CG Nguyễn Bá Tòng, đập phá nhà in của trường, đốt phá tòa báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm. Hay tin này một số thanh niên CG di cư đã đến giải vâỵ Lực lượng Nhảy Dù được huy động đến để gàn xếp. Kết quả có 2 người chết và 48 người bị thương.

Ngày 29/8/64, Viện Hoá Đạo ra tuyên bố không muốn nhúng tay vào các vụ bạo động này nữa vì các nguyện vọng của PG đã được thỏa mãn thì bị TT Trí Quang và các Phật tử theo ông ở Huế phản ứng mạnh mẽ, nên ngày 1/9/64, TT Tâm Châu lại ra thông báo khác yêu cầu chính phủ phải dứt khoát với "các nhóm người phá hoại của chế độ cũ". Yêu cầu chính phủ đừng chụp mũ các Phật tử tranh đấu là du đãng để bắt bớ. Ông dọa là nếu đến ngày 27/10/64 không giải quyết thì sẽ cho lịnh bải thị và bải khóa.

Để đáp lại, ngày 8/9/64 linh mục Hoàng Quỳnh, chủ tịch Khối Công Dân Công Giáo, gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một thư ngỏ yêu cầu chính phủ quan tâm đến các vụ tấn công các cơ sở CG trong những ngaỳ vừa qua, yêu cầu điều tra và giải quyết một cách vô tư các vụ tấn công các giáo xứ ở Đà Nẵng và Quy Nhơn. Nếu chính phủ không vãn hồi được an ninh thì các giáo xứ CG bắt buộc phải đứng ra tổ chức tự vê..

Ngày 21/9/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc cho lịnh tấn công Đài phát thanh Quy Nhơn và lùng bắt "dư đảng Cần Lao".

Ngày27/9/64, TT Trí Quang và nhóm của ông ra lịnh mở các cuộc lùng bắt "dư đảng cần lao" tại Huế và các tỉnh Trung phần.

Ngày 25/9/64 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Saigon lại hô hoán rằng "dư đảng Cần Lao" đang thuê lò rèn Lâm Hiệp Thành ở Xóm Củi rèn hàng ngàn con dao để chống cách ma.ng. Nhưng Phái Đoàn Viện Trợ Hoa Kỳ ra thông cáo nói rõ là số dao này do Phái Đoàn đặt ra để cung cấp cho Phủ Bình Định & Phát Triển phát cho nông dân chớ không phải cho "dư đảng Cần lao".

Từ khi các giáo xứ CG bắt đầu tự tổ chức để bảo vệ chính họ thì Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc không còn lộng hành như trước nữạ Về vụ này các nhóm CG thân Cộng như Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Văn Trung, Trương Bá Cần,...đã phản đối chủ trương tự vệ, nhưng các giáo xứ nghe họ thì chắc đã tan hoang như Thanh Bồ và Đức Lợị



3) Vụ Linh mục Cao Văn Luận :


Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, là cái gai mà TT Trí Quang muốn nhổ ngay từ đầu, nhưng ông không dám nhổ ngay vì Linh mục Luận là người có công lớn trong việc xây dựng lên Viện Đại học Huế, ông lại được hầu hết các giáo sư và sinh viên yêu chuộng vì tính tình hòa nhả, có tinh thần phục vụ tích cực và bất vụ lợi...


Trong thời gian PG đấu tranh lật đổ ông Diệm, ông không đứng về phe chính phủ. Nhưng sự hiện diện của ông lúc này gây trở ngại cho cuộc đấu tranh cướp chính quyền mà TT Trí Quang đang phát động vì Linh mục Luận không đồng ý đưa chính trị vào đại học. Ngoài ra, TT Trí Quang không muốn có một người CG nắm địa vị quan trọng trong Viện Đại học Huế, nhất là khi người đó là một linh mục. Viện Đại học Huế phải trở thành của PG. Vì thế, khi đã làm chủ được tình hình ở Huế và đa số các tỉnh miền Trung, TT Trí Quang liền ra lịnh cho các giáo sư thuộc phe ông trong Viện đại học dứt điểm vụ nàỵ Trước hết, nhóm này cho xuất bản tờ tuần báo Lập Trường để triển khai chủ trương của nhóm, cổ võ cho đường lối của TT Trí Quang và công khai chống chính phủ.


Ngày 18/9/64, một số giáo sư và sinh viên họp tại Viện Đại học yêu cầu Linh mục Luận từ chức để khỏi làm trở ngại cho chiến dịch bài trừ "Cần Lao" của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Một số sinh viên không đồng ý quan điểm của một số giáo sư nên đã làm kiến nghị phản đốị Một giáo sư đại diện cho phe PG đấu tranh trả lời rằng Linh mục Luận giống như một "ung thư" phải cắt để khỏi làm tê liệt thân thể. GS Lý Chánh Trung, tuy ủng hộ PG, nhưng cũng bất bình. Ông viết :

"Cái "ung thư" Cao Văn Luận đã mọc từ trong bào thai của Viện Đại học Huế. Nó đã khai sinh và làm cho trưởng thành bào thai dó. Cái "ung thư" đó đã lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mời mọc từng người về giúp Viện Đại học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáọ Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng "được" lắm chứ. Cái trường Y Khoa của BS Quyến, nếu không có niềm tin tưởng, cái gàn lì và công vận động của Cha Luận, làm sao thành hình ?

"Thực ra các anh đã "cách chức" Cha Luận vì Cha không dồng ý với các anh về mặt chính tri.. Như vậy Viện Đại học Huế đã biến thành một đảng chính trị rồị Và ai không đồng ý với các anh đều là "ung thư" phải mổ phăng đi cho..."dễ làm việc" có phải vậy không ?

"Các anh đòi hỏi dân chủ. Đòi hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng huênh hoang; bắt đầu làm chủ chân lý, 'xếp sòng cách mạng' " ("Ba năm xáo trộn"; Lý Chánh Trung; Nam Sơn, 1966; t. 108-112).


Tại Saigon, ngày 27/9/64, "Lực lượng Sinh viên Học sinh bảo vệ Giáo dục thuần túy" tập họp và biểu tình trước Viên Hóa Đạo yêu cầu "đưa chính trị ra khỏi học đường". Hội Đồng Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh Saigon họp ra quyết nghị chống việc các tổ chức chính trị xen lấn vaò học đường và lôi cuốn sinh viên vào các cuộc phiêu lưu chính tri.. Các tổ chức này bị phe PG cực đoan tố cáo là tay sai của "dư đảng Cần Lao".



4) Đánh tất cả những ai không đồng chủ trương :



Sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cất chức Tư lịnh Vùng I vì dung dưỡng phong trào ngụy hòa và sự lộng hành của nhóm PG cực đoan miền Trung, TT Trí Quang thấy thế dựa bị mất, đã mở cuộc phản công Hội Đồng Quân Lực và tiến tới cướp chính quyền. Trong chiến dịch mới này, TT Trí Quang không tha bất cứ tổ chức nào ông coi là "phản động", không đứng về phe của ông.

Về phía các đảng phái, người ta thấy chỉ có nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc hệ phái Nguyễn Tường Tam do Nguyễn Tường Hiếu lãnh đạo đã theo nhóm TT Trí Quang, còn đa số các đảng phái khác hoặc đứng ngoài cuộc chiến hoặc chống lạị Về phía báo chí, ngoại trừ một vài tờ báo của PG, hầu hết các báo không đồng ý về đường lối củaTT Trí Quang. Các tông phái PG miền Nam rút ra khỏi phe đấu tranh như Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam... Ngay cả các tăng sĩ miền Bắc trong Viện Hóa Đạo cũng thường xuyên phản kháng. Trước tình trạng này, TT Trí Quang vẫn không xét lại hành động của ông mà còn ra lịnh tấn công bất cứ tổ chức hay cơ quan nào không chấp nhận chủ trương của ông.


Ngày 6/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đến đập phá tòa soạn báo Sống của Chu Tử, đốt xe đạp đậu trước tòa soạn và tố cáo báo này là tay sai "dư đảng Cần Lao". Ngày 8/4/66, Nghiệp đoàn Ký giả ra thông báo phản đốị


Ngày 9/4/66, VNQĐ Đà Nẵng đã ra thông cáo tố cáo Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đã phá trụ sở của họ và bắt đi các đảng viên.


Ngày 10/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng Đà Nẵng có trang bị súng tiểu liên và lựu đạn đã đến vây đánh giáo xứ Tam Tòa, nhưng nơi đây đã tự vệ vững chắc. Ngày 28/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ném lựu đạn vào nhà cha xứ Tam Tòạ


Ngày 16/4/66, vào sáng sớm, ông Chu Tử (Chu Văn Bình), chủ bút nhật báo Sống, vừa ra khỏi nhà thì bị bắn nhiều phát.


Ngày 17/4/66, nhiều đoan` thể, tổ chức, giáo sư và sinh viên Luật khoa, Tổng hội sinh viên Saigon và Đà Lạt, các luật sư, nhà văn, nhà báo đã lên án vụ ám sát Chu Tử.


Ngày 21/4/66, VNQĐ họp tại Tòa Đô Chánh Saigon tố cáo các vụ đàn áp đảng viên tại Đà Nẵng, chê chánh quyền bất lực và quyết định tự vệ bằng võ lực. Cùng ngày VNQĐ Quảng Ngãi biểu tình chống khủng bố và bạo đô.ng.

Ngày 24/4/66, giáo dân Saigon, Thủ Đức và Đà Nẵng biểu tình chống khủng bố và bạo động, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Cabot Lodgẹ

Ngày 27/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ám sát ông Phan Thuyết, Bí thư VNQĐ Đà Nẵng.

Ngày 2/5/66, trong khi các đảng viên VNQĐ và thanh niên làm lễ truy điệu ông Phan Thuyết thì tại Đã Nẵng đám tang của ông Thuyết bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đi xe Jeep xã súng bắn làm 2 người bị thương nă.ng.

Ngày 7/5/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ra lịnh cấm bán ở Huế và Đà Nẵng các nhật báo Chính Luận, Tự Do, Thời Luận và Tiền Tuyến vì cho rằng các báo này là của "dư đảng Cần Lao".


Ngày 14/5/66 tại Saigon, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đã ám sát ông Nguyễn Chữ, một đảng viên VNQĐ khi ông lên tiếng tố cáo các vụ bắt bớ đảng viên và phá trụ sở đảng tại Đà Nẵng.


Ngày 26/5/66, sinh viên Tô Lai Chánh, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên saigon bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt cóc vì Chánh và Tổng hội quyết định không tham gia vào cuộc nổi loạn của PG. Trước đó, Chánh và các sinh viên đã tuyệt thực phản đối và yêu cầu TT Thiện Minh chứng minh điều TT nói là sinh viê đã nhận tiền của chính phủ. Đến ngày 30/5/66, Chánh được thả.


Ngoài ra, cùng lúc TT Trí Quang đi khai chiến với các tông phái PG khác. Ngày 29/5/66, ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, phải viết văn thư yêu cầu Tòa Đô Chánh Saigon cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa Xá Lợị


Ngày 2/4/66, trong cuộc biểu tình trước Đài phát thanh Saigon,



Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng hô to "Đả đảo Thích Tâm Châu" và "Hoan hô Hồ Chí Minh".


Ngày 3/6/66, TT Trí Quang công khai lên án chính sách ôn hòa của TT Tâm Châu khiến TT Tâm Châu và Hộ Giác tức giận từ bỏ các chức vụ trong Viện Hóa Đạo.. TT Tâm Châu đã phải chạy ra Vũng Tàu hay vào Trung tâm Nhu đạo ở Quang Trung để trốn vì sợ bị ám sát.


Qua vài sự kiện trên, người ta bắt đầu thấy rõ rằng nhóm PG cực đoan miên Trung đã đi từ việc chụp mũ "dư đảng Cần lao" đến tố cáo là "tay sai chính quyền", rồi khủng bố, bắt giam, bắt cóc, ám sát, chiếm cơ quan công quyền, v.v... Họ đã dùng bất cứ phương tiện nào để đạt mục đích. Từ từ dân chúng bắt đầu hiê^?u rõ và chán ghét và họ mạnh dạng lên án. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng trở nên rối loạn, không còn kiểm soát được, mở đường cho chính quyền thanh toán.



(còn tiếp)


Tài liệu :

1) Phạm Văn Phổ, "Cuộc tranh đấu âm thầm và liên tục của Giáo hội VN để đòi quyền tự do tôn giáo", Khai Thác Thị Trường, số tháng 7/8/9/1994.

2) Hoàng Diệu Tâm, "Tôn giáo dưới chế độ Việt Cộng : 1975-1995", Kháng Chiến, số 152, tháng 12/1995.

3) Lữ Giang, "Những bí ẩn đằng sau các cuộc thánh chiến tại VN", 1994.

4) Nguyễn Thị Sông Hương, "Phê bình mùa biển động", nxb Đại Nam, 1992.

5) Chính Đạo, "Tôn giáo và chính trị : Phật giáo 1963-1967", nxb Văn Hoá 1994.



Phần 9/62



Cướp chính quyền


Sau khi đã thỏa mãn tiếng kêu đòi nợ máu của nhóm TT Trí Quang xong, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ đến củng cố địa vị.

* Hiến chương Vũng Tàu :

Vốn là một quân nhân thuần túy, Tướng Khánh không có kinh nghiệm về chính trị và nhất là không biết gì đến thủ đoạn và chiêu bài của CS, nên lầm tưởng rằng đưa những người mà nhóm của TT Trí Quang đòi nợ máu ra xử bắn và bỏ tù là có thể lấy lòng của nhóm PG cực đoan miền Trung.

Ông không hiểu rằng "diệt dư đảng Cần Lao" chỉ là mục tiêu bề ngoài (biểu kiến), một chiêu bài để kích động quần chúng. Mục tiêu tối hậu là cướp chính quyền tại miền Nam VN. Vì thế, sau khi đưa Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông ra xử bắn (cùng ngày) và tuyên phạt khổ sai các thành phần bị đòi nợ máu trong danh sách của TT Trí Quang, Tướng Khánh tưởng rằng ông đã được PG ủng hộ nên thừa thắng xông lên và kết quả thật là thảm hại.

Ngày 16/8/64, Tướng Khánh cho triệu tập Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (HDQDCM) tại Vũng Tàu để công bố một bản Hiến Chương mớị Theo đó, sẽ có một Quốc hội lâm thời gồm 100 hội viên dân sự và 50 hội viên quân sự do HDQDCM chỉ đi.nh. HDQDCM vẫn là cơ quan quyền lực tối caọ và hội đồng này đã chỉ định Tướng Khánh làm Chủ tịch VNCH.

Nhiều người tin rằng tác giả của bản Hiến Chương trên là Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng của chính phủ Nguyễn Khánh. Hồng là một luật sư có tư cách đàng hoàng, được nhiều người yêu mến, nhưng về phương diện chính trị, ông được xếp vào loại những nhà lập thuyết, hoạch định đường lối và chính sách theo "luận", mang tính chât mờ mờ ảo ảo, chứ không theo thực tế.

Hiến Chương vừa được công bố thì bị chống đối ngaỵ Các đảng Đại Việt (BS Nguyễn Tôn Hoàn), Dân Chủ Xã Hội (Nguyễn Bảo Sơn) và VNQĐ (biệt bộ Nguyễn Tường Tam) lên tiếng công kích trước nhất, sau đó là Tổng hội Sinh viên Saigon và khối Công giáọ Tướng Khánh nhìn lại nhóm PG đấu tranh miền Trung thì nhóm này cũng chống đối luôn. Sinh viên Saigon là giới làm áp lực mạnh nhất đòi Tướng Khánh phải thu hồi Hiến Chương và thành lập chế độ dân chủ.

Ngày 26/8/64, sau 10 ngày ban hành Hiến Chương, HDQDCM tuyên bố thu hồi Hiến Chương và thiết lập các cơ chế dân chủ. Quân đội quay về cương vị quân sự của ho.. Tạm thời thành lập Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực gồm Tam Đầu Chế : Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh. Chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ nhưng phải tổ chức Quốc Dân Đại Hội trong vòng 2 tháng.



* Không còn chính phủ :

Lợi dụng cơ hội này, TT Trí Quang tuyên bố không chấp nhận cơ chế tạm thời nói trên và hô hào loại bỏ chế độ độc tài quân phiệt. Miền Trung gần như không còn chính phủ nữa

Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do TT Trí Quang điều động đã nổi loạn khắp nơi và làm chủ tình thế ở các tỉnh miền Trung, thay chính quyền cai tri.. Ngày 3/9/64, Tướng Dương Văn Minh và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh đã bay ra Huế trấn an phong trào PG. Lý Chánh Trung viết bài "Loạn để trị" trên tờ Tìm Hiểu số 2/10/64 mô tả giai đoạn này như sau :

"Vì rằng từ mấy tháng nay, nhất là từ cái ngày Hiến Chương Ô Cấp (Vũng Tàu), "thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý" bị đập đổ, ngươi dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của tự dọ Tự do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấụ Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng trận. Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều "thiện chí" bằng cái chính quyền này : xum xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi người.

"Nhưng tội thay, không làm ai vừa lòng cả.

"Nhưng còn chính quyền nữa đâu mà nói ! Ai cầm quyền hiện nay tại miền Nam ? Người Mỹ trả lời : Ông Nguyễn Khánh, rồi "Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực". Dưới Ban Lãnh Đạo Lâm Thời có một chính phủ xử lý thường vụ" trong 2 tháng (chỉ còn 1). Trong chính phủ này, có một ông Phó Thủ Tướng đã bôn đào, 2 ông Tổng Trưởng đã chấp nhận từ chức. Dưới nữa ta có các Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, v.v... Tất cả guồng máy hành chánh vẫn nằm đó, công chức cuối tháng vẫn lãnh lương dều đềụ Nhưng chính quyền, ôi chính quyền, mi ở nơi nao?

"Ở Huế có cái Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (rồi Cứu Quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đã cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thế rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để "thỉnh ý" Hội Đồng đó. Hội Đồng thương thuyết tay ngang với Chính Phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, những Hội Đồng tương tự được thiết lập và người ta đã chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người "dư đảng Cần Lao" đến đầu thú nơi ông Tỉnh thì được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội Đồng thì được trả về Tỉnh.

"Thế thì ai cầm quyền trên đất nước này ? Và dựa vào đâu những cái Hội Đồng đó dám tự xưng là "nhân dân" ?

Dân nào mà cử các ông ấy ?".

Chính trong thời gian này, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang đã thiêu rụi 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, tấn công các cơ sở ấn loát và báo chí của CG tại Saigon. Nếu không có sự đối kháng của Khối Công Dân CG (của linh mục Hoàng Quỳnh), các tổ chức CG tự vệ tại các giáo xứ thì nhiều tang thương chắc đã xảy ra.



* Thủ Tướng Trần Văn Hương :

Ngày 8/9/64, Tướng Khánh ban hành Quyết định số 7/BLDQGQL thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia với nhiệm vụ soạn thảo Hiến Chương, triệu tập Quốc Dân Đại Hội, tổ chức các cơ cấu quốc gia, cố vấn cho chính phủ và Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Lâm Thời Quân Lực. Thượng Hội Đồng này gồm đại diện của các tôn giáo và một số nhân sĩ. Về phía PG có Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Nguyễn Xuân Chữ, HồĐắc Thắng, Nguyễn Đình Luyện và Tôn Thất Hanh.

Sau đó Tướng Khánh nghĩ đến giáo sư Trần Văn Hương. Ông là người miền Nam, thanh liêm, đã từng chống ông Diệm và được giới PG miền Nam ủng hô.. Ông rất cương quyết, không nhượng bộ những hành vi phi pháp và bạo động. Cũng như đa số dân miền Nam, ông không đồng ý lối đấu tranh của TT Trí Quang. Người ta dùng ông để chống lại nhóm PG cực đoan miền Trung.

Ngày 9/9/64, Trần Văn Hương được cử làm Đô Trưởng Saigon thay thế Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm. Tuy là Đô trưởng nhưng ông được xếp ngang hàng như một Tổng trưởng.

Ngày 13/9/64, Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Saigon - Gia Định chiếm đóng một số trụ sở quan trọng như đài phát thanh, Phủ Thủ tướng...rồi lên tiếng đả kích Tướng Khánh là hèn nhát và mị dân. Tướng Đức nhân danh "Hội Đồng Quân Dân Cứu Quốc" tuyên bố vãn hồi trật tự bị phá hoại và uy quyền quốc gia đã bị miệt thi.. Tướng Đức nói không có đảo chánh mà chỉ biểu dương lực lươ.ng. Ngày 19/9/64, Tướng Đức và các sĩ quan theo ông bị cất chức. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang lại lộng hành hơn trước.

Ngày 20/10/64, Hiến Chương Lâm Thời được ban hành. Theo Hiến Chương này thì Quốc Dân Đại Hội có quyền lập pháp và cử Quốc Trưởng. Thủ Tướng do Quốc Trưởng chọn và phải được Quốc Dân Đại Hội chấp thuận.

Ngày 24/10/64, Thượng Hội Đồng Quốc Gia tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng VNCH theo Hiến Chương ngày 10/10/64. Tướng Nguyễn Khánh đệ đơn từ chức Thủ Tướng và từ giả chính quyền để trở về quân độị Ngày 31/10/64, giáo sư Trần Văn Hương được cử giữ chức Thủ Tướng.

Do sự đòi hỏi của mọi giới, ngày 13/11/64, Thủ Tướng Hương tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Quốc Gia là chính phủ cần phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị và tôn giáo, đưa tôn giáo ra khỏi chánh tri.. Lệnh dẹp các cuộc biểu tình và nổi loạn được ban hành ngay sau đó. Tướng Khánh được cử là Tổng tư lịnh quân đội.

Để đối phó với thái độ cứng rắn của Thủ Tướng Hương, TT Trí Quang ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc biểu tình khắp nơi đả đảo chính phủ. Ngày 24/11/64, TT Tâm Châu gởi văn thư yêu cầu Thượng Hội Đồng Quốc Gia có thái độ với ông Hương. Ông Hương ra lịnh đóng cửa các trường học cho đến khi có lịnh mới và tuyên bố không lùi bước và sẽ dùng mọi cách để tái lập trật tự và uy quyền của quốc giạ Có 228 người biểu tình và gây rối bị bắt.

Ngày 29/11/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tổ chức đưa đám tang học sinh Lê Văn Ngọc bị chết trong cuộc biểu tình ngày 25/11/64. Cảnh sát khám thấy chiếc xe NDG.228 trong đoàn hộ tang có chở võ khí liền bắt giam một số ngườị Các cuộc biểu tình và bải khoá lại được tổ chức liên tục. Chính phủ ra lịnh đàn áp thẳng taỵ Các TT Tâm Châu, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác bắt đầu tuyệt thực.

Viện Hoá Đạo đóng cửa ngưng hoạt động.

Tuy đã giao quyền cho chính quyền dân sự, ngày 18/12/64 Tướng Khánh lại cho thành lập Hội Đồng Quân Lực và ngày 20/12/64 Hội Đồng này tuyên bố bất tín nhiệm và giải tán Thương Hội Đồng Quốc Gia vì cho rằng Thượng Hội Đồng bị một số tướng lãnh có óc bè phái, bị mua chuộc, gây chia rẽ hàng ngũ quốc giạ Một số thành viên của Thượng Hội Đồng bị lưu giữ.. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Hương vẫn được tín nhiệm.

Tướng Đôn kể rằng khi đến Đà Lạt thì Tướng Khánh than phiền là Thượng Hội Đồng gồm các tay chân thân tín của Dương Văn Minh và họ đã chống lại tất cả những quyết định của ông. Ông sẽ về Saigon để bắt tất cả "những tên phản động" đó. Thật vậy, Thượng Hội Đồng gồm nhiều đại diện của phe TT Trí Quang như Lê Khắc Quyến, Ngô Gia Hy, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Luyện, Hồ Đắc Thắng..., phe này luôn luôn tìm cách phá quấy chính phủ Hương khiến chính phủ này không làm gì được.



* Tướng Khánh và Mỹ :

Thấy cảnh tượng Thượng Hội Đồng Quốc Gia bị thanh toán như trở bàn tay, ngày 20/12/64, Đại sứ Hoa Kỳ lúc đó là Tướng Maxwell D. Taylor đã mời Tướng Khánh và một số tướng trẻ tới nhà Tướng Westmoreland. Trong bữa tiệc này, về phía VN người ta thấy có các Tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang. Về phía Mỹ có Đại sứ Maxwell D. Taylor và phụ tá của ông là Alexis Johnson. Tướng Taylor đã nói với các tướng Việt Nam :"Đêm nay, tại nhà của Tướng Westmoreland, tôi nói rõ cho các anh rằng Hoa Kỳ không còn muốn dung thứ

cho những âm mưu gây ra tình trạng bất ổn nữa". Tướng Taylor tỏ ra khó chịu về việc bắt giữ các thành viên của Thượng Hội Đồng mà không hề hỏi ý kiến của ông tạ Ông nói nếu tình trạng này kéo dài thì Hoa Kỳ phải nghĩ đến việc cắt viện trợ.

Tướng Khánh tỏ ra tức giận về những lời nói bộc trực của Taylor. Hôm sau, ông tuyên bố với báo chí :"Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn tủi nhục trong nô lệ ngoại bang". Sau đó, ông ra lịnh phóng thích vợ của Huỳnh Tấn Phát, một lãnh tụ cao cấp của MTGPMN, rồi gởi cho Huỳnh Tấn Phát một bức thư dề nghị liên hiệp. Ngay 28/1/65, Phát phúc thư, ca tụng Tướng Khánh có tinh thần bất khuất, không chịu áp lực của đế quốc và thực dân, và đề nghị Tướng Khánh cùng các bạn của ông tham gia MTGPMN. Tướng Khánh ngây thơ về chính trị đến mức không hiểu được MTGPMN chỉ là công cụ của Hà Nội hay sao và Huỳnh Tấn Phát chỉ là một tên hữu danh vô thực trong Mặt Trận, làm sao quyết định được việc ông đề nghị ? Cho đến nay, ông vẫn còn cho rằng nếu lúc đó ông không bị lật đổ thì "MTGPMN đã về với mình rồi và đã có hòa bình lâu rồi !". Tầm vóc của Tướng Khánh còn quá bé nhỏ, thua Ngô Đình Nhu xa lắc, nên Bắc Việt không muốn nói chuyện.



* Mượn gió bẻ măng :

Lợi dụng sự căng thảng giữa Tướng Khánh và Mỹ, Hà Nội đã chỉ thị các đặc công CS nằm vùng tấn công thẳng vào Mỹ và lập các tổ chức ngụy hòạ TT Trí Quang và Võ Đình Cường liền ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc hành đô.ng. Ngày 22/1/65, đoàn biểu tình kéo tới Tòa Đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi, đưa cao các biểu ngữ "Hãy để cho dân tộc Việt Nam tự quyết" và đả đảo Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN. Sau đó, đoàn biểu tình kéo tới đập phá thư viện Lincoln ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, trước Tòa Đô Chánh Saigon. Khoảng 100 người bị bắt. Thủ Tướng Hương phải xin lỗi Tòa Đại sứ Mỹ (thư viện Lincoln là tài sản của Hoa Kỳ) và đọc một bài hiệu triệu quốc dân ý thức trách nhiệm trước tình thế, tránh bạo động và lên án "lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng ni..." và "những trò khỉ của chúng".



* Quân đội quay trở lại :

Ngày 27/1/65, Hội Ðồng Quân Lực ra tuyên cáo nói rằng Quân Đội đã trao quyền lại cho một chánh quyền dân sự, nhưng tình thế ngày càng rối ren hơn nên Quân Đội buộc lòng phải đứng ra lãnh trách nhiệm lịch sử. Hội Đồng ủy nhiệm cho Tướng Khánh giải quyết các cuộc khủng hoảng và tổ chức Quốc Dân Đại Hộị Thủ tướng Hương chấp nhận từ chức. Hạ được ông Hương, PG coi như đạt được thắng lợi.

Được tin Quốc Dân Đại Hội được thành lập, khối PG tỏ vẻ phấn khởị Nhóm TT Trí Quang tin rằng nếu tổ chức Quốc Dân Đại Hội, phe của ông sẽ nắm đa số và quyết định mọi đường lối của quốc giạ Viện Hóa Đạo đưa ra một thông cáo tuyên bố ngưng các cuộc biểu tình và ra lịnh trở lại sinh hoạt bình thường. Các lãnh tụ PG tự động chấm dứt tuyệt thực.

Hôm 28/1/65, Hội Đồng Quân Lực ban hành quyết định lưu niệm Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và cử Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh quyền Thủ Tướng.

TT Trí Quang họp báo phân trần : PG không muốn chính quyền dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi PG là CS. PG không chống Mỹ nhưng VN không muốn bị hiểu lầm. Ông muốn tỏ thái độ hòa dịu để dànnh nổ lực đạt tháng lợi tại Quốc Dân Đại Hội.Bất thần Không quân Mỹ ném bom miền Bắc ngày 7/2/65 và những ngaỳ kế tiếp. Hành động đột biến này của Mỹ là yếu tố thứ hai khiến TT Trí Quang phải ngưng tranh đấu để xét xem những diễn biến mới của tình hình và đợi chỉ thị.

Ngày 15/2/65, Tướng Khánh, nhân danh Hội Đồng Quân Lực, ban hành quyết định tuyển ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng và BS Phan Hy Quát làm Thủ Tướng. Chiều hôm đó Thủ Tướng trình diện thành phần chính phủ, trong đó Trần Quang Thuận làm Bộ trưởng Xã hội, Bùi Diễm làm Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng. Chính phủ này được coi là chính phủ PG, nên TT Trí Quang không chống chính phủ nữa.

Ngày 19/2/65, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Nguyễn Bảo Kiếm tổ chức đảo chánh dưới danh nghĩa Lực Lượng Bảo vệ Dân Tộc, đòi Nguyễn Khánh từ chức và trao quyền lại cho dân sư.. Cuộc đảo chánh bất thành. TT Tâm Châu lên đaì phát thanh kêu gọi Phật tử ủng hộ Hội Đồng Quân Lực. Tướng Thi cho rằng cuộc đảo chánh này do Đại sứ Maxwell Taylor xúi dục.

Kể từ khi Tướng Khánh chống lại Đại sứ Taylor, các tướng lãnh nhận thấy phải thay Tướng Khánh mới được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng chưa có cơ hộị Nhân dịp có đảo chánh, Tướng Khánh đang lẫn tránh ở Ba Xuyên, Hội Đồng Quân Lực họp và quyết định cử Trung tướng Trần Văn Minh làm Tổng tư lịnh Quân đội thay cho Tướng Khánh và bổ nhiệm ông làm Đại sứ Lưu Ðộng.



* Mở mặt trận mới : ngụy hòa

Khi đã có một chính phủ PG, TT Trí Quang không chống chính phủ nữa mà mở mặt trận mới : đòi Mỹ ngưng chiến tranh. Chiến dịch này nhằm chống lại việc Mỹ ném bom Bắc Việt và mở rộng hành quân ở miền Nam.

Ngày 27/2/65, TT Thích Quảng Liên, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, tuyên bố thành lập Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, yêu cầu chấm dứt chiến tranh VN và rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam.

Nhận ra đây là một phong trào ngụy hòa do các cán bộ CS nằm vùng giựt dây, các đảng phái quốc gia và đoàn thể ôn giáo khác đã phản ứng mạnh mẽ, yêu cầu chính phủ Quát có thái độ dứt khoát với các tổ chức ngụy hòa.Ngày 1/3/65, cính phủ Quát vội vàng tuyên bố : Chỉ nói chuyện hòa bình khi CS chấm dứt xâm lăng. VNCH cương quyết chống lại

sự xăm lăng của CS để bảo vệ tự dọ Hôm sau, Pentagon tuyên bố tiếp tục dội bom Bắc Việt để ngăn chặn sự đem quân vào Nam của Bắc Việt. VNCH và Tòa Đại sứ Mỹ ra một thông cáo chung giải thích rằng phải oanh tạc các cơ sở quân sự ở Bắc Việt vì các cơ sở này yểm trợ cho cuộc xăm lăng miền Nam.Mặc cho những lời giải thích trên, chiến dịch của PG đòi hòa bình vẫn được đẩy mạnh, các truyền đơn ngụy hòa được rãi khắp nơị Khi chiến dịch này lên cao độ, đã có những cuộc tự thiêu đòi hòa bình : Thích Giác Thành tự thiêu sau Viện Hoá Đạo vì thấy cảnh tang tóc của chiến tranh; Ni cô Thích Huệ Thiên đổ xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân Gia Định, nhưng được cứu thoát. Ni cô cho biết bà muốn tự thiêu vì thấy những đau khổ do chiến tranh gây ra, v.v...

Phong Trào "bảo vệ hòa bình" đã gây khó khăn cho chính phủ Quát. Ông ra lịnh cho Tổng nha Cảnh sát có biện pháp mạnh.

Ngày 5/3/65, Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho đồng bào biết phong trào ngụy hòa do VC giựt dây tuy có nhiều tên khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là : làm suy yếu tinh thần chống Cộng của quân dân miền Nam và gây mâu thuẫn trong hàng ngũ quốc giạ Sau đây là những tên khác nhau của tổ chức này :

- Ủy Ban Vận Động Hòa Bình

- Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết

- Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng

- Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh

- Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc,.v.v...

Điều chắc chắn là TT Trí Quang đã thành lập Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, còn TT Quảng Liên thành lập Ủy ban Vận Động Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết.

Do dư luận phản ứng mạnh mẽ, ngày 11/3/65, Viện Hoá Đạo phải ra thông cáo tuyên bố : Ủy ban Vận Động Hòa Bình do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hoá Đạọ Dựa vào thông cáo này, Bộ Nội vụ công bố danh sách 358 người đã ký tên vào kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình : 3 luật sư, 5 bác sĩ và dược sĩ, 5 kỹ sư, 11 ký giả, 20 giáo viên, 22 công chức, 64 buôn bán, 78 lao động, 24 sinh viên, 77 học sinh, v.v... Ngày 17/3/65, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức chủ tịch phong tràọ Cảnh sát liền được lịnh bắt một số nhân vật quan trọng.

Ngày 19/3/65, 3 người thuộc Ủy ban Vận Động Hòa Bình bị trục xuất ra Bắc qua cầu Hiền Lương và họ được CS Bắc Việt đón rước rềnh rang : GS Tôn Thất Dương Kỵ, BS Thú Y Phạm Văn Huyến (thân phụ bà Ngô Bá Thành), và ký giả Cao Minh Chiếm.

Dù đã bị cảnh cáo như vậy nhưng các tổ chức ngụy hòa vẫn tiếp tục hoạt đô.ng. Một tổ chức có tên Khối Quốc Gia Chống Cộng được thành lập. Khối này gồm đại diện của Cao Đài, Phật Giáo Hòa hảo, Công Giáo và Tổng Giáo Hội Phật Giáo hợp thành. Ngày 2/6/65, do Trung tướng Nguyễn Thành Phương hướng dẫn, Khối đã đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu phải thành lập một chính phủ quốc gia chống Cộng và chống trung lập thật sự, giải tán chính phủ Quát vì có nhiều thành phần thân Cộng trong chính phủ này đã bảo trợ cho các tổ chức ngụy hòạ Một Ủy Ban Liên Tôn mới thành lập ra thông cáo tố cáo chính phủ Quát âm mưu ban hành một quy chế hạn chế quyền tự do tôn giáo.Phong trào chống chính phủ Quát nổi lên khắp nơị Trước tình thế này Tổng nha Cảnh sát yêu cầu những người ký tên trong bản kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình phải ra trình diện.. Không chịu nổi áp lực, ngày 11/6/65, Quốc trưởng Sửu và Thủ tướng Quát đều từ chức, trao quyền lại cho Quân Độị Các tướng lãnh thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, ban hành Hiến chương mới và cử Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ.Ngày 24/8/65, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đưa các thành phần của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết ra trước Tòa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử. Trong dịp này, nhiều bằng chứng được dưa ra cho thấy nhóm này đã thực sự hoạt động cho CS. Kết quả tòa tuyên phạt 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị án tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng chủ chốt là TT Quảng Liên thì không bị truy tố.

Khi tình hình miền Nam gặp khủng hoảng trầm trọng và đang lúc PG miền Trung đang đẩy mạnh chiến dịch ngụy hòa thì Hoa Kỳ đưa Cabot Lodge trở lại làm Đại sứ thay Maxwell Taylor. Ông đến trình ủy nhiệm thư ngày 25/8/65. Các nhà quan sát biết rằng kỳ này Lodge đến không phải là để "cứu PG" như lần trước, mà là để thanh toán con bài tôn giáo mà Hoa Kỳ đã lỡ dựng lên để làm chiêu bài lật đổ TT Diệm năm 1963. Số phận con bài PG cực đoan miền Trung coi như đã bị định đoạt.

Ngày 20/10/65, Edgar Hoover, Giám đốc CIA tuyên bố CS đang xúi giục biểu tình chống chính sách Mỹ tại VN và gia tăng các hoạt động phản chiến.Bằng chứng về hoạt động của CS dưới danh nghĩa các phong trào đòi hòa bình ngụy tạo đã quá rõ khiến TT Trí Quang không chối cãi được. Ông đành chịu im tiếng để cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ hành đô.ng. Nhưng ông chuẩn bị thời cơ để mở một cuộc tấn công mới nhằm cướp chính quyền.

* Ngòi thuốc súng :

Khi bị đánh tại miền Nam, nhóm PG cực đoan quay về vùng I vì nơi đây có Tướng Thi che chở. Qua việc chính phủ Quát bị lật đổ và các phong trào ngụy hòa bị dẹp tan, nhóm TT Trí Quang nhận ra rằng các tôn giáo và đảng phái quốc gia là những lực lượng có thể phá vỡ các kê hoạch của ông, trước tiên là ông phải tấn công vào họ dưới danh nghĩa "diệt dư đảng Cần Lao". Các tông phái PG miền Bắc và miền Nam tách dần ra khỏi Giáo hội là một thiệt hại lớn, làm cho lực lượng đấu tranh yếu hẳn đị Để bù lại, nhóm này đã cố gắng củng cố lại lực lượng ở các tỉnh miền Trung, nhất là trong hàng ngũ quân nhân và sinh viên. Nhóm đã biến các Khuôn Bộ PG thành những Chi Bộ PG giống hệt như tổ chức của Đảng CS.

Nhắc lại, Đại tá Nguyễn Chánh Thi lưu vong mới trở về được 2 tháng thì được bổ nhiệm làm Tư lịnh phó Quân Đoàn I, dưới quyền của Tướng Khánh.

Ông nhận chức vào ngày 14/12/64. Chính trong hoàn cảnh này ông đã hợp tác với Tướng Khánh làm cuộc "chỉnh lý" ngày 30/1/64. Ngày 14/11/64, Tướng Thi được Tướng Khánh cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Tôn Thất Xứng. Tướng Minh và Tướng Khánh đều hiểu rõ tính ngang bướng của Tướng Thi nên muốn đẩy ông đi một vùng xa xôi cho êm chuyện.

Vả lại, miền Trung là vùng của TT Trí Quang, một người hay sinh sư.. Phải có một tướng ngang bướng như Tướng Thi mới ứng phó được. Nhưng khi nắm được Tư lịnh vùng I kiêm Đại biểu chính phủ tại miền Trung, Tướng Thi đã dựa vào lực lượng PG tại đây để củng cố tư thế và địa vị, còn TT Trí Quang dựa vào Tướng Thi để tổ chức cơ cấu địa phương, triển khai phong trào ngụy hòa và bài Mỹ dưới mọi hình thức.

Sự kiện này làm các tướng VN và Hoa Kỳ bực mình. Không thể kéo dài tình trạng trên, ngay 11/3/66, Hội Đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã họp 5 tiếng đồng hồ liên tục tại Bộ Tổng tham mưu và công bố cho Tướng Thi nghỉ phép đi chữa bịnh mũi tại Hoa Kỳ.

Ngày 13/3/66, Hội Đồng Tướng Lãnh lại tái họp bỏ phiếu với 32 thăm thuận và 4 thăm trắng cho Tướng Thi nghỉ việc.Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư lịnh sư doàn I, được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Thi.

Khi thấy con gà quan trọng của PG bị loại, Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp khẩn cấp và công bố lập trường 4 điểm :

- Các tướng lãnh có công với "cách mạng" phải được trở lại quân độị
- Các tướng lãnh trở về cương vị quân sư..
- Lập chính phủ doàn kết.
- Bầu cử quốc hội.

Mục tiêu thực sự của bản tuyên bố này là đòi hỏi phải đưa các tướng PG trở lại chính quyền. Các cuộc biểu tình lại được phát động để yêu cầu thỏa mản nguyện vọng của PG. Nhưng nhân lễ nhận chức Thị trưởng Đà Lạt của bà Nguyễn Thị Hậu vào ngày 19/3/66, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố các cuộc xuống đường hay đình công bãi thị chẳng ảnh hưởng gì tới chính phủ cả.

Để đáp lại thách đố này, nhóm TT Trí Quang ra lịnh đình công và bãi thị khắp các tỉnh miền Trung, nhất là ở Huế. và Đà Nẵng. Sinh viên và học sinh ở Huế biểu tình chống Mỹ. Tòa Lãnh sự và các cơ quan của Mỹ tại Huế phải đóng cửa đề phòng phá hoại.

Ngày 14/3/66, Đại tá Sam Wilson và ông Ted Britton đến hỏi Tướng Thi rằng nếu đưa ông trở lại Đà Nẵng thì ông có thể ổn định tình hình không; Tướng Thi nói không chắc.

Ngày 15/3/66, 2 Đại tá Phạm Văn Liễu và Nguyễn Ngọc Loan đưa Tướng Thi ra Đà Nẵng.Ông kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhưng TT Trí Quang không để ý tới chuyện đó.Vụ cất chức Tướng Thi chỉ là cái cớ để phát động đấu tranh trở lại mà thôi, mục tiêu chính là tiến tới nắm chính quyền.

Ngày 25/3/66, Tướng Kỳ tuyên bố các vụ lộn xộn miền Trung đã gây trở ngại cho việc tiếp tế cho dân chúng và vận tải quân nhu. Sau đó ông lại tuyên bố sẽ dùng biện pháp mạnh để đối phó nếu các vụ lộn xộn tràn lan.

Ngày 27/3/66, trong khi khoảng 20,000 người biểu tình ở Huế, Linh mục Hoàng Quỳnh của Khối Công Dân Công Giáo đã đòi hỏi phải lập chính phủ dân sự nhưng không muốn có bạo động. Ông cho rằng tổng tuyển cử ngay lúc này chưa thuân lợi. PG Hòa Hảo, một số đảng phái chính trị và tổ chức sinh viên tại Saigon ra tuyên bố muốn tiến tới một chế độ dân chủ nhưng chống lại các vụ bạo động.

Mặc cho những lời tuyên bố và phản kháng trên, phong trào chống Mỹ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh cùng lúc ở Huế và Saigon. Tại Huế cũng như tại Saigon, ngườita thấy các đoàn biểu tình đưa cao những biểu ngữ :

- Down with US Obstruction
- We want Independence
- Nước VN của người VN
- Người Mỹ gây rối cho nhân dân VN,...

TT Trí Quang cho rằng 2 Tướng Thiệu và Kỳ dám chống lại PG là do có Mỹ đứng đàng sau nên phải chống Mỹ.

Ngày 5/4/66, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố muốn các vụ lộn xộn tại VN phải sớm giải quyết. Các lãnh tụ tôn giáo và chính trị nên hội ý với nhau để sớm có Hiến pháp dân chủ. Hoa Kỳ không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của VN. Mọi giải pháp đều do người VN quyết định.



* Phối hợp chiến tranh chính trị với chiến tranh quân sự :

Tại Huế và Đà Nẵng, nhóm TT Trí Quang đã phối hợp với một số cán bộ VC nằm vùng, các chính khách hoạt đầu và một số Phật tử cực đoan làm nồng cốt chỉ huy và thúc đẩy một cuộc nổi loạn cướp chính quyền, trong số này người ta thấy :

- Võ Đình Cường (cán bộ CS)
- Ngyễn Trực (cán bộ CS)
- Hoàng Phủ Ngọc Phan (cán bộ CS)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (cán bộ CS)
- Tống Hồ Cầm (cán bộ CS)
- Bùi Hữu Giao
- Nguyễn Tường Hiếu (VNQĐ hệ phái Nguyễn Tường Tam)
- Thái Đình Quang
- Thái Doãn Trinh
- Hoàng Phúc
- Hoàng Thị Như Mai
- Nguyễn Văn Hảo
- Hoàng Ngọc Giàu (cán bộ CS)
- Lê Tuyên
- Ngô Văn Bằng
- Ngô Kha (cán bộ CS)
- Hà Xuân Kỳ (cán bộ CS)
- Tống Nhạn
- Phan Hàm (cán bộ CS)
- Tư Đồ Minh
- Nguyễn Văn Mẫn,
- Bửu Tôn...

Mọi kế hoạch hành động đều do Võ Đình Cường và Nguyễn Trực soạn thảo theo chỉ thị và hướng dẫn của Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy và Tư lịnh Quân khu Trị Thiên - Huế củaCS.

Ngày 1/4/66, Trung tướng Phan Xuân Chiểu đã ra Huế để dàn xếp các vụ lộn xộn thì bị TT Trí Quang ra lịnh bắt làm con tin, không cho trở về Saigon. Tướng Thi kể lại rằng chính ông đã can thiệp để Tướng Chiểu được thả ra.Sau đó, các lực lượng quân đội theo phe TT Trí Quang đứng lên cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, hô hào dân chúng võ trang chống Thiệu - Kỳ. Tại Quảng Trị và Quảng Ngãi, quân đội còn giữ được.

Ngày 2/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho vây Đài phát thanh Saigon, hô khẩu hiệu "Đả đảo Thích Tâm Châu", "Hoan hô Hồ Chí Minh".

Ngày 3/4/66, Tướng Kỳ họp báo tuyên bố coi như Huế và Đà Nẵng đã mất vaò tay CS.BS Nguyễn Văn Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng, đã ra lịnh đình công bãi thị chống chính quyền trung ương và dùng công quỷ tổ chức biểu tình. Chiến dịch bài Mỹ được phát động để ly gián giữa VNCH và Đồng Minh nhằm cô lập VNCH.Tướng Kỳ cho biết sẽ đưa quân đội đến giải tỏa Đà Nẵng.

Đại tá Đàm Quang Yên, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà đã đứng hẳn về phía TT Trí Quang.Ông huấn luyện quân sự, cấp vũ khí cho các thanh niên Phật tử và tổ chức họ thành những đơn vị chiến đấụ Một số binh sĩ theo ông bỏ hàng ngũ Quốc gia nhập lực lượng này.Nhưng Đại tá Yên là một sĩ quan có trình độ kiến thức thấp, tính tình nông nỗi, nóng nảy nên không đủ khả năng làm được việc ông đang làm.

Hoa Kỳ ra lịnh tản cư các cơ quan của họ ra khỏi thị xã Đà Nẵng. Đại tá Yên cho thiết lập các công sự chiến đấu ở các chùa tại Đà Nẵng và hô hào dân chúng dùng mọi phương tiện để chống lại "quân đội Thiệu - Kỳ". Trong khi đó, Tướng Kỳ ban hành quyết định cất chức BS Nguyễn Văn Mẫn và cử Trung tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng Bình Long làm Thị trưởng Đà Nẵng.

Ngày 5/4/66, Tướng Kỳ đích thân dẫn 2 tiểu đoàn Dù ra Đà Nẵng hội đàm với Thiếu tướng Chuân và lên tiếng kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ.Khi Tướng Kỳ về Saigon thì các tiểu đoàn Dù được chuyển tạm vào căn cứ Chu Lai của Hoa Kỳ ở Quảng Tín, gần sát Đà Nẵng.BS Nguyễn Văn Mẫn và khoảng 400 binh sĩ kéo đến lập một căn cứ phòng thủ tại chùa Phổ Đà. Khi máy bay lượn trên thành phố rãi truyền đơn kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ diệt trừ các cuộc nổi loạn bị CS giựt dây thì chuông của chùa Phổ Đà, Tĩnh Hội, Vĩnh Hội, Phật Học, Phổ Thiên, Giảng Đường, Vu Lan...được khua lên inh ỏi.Sau đó là tiếng trống, thùng thiếc, phèng la, mõ...kêu vang cả thành phố.

Trong lúc tình hình Đà Nẵng căng thẳng thì TT Tâm Châu tuyên bố trước khoảng 10 ngàn Phật tử rằng ông vẫn chủ trương tiếp tục đấu tranh ôn hòa và đòi trong 3 tháng phải có chính phủ dân cử và Quốc Hộị Ông sẵn sàng lãnh những viên đạn của những kẻ quá khích. Một cuộc thương lượng giữa chính phủ và Viện Hóa Đạo được xúc tiến nhanh chóng và có kết quả. Để đổi lại, chính phủ hứa sẽ không bắt bớ những người nổi loạn có võ trang và rút quân khỏi Đà Nẵng.

Đại hội Phật giáo Thế giới đang họp tại Tích Lan đã lên tiếng ủng hộ lập trường của TT Tâm Châụ Ngày 9/5/66, Hòa Thượng Tổng thư ký Hội Tăng già Tích Lan đã gởi cho TT Tâm Châu một văn thư khen ngợi và tỏ ý hoan hỷ khi biết TT đã tránh được cho PG một cuộc chiến tranh với chính phủ.Nhưng ngược lại, việc này đã làm cho TT Trí Quang nổi giận. TT Trí Quang công khai chỉ trích Viện Hóa Đạo và tuyên bố không chấp nhận kết quả do Viện Hoá Đạo công bố, đòi bộ ba Thiệu - Kỳ - Có phải ra đi.

Ngày 8/4/66, TT Thích Thiện Minh tuyên bố lập "Ủy Ban Tranh Đấu Chống Chính Phủ" vì các tướng lãnh, nhất là Tướng Thiệu, đã không giữ lời cam kết. PG sẽ chống đến cùng, dù phải đổ máụ Khi TT Thiện Minh công khai tuyên chiến với chính quyền thì TT Trí Quang tuyên bố ngược lạị Ông kêu gọi Phật tử tạm ngưng các cuộc đấu tranh ở Huế và Đà Nẵng để đợi chính quyền giữ lời hứa.

Lời kêu gọi này làm cho TT Thích Thiện Minh bực tức vô cùng.Giữa 2 TT Trí Quang và Thiện Minh luôn có sự đối nghịch nhau, khi trống đánh xuôi thì kèn thổi ngược.TT Trí Quang lo sợ TT Thiện Minh cướp công đầu sau khi cuộc đấu tranh đem lại thắng lợi nên tìm cách gạt tất cả các tổ chức của TT Thiện Minh sang một bên.

Mặc cho những chỉ thị ngược lại của TT Trí Quang, ngày 19-20/4/66, TT Thiện Minh mở các cuộc thuyết pháp liên lục tuyên bố PG đang bị khiêu khích, có thể có đảo chánh trong tuần tới, trừ khi chính phủ chấm dứt mọi hành động chống đối PG.

Ngày 9/4/66, Tướng Tôn Thất Đính được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Nguyễn văn Chuân. 2 tướng Thiệu và Kỳ đã nhờ Tướng Đính giải quyết vụ miền Trung vì tin rằng Tướng Đính là con gà của PG có thể làm công việc này được.Nhưng khi đến Huế, Tướng Đính lại theo phe TT Trí Quang và chửi 2 tướng Thiệu - Kỳ giữa ba quân.

Ngày 17/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ cách mạng bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chi, Tỉnh trưởng Quảng Nam và ông Quận trưởng quận Hòa Vang vì những người này không theo TT Trí Quang.Tại Đà Lạt, Lực Lượng này lại bắt giữ Đại úy Quân vụ Thị trấn, đốt quân xa và đuổi đánh Quân cảnh.Quân đội phải nổ súng. Khi thấy nhóm PG cực đoan quá lộng hành, Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức đảng phái không còn im lặng được nữa, họ đã lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ.

TT Thích Liễu Minh thuyết pháp tại Viện Hóa Đạo, khen ngợi thiện chí của chính quyền và yêu cầu Phật tử ngưng bạo động, ngưng đòi hòa bình vì "chưa đúng lúc".

Khối Công Dân Công Giáo biểu tình ở Đà Nẵng, Thủ Đức và Saigon chống các cuộc bạo loạn ở miền Trung, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Đại sứ Cabot Lodgẹ Tổng Hội Sinh Viên Saigon lập Ủy Ban Bảo Vệ Tổ Quốc và Dân Quyền, chống lại các vụ lộng hành ở miền Trung.

Ngày 21/5/66. Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng của TT Trí Quang cho tung ra tại Huế, Đà Nẵng và Saigon một loại truyền đơn thăm dò. Truyền đơn kêu gọi đưa TT Trí Quang ra làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng. Truyền đơn này đã cho thấy rõ mục tiêu và tham vọng của nhóm bạo động.

Các cuộc náo loạn tại Huế, Đà Nẵng và Đà Lạt lại tiếp tục.

Bỗng nhiên báo chí Mỹ mở chiến dịch ca tụng TT Trí Quang như là một lãnh tụ chính trị lỗi lạc của VN, có thể trở thành Quốc Trưởng.. Mục tiêu của chiến dịch này nhằm thúc đẩy các lực lượng đấu tranh võ trang tiến xa hơn một chút nữa, gây náo loạn và bất mãn trong quần chúng để Tướng Kỳ có lý do xử dụng quân đội đánh dẹp.

TT Trí Quang và nhóm của ông không ý thức được chiến dịch thâm hiểm này nên thừa thắng xông lên.Đại tá Yên, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà, một đệ tử của TT Trí Quang, đã phối hợp các lực lượng Phật tử do ông huấn luyện và các binh sĩ bỏ ngũ thành những đơn vị chiến đấu, chiếm thành phố Đà Nẵng, biến 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà thành 2 căn cứ võ trang chống chính phủ.

Ở Huế, một lực lượng quân sự do Bửu Tôn thành lập đã thu nạp được một số binh sĩ và thanh niên Phật tử lên đến 2 tiểu đoàn. Bửu Tôn là Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử ở Huế, không biết gì về quân sự nhưng được TT Trí Quang và Võ Đình Cường tin cậy nên giao cho chỉ huy lực lượng võ trang.

Lực lượng này làm chủ tình hình ở Huế, ban hành mọi mệnh lệnh và muốn bắt ai giam cũng được.Bửu Tôn đã nhiều lần đem quân tấn công các giáo xứ CG tại quận Phú Vang vì cho rằng các giáo xứ này thân chính quyền. Các giáo xứ trên phải tổ chức tự vệ để cứu lấy mình vì Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Sư đoàn trưởng Sư đoàn I và Trung tá Trần Văn Khoa, Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế, không dám đá động đến lực lượng của Bửu Tôn. Tướng Nhuận chỉ cho một tiểu đoàn của Sư đoàn I vào Huế để bảo vệ các cơ sở của Hoa Kỳ. Cũng như tại Huế, các giáo xứ CG tại Đà Nẵng phải tự động võ trang để tự vệ vì chính quyền đã nằm trong tay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng. Lực lượng này đã nhiều lần tấn công giáo xứ Tam Tòa trong thành phố Đà Nẵng nhưng bị đẩy luị Thỉnh thoảng lại xảy ra các cuộc giao tranh trong thành phố Đà Nẵng giữa lực lượng của TT Trí Quang và toán tự vệ CG. Các toán tự vệ này đã mở rộng phòng tuyến ra các đường Thống Nhất, Quang Trung, Nguyễn Hoàng, Trần Cao Vân, Khải Định, Gia Long, Đống Đa...để bảo vệ các giáo xứ Thạch Gián, Tam Tòa, Thanh Bình, Thanh Bồ và Đức Lợị Đường dọc theo biển đều do các tự vệ CG tuần tra nên rất an toàn.Thỉnh thoảng nhóm tự vệ CG phải mở thế công để áp đảo tinh thần làm cho lực lượng của TT Trí Quang không dám bung ra xa, nhờ vậy giáo dân sống an toàn.

Ngày 30/4/66, Đại sứ Lodge tuyên bố trở về Mỹ để thảo luận về tình hình VN. Các giới quan sát cho rằng số phận của nhóm PG cực đoan miền Trung đã gần kề.

Ngày 15/5/66 trong khi Cảnh sát mở cuộc lục soát các trung tâm phát xuất những vụ náo loạn tại Saigon như trụ sở Thanh Niên Phật Tử, Tổng Liên Đoàn Lao Động... TT Thiệu thông báo các cuộc hành quân tái lập an ninh trật tự ở Đà Nẵng đang tiến hành. Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay thế Thiếu tướng Tôn Thất Đính làm Tư lịnh Quân đoàn I.

Nghe Tướng Cao được cử làm Tư lịnh vùng I, phe PG cực đoan miền Trung phản ứng mạnh mẽ vì Tướng Cao vừa là CG vừa là vị tướng trung thành với TT Diệm. Đây là thành phần mà TT Trí Quang tìm diệt.

Vì thế khi nhậm chức tại Đà Nẵng, người ta thấy không có chỗ nào an toàn cho Tướng Cao cư ngu.. Ngày 17/5/66, khi Tướng Cao lên máy bay Hoa Kỳ đi thị sát Quân đoàn I thì Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức trong lực lượng đấu tranh của PG đã xã súng bắn nhưng không trúng. Xạ thủ trực thăng Hoa Kỳ đã dùng đại liên bắn lại khiến Thức chết tại chỗ và 6 binh sĩ khác bị thương.

Khi trở lại Saigon, Tướng Cao cho biết nếu không có các cố vấn Mỹ trong Quân đoàn đi sát hai bên thì có lẽ ông bị ám sát rồị Trong những ngày ở lại Đà Nẵng, ông tá túc trong căn cứ Hoa Kỳ và đi quan sát chiến trường bằng trực thăng Hoa Kỳ.Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, sẽ chỉ huy các lực lượng Cảnh sát Dã chiến đánh chiếm các vị trí trong thành phố Đà Nẵng.Nhiệm vụ của Tướng Cao là để chống lại lực lượng PG, nhưng ông bất tuân thượng lịnh và quyết định thương lượng. Tướng Kỳ muốn chấm dứt vai trò của Tướng Cao để đưa một tướng khác đến.

Trong vụ này, Tướng Cao có 2 lầm lỗi lớn khi nhận đi làm Tư lịnh vùng I.Thứ nhất là ông không nhận ra dụng ý của 2 Tướng Thiệu - Kỳ. Hoa Kỳ đang cố tình gài cho phong trào PG miền Trung đi quá trớn rồi diệt chứ không muốn thương lượng dây dưa. Thương lượng với nhóm này chỉ mang hậu họa, vì bất cứ lúc nào họ cũng đưa ra mục tiêu mới để nói ngược và làm ngược dễ dàng.

Trong khi đó Tướng Cao chỉ muốn đàm không muốn đánh, tức là đi ngược lại chủ trương của Mỹ và 2 tướng Thiệu - Kỳ. Thứ hai là ông tin tưởng rằng mình có thể thương lượng với nhóm PG cực đoan miền Trung.

Ông không ý thức được rằng TT Trí Quang và nhóm của TT Trí Quang là những thành phần cực đoan, không bao giờ chấp nhận nói chuyện với ông vì ông vừa là CG vừa là thân tín của TT Diệm.

Ông thuộc vào loại "dư đảng Cần Lao" gộc đang bị TT Trí Quang tìm diệt thì làm sao có thể nói chuyện với nhau được. Nếu cần người thương lượng thì 2 tướng Thiệu - Kỳ đã tìm người khác rồi.Ông trở về Saigon an toàn là cả một sự may mắn.Xác chết của Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức được dưa về Huế và được rước đi trên đường phố để kích động Phật tử và binh sĩ nổi loạn.

5 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến được chở bằng phi cơ ra Đà Nẵng đã mở cuộc hành quân chớp nhoáng tái chiếm thành phố Đà Nẵng, đài phát thanh và làm chủ tình thế. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang rút về đóng trong 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến kéo tới vây chùa Phổ Đà đòi thả 17 binh sĩ bị bắt. 14 binh sĩ được trả về với đầy đủ võ khí.



* Kêu cứu Hoa Kỳ :

Khi tình hình bắt đầu nguy ngập, ngày 15/5/66, từ Huế, TT Trí Quang đã gởi một điện văn nhờ TT Johnson can thiệp. Ông vẫn tin rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ PG như thời kỳ chống chính phủ Diệm. Trong điện văn ông kêu gọi "Chính phủ Hoa Kỳ cần tìm cách ngăn chặn cuộc đàn áp Phật giáo".

Ngaỳ 17/5/66, TT Johnson đã tuyên bố với báo chí là chính phủ Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Quân đội VNCH để quân đội này có vai trò trọng yếu trong chính phủ tương laị Ông kêu gọi Quân lực VNCH chấm dứt nhanh chóng các vụ xâu xé nội bộ để lo chống Cộng và thực hiện dân chủ từng bước.

Sau đó Ngoại trưởng Rusk đã thông báo cho TT Trí Quang biết Hoa Kỳ không thể can dự vào các vấn đề thuộc chủ quyền của VN và cũng không nhúng tay vào các vụ đàn áp đối lập của Tướng Kỳ.Ông khuyên nên tập trung nổ lực vào việc chống Cộng.

Ngày 20/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng kêu gọi TT Johnson can thiệp gấp.Ông yêu cầu Thủy quân Lục chiến Mỹ có hành động, nếu không sẽ cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng phá phi trường Đà Nẵng. Không nghe Hoa Kỳ trả lời gì, ngày 22/5/66 ông ra lịnh cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắn phá phi trường Đà Nẵng. 1 phi cơ Hoa Kỳ bị hư hại và một số binh sĩ Mỹ bị thương.Nhiều phi cơ phải bay đến các căn cứ khác.Các căn cứ quân sự Mỹ được lịnh nổ súng nếu bị tấn công.

Dùng áp lực quân sự không kết quả, ngày 25/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng yêu cầu TT Johnson và Quốc hội Mỹ ngưng yểm trợ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.



* Đà Nẵng được giải thoát :

Tướng Dư Quốc Đống được phái tới Đà Nẵng để chỉ huy chiếm lại thành phố. Ngày 18/5/6, Tướng Kỳ đã yêu cầu Viện Hóa Đạo kêu gọi các tăng sĩ ở Đà Nẵng đừng chứa chấp các lực lượng đấu tranh trong chùa hoặc rời khỏi 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà gấp.

Ngày 20/5/66, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra lịnh cho các Tướng Thi và Đính phải ra trình diện đồng thời đòi hỏi Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Tư lịnh Sư đoàn I, phải dứt khoát tư tưởng, không thể đứng ở giữa được.

Ngày 22/5/66, cuộc tấn công vào 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà bắt đầu.Chỉ trong 1 thời gian ngắn, khoảng 600 binh sĩ và thanh niên Phật tử ở trong chùa Phổ Đà và các vùng lân cận đã ra đầu hàng; 30 nhà báo bị bắt giữ làm con tin đã được cứu thoát.

Tại chùa Tỉnh Hội, các binh sĩ và thanh niên Phật tử cũng buông súng; 4 phóng viên của UPI và AP được giải thoát.Hơn 1,000 khẩu súng các loại được tìm thấy trong chùa Tỉnh Hội và 30 xác chết đã sình thốị BS Nguyễn Văn Mẫn bị bắt dưa vào Saigon. Báo cáo sơ khởi cho biết có 76 người chết. Thiếu tướng Đính theo một số tàn quân chạy ra Huế.



* Huế kháng cự vô vọng :

Thanh toán xong Đà Nẵng,lực lượng Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến ra Huế bằng đường bộ qua đèo Hải Vân. Lực lượng của Bửu Tôn phục kích 2 bên quốc lộ 1. Bửu Tôn cho thành lập 1 "Tiểu đoàn Quyết tử" lấy tên là Tiểu đoàn Nguyễn Trọng Thức để cố thủ Huế.Trung tá Trần Văn Khoa đem chừng 1,000 quân trung thành chính phủ về đóng ở Quận Hương Thủy.Khi các đơn vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến vào Huế thì Tiểu đoàn Quyết tử bỏ súng chạỵ Quân đội chiếm thành phố dễ dàng.

Ngày 31/5/66, Tướng Hoàng Xuân Lãm được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Huỳnh Văn Cao. Trung tá Trần Văn Khoa đem quân trở lại Huế, công bố lịnh giới nghiêm và yêu cầu Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang đem vũ khí tới nạp. Bửu Tôn đầu hàng và đem 520 võ khí các loại ra nạp. An ninh Huế được tái lập. Bộ Tư lịnh Sư đoàn I rút khỏi Huế.



* Lá bài chót : đem bàn thờ Phật xuống đường :

Khi mặt quân sự hoàn toàn thất bại, ngày 6/6/66 TT Trí Quang ra lịnh cho Phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường và phát động chiến dịch tự thiêu :

- Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu ở chùa Diệu Đế (Huế).
- Cô Hồ Thị Châu tự thiêu ở Viện Hoá Đạo.
- Nữ sinh Nguyễn Thị vân tự thiêu ở chùa Thành Nội, Huế.
- Ni cô Thích Nữ Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hoá Đạo
- Một em học sinh 15 tuổi tự thiêu ở Quảng Tri....

TT Trí Quang tin rằng Quân đội không dám đụng đến bàn thờ Phật và chiến dịch tự thiêu sẽ làm thế giới rúng động như năm 1963, nhưng ông đã lầm, thế giới vẫn ngậm câm. Còn về phần quân đội, Tướng Kỳ ra lịnh cho Cảnh sát Dã chiến và Thủy quân Lục chiến xúc tất cả các bàn thờ ở Huế cũng như ở Saigon. Ngày 3/6/66, phát ngôn viên của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon lên tiếng xác định : Đang có chiến dịch bạo động và tự thiêu nhằm áp lực chính phủ Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN, nhưng chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục giữ thái độ bất can thiệp như cũ. Xử dụng mọi phương thức không đem lại kết quả, TT Trí Quang đành ngồi tuyệt thực.

Trong khi đó, TT Tâm Châu dẫn một Ủy ban Phật giáo mới thành lập gồm 6 người đến Dinh Gia Long gặp Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia để thương thuyết.Ông yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc đấu tranh để cùng chính quyền tổ chức các cơ cấu dân chủ, nhưng ngược lại 2 TT Thiện Minh và Trí Quang đều phản đối.

Ngày 17/6/66, An ninh Quân đội đã bắt vợ của GS Lê Tuyên cùng một số sinh viên tranh đấu ở Huế và đưa TT Trí Quang lên máy bay về Saigon cho ở Bịnh viện Duy Tân của BS Nguyễn Duy Tài để "chữa bịnh và bảo vệ".

Ngày 22/6/66, GS Lê Tuyên (hiện nay ở Mỹ) ra trình diện và bị bắt đưa vaò Saigon.

Kế quả cuộc tái chiếm Huế : 7 binh sĩ bị thương, tạm giữ 190 quân nhân ly khai, 109 công chức và 35 cảnh sát tham gia Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.

Tướng Thi cho biết trong cuộc đánh chiếm Đà Nẵng và Huế nói trên có 242 người chết và bị thương.

Ngày 26/6/66, TT Trí Quang "tuân lịnh Đức Tăng Thống" đã ngưng tuyệt thực.

Ngày 27/6/66, Tướng Kỳ họp báo tại Huế nói : Công nhận "được làm Vua , thua làm giặc", nhưng không công nhận "được làm Vua, thua thì hoà".

GS Lê Tuyên bị bắt tại Huế ngày 21/6/66 đã tuyên bố trong cuộc họp báo rằng TT Trí Quang mới là người chủ động, ông chỉ là người thừa hành mà thôị



* Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS :

1. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng :

Năm 1964, TT Trí Quang đã cho tái sinh Hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng. Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp chính quyền. Dưới chiêu bài "chống đàn áp PG" và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", 2 tổ chức trên đã tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra gì, nhưng đến tháng 6/1966 thì bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...


2. Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC:

Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965. Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đã biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu tình và bạo động.

Ngày 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Ngyễn Trực, họ đã cầm cờ PG ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng". Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.


3. Nhận chỉ thị của VC để hoạt động :

Trong thời Đệ II Cộng Hòa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Tri.-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên tình báo của VNCH theo dõi và chụp hình. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.

Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bữu Phương đã nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC. Lần họp tại chùa Từ Vân ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, đã bị cơ quan an ninh phát giác. TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Phòng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG. TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đã có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN. Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.

Chính quyền miền Nam đã không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra tòa vì sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan tình báo không muốn phá vỡ đường dây để dễ theo dõi ho..



* Các hình thức yểm trợ các đòi hỏi của CS :

Ăn rập với các đòi hỏi của VC, nhóm cực đoan miền Trung trong GHPG Ấn Quang đã phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đòi hỏi của VC.


1. Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa".

Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau :

- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút luị
- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.


5 điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.

Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn"Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buđhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây rạ Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lãnh đạo Mặt Trận.

Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rõ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đã cố tình bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội.

Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoại.

Đại Đức Nhất Hạnh ra hải ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp. Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đã có nhiều thay đổi.


2. Thành lập Nhóm Hòa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ :

Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Hòa Giải gồm 25 ngườị Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô.. Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc VN là hòa bình trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ". Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ hòa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì về phía CS, ông không trả lờị Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đòi hỏi của Bắc Việt tại hòa đàm Paris.


3. Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang :

Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970. Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Mình Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau :

1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971).

2. LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.

3. Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền của dân tộc.

4. Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để :

- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ và VN.

- Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dư..

5. Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cọng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này cho chính người Việt đề ra.

6. Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Lào.

Từ các danh từ và văn từ được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN. Bản tuyên bố được viết vơi lối hành văn lập pháp hay quyết định thay vì nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quốc tế về tôn giáo và hòa bình. Sau bản tuyên bố trên, GHPG đã làm mất cảm tình của hầu hết các quốc gia trên thế giớị Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đòi quân đội Mỹ rút ra mà không đòi tát cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được.


Phần 10/62



* Một vụ truy tố và xét xử kỳ lạ :

Mãi đến ngày 19/12/67, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị bể ra làm hai, nội bộ tranh chấp nhau, không còn khả năng khuấy phá nữa, vụ nổi loạn tại miền Trung mới được đưa ra xét xử trước Tòa Án Mặt Trận Thủ Đô và vùng III Chiến Thuật. Có tất cả 26 bị cáo được đưa ra tòa, trong đó có Đại tá Đàm Quang Yên, Đại tá Nguyễ Văn Mô, BS Nguyễn Văn Mẫn và GS Lê Tuyên. Các bị cáo bị truy tố về tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phản nghịch chiếu theo các điều luật sau đây :

- Điều 4 đoạn Dụ số 47 ngày 21/8/56

- Điều 1 đoạn 1 và điều 11 Luật số 10/59 ngày 6/5/59

- Điều 59-60 Bộ Hình Luật Canh Cảị

Hồ sơ nội vụ và bản cáo trạng cho thấy tội phạm của các bị cáo quá hiển nhiên, không có gì phải tranh luận. Các luật sư chỉ cãi chày cãi cối giúp vui cho phiên tòa mà thôi.



Luật sư Võ Văn Quan kể lại chuyện ông biện hộ cho BS Nguyễn Văn Mẫn :

"Tôi vô khám Chí Hòa tiếp xúc với BS Mẫn sau khi đã xem hồ sơ tại Phòng Lục Sự của Tòa Án Quân Sự ở bến Bạch Đằng. Tôi không được quen với BS Mẫn và trong vụ này tôi liên lạc với TT Trí Quang nhiều hơn là với ông, nên tôi không còn nhớ hình dáng của BS Mẫn. Một chuyện đặc biệt này tôi còn nhớ rõ. Lần đó, BS Mẫn rất dè dặt trong khi bàn luận với tôị Tôi nói với ông rằng phương pháp làm việc của tôi là nhờ thân chủ làm một tờ mémoire kể đầy đủ chi tiết về những sự kiện đã xảy ra và những lý lẽ mà thân chủ muốn tôi căn cứ vào để biện hô.. Như vậy tôi có tài liệu cần thiết để nghiên cứu và thảo luận với thân chủ về chiến thuật sẽ cùng nhau xử dụng trước Tòạ BS Mẫn dè dặt bảo tôi ông cần suy nghĩ có nên làm một tờ trình bày trường hợp của ông để giao cho tôi hay không. Tôi thông cảm rằng đối với ông dầu sao tôi cũng chỉ là một người lạ, một luật sư không phải do ông hay người nhà của ông chọn, tức nhiên ông ngần ngại không dám tiết lộ những bí mật của ông. Ông đồng ý để rồi bàn việc này lại với "Thầy".

"Tôi điện thoại đến nhà Giao (tôi không biết số điện thoại của Thượng Tọa, dầu biết, tôi cũng không gọi tới vì chắc chắn điện thoại bị công an nghe lén). Tôi nhờ Giao thuật chuyện này lại với TT. Mấy hôm sau, Giao đem đưa cho tôi lá thơ gởi cho BS Mẫn, vắng tắt có mấy chữ :

"Anh Mẫn,

Làm Mémoire đi.

Ông già."

"Nét chữ cũng rắn rỏi như cái mệnh lệnh. Chừng đó tôi mới biết rằng trong giới thuộc hạ của ông tiếng lóng để ám chỉ ông là "Ông Già".

"Tôi trở vô khám Chí Hòa đưa lá thư -- cái mệnh lệnh -- cho BS Mẫn. Ông liền hẹn tôi hôm sau sẽ có tờ mémoire ngay.

"Ông Già" oai thật !

"Phiên Tòa xử các bị can trong vụ gọi là biến động miền Trung này cũng rất náo nhiệt, phóng viên quốc nội và quốc tế đều theo dõi khá đông. Một diễn tiến tôi còn nhớ là TT Trí Quang nhờ tôi đưa một văn thơ của ông cho ông Chánh Thẩm. Để chắc chắn rằng nội dung văn thơ ấy được phổ biến, TT tuyên bố sẵn sàng ra Tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung và đảm nhận tất cả trách nhiệm vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấỵ

"Dĩ nhiên Tòa không mời TT Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên Tòa làm diễn đàn chánh tri.. Còn truy tố ông, nếu "họ" dám thì đã lam` từ lâu.

"Dầu sao, tôi cũng xử dụng lời lẽ trong văn thư đó trong sự biện hộ của tôi.

"Được Tòa trao lời, tôi trình bày đại khái như sau.

"Điều hiển nhiên là các bị can tranh đấu đòi phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội này thảo Hiến Pháp làm nền tảng pháp lý cho các cơ quan lãnh đạo quốc gia thành hình sau một cuộc bầu cử. Không ai có thể bảo đảm rằng đòi hỏi ấy là yêu sách không chánh đáng, bất hợp pháp. Chính những người tìm cách lẫn tránh, không chịu đáp ứng sự đòi hỏi ấy, mới là người hành động bất chánh...

"Nếu đó là một cái tội thì tại sao TT Trí Quang, người lãnh đạo sự tranh đấu ấy, người đã gởi văn thư xác nhận phân minh trước Quí Tòa rằng ông lãnh đạo sự tranh đấu, lại không bị truy tố ?

"Người lãnh đạo, kẻ chủ mưu, không bị truy tố thì tại sao những người chỉ có đi theo sự lãnh đạo ấy lại bị truy tố ?

"Tôi xin Quý Tòa tha bổng bị can" ("Nghề hay nghiệp", LS Võ Văn Quan, Đặc san Luật khoa số 5/8/93, tr. 44/45).

Những điều LS Quan nêu ra để biện hộ như mục tiêu tranh đấu là chánh đáng, hay tại sao không truy tố người chủ mưu...đều không phải là những yếu tố luật định có thể gở tội hay giảm khinh cho các bị cáọ Tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) đã bị truy tố và xét xử về các tội tương tư..

Nhưng ai cũng biết rằng Tòa Án Quân Sự Mặt Trận là một tòa án chính trị, không xử theo luật mà xử theo lệnh nên LS Quan mới đưa chính trị vào pháp đình để giởn chơi với Tòa.

Kết quả, ngày 22/12/67, sau khi nghị án, Tòa tuyên án phạt 2 Đại tá 10 năm khổ sai, một sĩ quan và BS Mẫn 10 năm tù ở. 21 bị cáo được tha bổng. Chỉ ít lâu sau, BS Mẫn và các sĩ quan nói trên được ân xá, nhưng không trở lại binh nghiệp nữa.


Sự kiểm điểm thành quả từ phía VC

Sau khi nêu lên những thắng lợi thu được của PG miền Trung do TT Trí Quang, và Võ Đình Cường trực tiếp lãnh đạo từ 1964-1966 đã bị thất bại, Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên - Huế đã làm một bản kiểm điểm về những thành quả thu được và những khuyết điểm đưa đến thất bạị Tài liệu này được in trong cuốn "Chiến trường Trị - Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng" do ban Tổng Kết Chiến Tranh Chiến Trường Trị - Thiên - Huế biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản năm 1985.


* Những thắng lợi thu dược :

Bản kiểm điểm mở đầu bằng phần nhận định tổng quát như sau :

"Thắng lợi của cuộc đồng khởi cuối năm 1964 và đầu năm 1965 đã giáng một đòn nặng nề vào quốc sách "ấp chiến lược" của địch đánh dấu một sự thất bại trong "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở Trị - Thiên - Huế".

Về phần thắng lợi :

"Ở thành phố Huế,dấy lên một phong trào đấu tranh chống Mỹ của quần chúng khá sôi nổi và quyết liệt, cùng với phong trào ly khai của Sư đoàn 1 ngụỵ Phong trào đã kéo dài trong 3 tháng 4,5,6/1966. Quân chún xuống đường đòi hòa bình, chống chiến tranh với khẩu hiệu đòi lật đổ Thiê.u-Kỳ. Cả Huế vùng lên, học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi chợ, công chức bãi việc, quần chúng tổ chức tuần lễ tẩy chay quân Mỹ. Cuộc đấu tranh đã hình thành một mặt trận rộng rãi, thành phong trào liên minh hành động có tính cách bạo lực chống Mỹ và tay sai giữa nhân dân lao động và Sư đoàn 1 ngụy, đòi ly khai khỏi ngụy quyền Saigon.

Sinh viên Huế lập đội sinh viên quyết tử, học sinh lập dội xung kích, giáo chức tổ chức lực lượng chống đàn áp. Hằng trăm sinh viên được điều động đi học quân sự, các chị tiểu thương chợ Đông Ba, nữ sinh Đồng Khánh đi làm cứu thương tiếp tế cho quyết tử quân, v.v..."



* Nguyên nhân thất bại :

"Trong tháng 5/66 cả thành phố Huế hầu như hổn loạn, ngụy quân ngụy quyền bị tê liệt. Nhưng do tương quan lực lượng không cân xứng và sự lãnh đạo trực tiếp của ta chưa đủ mạnh, địch đưa quân đến đàn áp khốc liệt và dìm phong trào vào bể máụ Các đơn vị ly khai đầu hàng, lực lượng PG tan rã, cơ sở của ta trong phong trào một số bị bắt, một số rút vào bí mật. Phong trào kéo dài được 96 ngày.

"Trong cán bộ lãnh đạo, một thời gian dài có tư tưởng hữu khuynh rất nặng. Do tư tưởng hữu khuynh nên trong lãnh dạo thiếu tinh thần tấn công mạnh mẽ và liên tục, chưa mạnh dạn phát động chiến tranh nhân dân, giành thắng lợi từng bước, và tiếp tục tiến công địch, đập tan mọi phương sách đối phó của chúng, kiên quyết đưa phong trào tiến lên".

Xét về nguyên nhân thất bại, phần thứ nhất bản kiểm điểm nói đúng, nhưng phần thứ hai có tính cách cường điệụ Với lực lượng Quân dội VNCH thời đó, không một tổ chức chiến tranh nhân dân nào do các Khu ủy phát động có thể tồn tại được, nhất là khi cuộc chiến tranh đó bị đa số lên án.. Lúc đầu TT Trí Quang lấy "dư đảng Cần Lao TCG" làm chiêu bài kích động Phật tử, nhưng chiêu bài đó về sau trở thành một đối lực không vượt qua nổị Chiến tranh nhân dân bao giờ cũng chỉ là phương tiện phá rối hay tạo điều kiện cho một biến cố xảy rạ Coi chiến tranh đó như là một yếu tố quyết định thắng lợi là sai lầm.

Trích từ các tài liệu :

- Phê bình Mùa Biển Động; Nguyễn Thị Sông Hương; nxb Đại Nam 1992.
- Những bí ẩn đằng sau các cuộc thánh chiến; Lữ Giang; 1994.
- Tôn giáo và Chính trị : Phật giáo 1963-1967; Chính Đạo; nxb Văn Hoá 1994.

Vì quên một phần nói về sự tương quan giữa các tôn giáo khác và CS, ta tiếp tục phần này trước khi chấm dứt. Sự tàn sát và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và tôn giáo đối kháng để giữ địa vị độc tôn truyền bá chủ nghĩa CS là mục đích chính của CS qua các thời đạị Để mở rộng tầm ảnh hưởng qua mỗi thời kỳ, CSVN đã nương theo các chiêu bài như chống Pháp cứu nước, rồi kế đó chống Mỹ cứu nước nhằm gôm tất cả dưới một mái nhà CS. Do biết mưu đồ này từ 1946, các tôn giáo và đảng phái đã quy tụ về phương Nam thành lập một quốc gia VN mới không CS. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa của sự thành lập VNCH. Sau 1975, PG là nạn nhân sau cùng.

Lịch sử đã cho thấy có nhiều tôn giáo chống CS rất mạnh mẽ. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH), Cao Đài và Công giáo đã tham gia Mặt Trận Việt Minh (VM) với tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm thực sự theo đúng ý nghĩa vì một quốc gia VN tự do và hạnh phúc. Nhưng khi họ nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng sản Đông Dương thì đa số đã từ bỏ ngay VM.

Tại sao các tôn giáo Cao Đài, PGHH và Công giáo không tham gia VM ?

Trước hết VM chỉ là mặt nổi của Đảng CS Đông Dương. Các nhà lãnh đạo của các tôn giáo đều nhận thức rằng chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáọ Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo chống xâm lăng, CS chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôị Chính Mác đã từng nhận định :

"Tôn giáo là hơi thở của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng".

Mác còn tuyên bố :

"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân".

Nghĩa là Mác cho rằng tôn giáo chỉ là một hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi, nhân dân mới có hạnh phúc.

Ngoài chủ trương đó, với sự tráo trở khôn lường và phản trắc, Đảng CSĐ đã làm cho các tôn giáo trên dứt khoát với VC.

Sau khi HCM cướp chính quyền vào tháng 8/1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng CS đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp đang mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong tình thế này, HCM đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1/1/1946, HCM thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân lâm thời với HCM làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó và một số bộ đã được dành cho các đảng phái quốc gia, nhưng CS vẫn kiểm soát được chính phủ mà không nhượng bộ bao nhiêu cho ho..

Ngày 6/3/1946, HCM ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, HCM quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo với sự trợ giúp của Pháp. Có 2 vụ tàn sát quy mô nhất :

Đó là vào đêm 27/6/1946. HCM ra lịnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái được xếp vào loại phản động trên toàn quốc, giết hoặc thủ tiêu các lãnh tụ cán bộ của các tổ chức nàỵ Con số bị giết tại chỗ hoặc thủ tiêu lên khoảng hàng ngàn ngượi Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoa.

Vụ tàn sát đêm 19/12/1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18/12/1946,

Bộ Tư lịnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của VM tại Hà Nộị Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung và bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm tro.ng. Bộ tư lịnh Pháp liền ra mật lịnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự vê.. Vào khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, HCM ra lịnh nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công đồn Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ các đảng phái và tôn giáọ Số người bị giết kỳ này còn cao hơn lần trước.

Sau vụ này, đa số các sĩ phu và các tín đồ tôn giáo đã rời bỏ hàng ngũ VM và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng các tăng sĩ PG vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội PG Cứu Quốc.

Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, HCM quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng CSĐ họp từ 15-17/1/1948 có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau :

"Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v... Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậy.

"Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạọ Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo, tín ngưỡng của giáo dân.

"Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhaụ Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản dộng, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động khuấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc". ("Lịch sử Đảng CSVN", nxb Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 206-207).

Nhưng rồi sau khi giành lại được chính quyền, Đảng CSVN lại trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáọ Hà Nội có lần gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn Chủ Nghĩa Vô Thần Khoa Học do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáọ Do các thủ đoạn tráo trở này mà các đảng phái quốc gia và tôn giáo kể trên đã không đứng chung hàng ngũ với CS.

Tương quan giữa Phật Giáo Hòa Hảo và Cộng sản Việt Nam

Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) là đạo Phật được Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cải biến cho phù hợp với tín đồ và môi trường của miền Nam VN. Vì đạo được khai sáng tại xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nên ông gọi là PGHH. Về giáo lý, PGHH lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản. Đây là 1 trong 84,000 pháp môn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng để cho các tín đồ tu tại gia biết con đường giải thoát.

Khi tình hình thế giới biến động, ngày 10/3/1945, ông Hồ Văn Ngà thành lập Đảng Việt Nam Quốc Gia, quy làm một 2 đảng Nhân Dân Cách Mạng và Việt Nam Quốc Gia lạị Ngày 14/8/1945, theo lời kêu gọi của ông Ngà, Đức Huỳnh Phú Sổ đã cùng các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch, v.v...đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Ngày 22/8/1945, lực lượng Việt Minh (VM) cướp chính quyền ở Hà Nội thì tại miền Nam, lực lượng của VM chưa có tên gì nên Nhật đã giao chính quyền Nam Kỳ lại cho ông Trần Văn Ân, Chủ tịch Hội Đồng Nam Kỳ.

Ngày 24/8/1945, Tổng Bộ VM cử Cao Hồng Lĩnh và Hoàng Quốc Việt từ Hà Nội vào Nam tăng cường cho Mặt Trận VM tại Nam Bộ và lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ ti.ch. Ngày 7/9/1945, nhóm Đệ Tứ (Trostkyite; nhóm này chủ trương chống Pháp và nhóm CS Đệ Tam của HCM) và các đảng phái Quốc gia đứng lên chống lại Lâm Ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu phải mở rộng cơ quan này, cho Phạm Văn Bạch làm Chủ ti.ch. Một cuộc biểu tình của PGHH được tổ chức tại Cần Thơ đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh của VM và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Cuộc đối kháng giữa các đảng phái quốc gia và CS bắt đầu.

Ngày 13/9/1945, công an của VM do Lý Huệ Vinh cầm đầu đi lục soát xóm Thơm lùng bắt các ông Vũ Tam Anh, Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Bùi Quang Chiêụ Trước đó, vào ngày 9/9/1945, Trần Văn Giàu đã cho công an VM vây trụ sở của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để bắt chủ tịch của hội này là Đức Huỳnh Phú Sổ, nhưng không bắt được ông.

Ngày 16/9/1945, quân Pháp trở lại chiếm Saigon, tuyên bố không chấp nhận Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu, đuổi Lâm Ủy Hành Chánh ra khỏi Dinh Gia Long. Trần Văn Giàu phải nhờ các ông Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Ký (tức Nguyễn Thị Sương) đứng ra lập Ủy Ban Ngoại Giao để thương lượng với quân dội Đồng Minh, nhưng không kết quả. Ngày 24/9/1945, các đảng phái quốc gia, trong đó có giáo phái PGHH, đứng lên sát cánh với VM hô hào chống Pháp. Trong khi Lâm Ủy Hành Chánh rút về chợ Đệm thì các đảng phái quốc gia lập Ủy Ban Phong Tỏa Saigon gồm có Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà và Kha Vạn Cân. Ngày 27/9/1945, Dương Văn Giáo thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Chính phủ này lại bị VM chống đối mạnh mẽ.

Trước sự chống cự của các đảng phái quốc gia và VM, Pháp đã thương lượng với các đảng phái quốc gia và đề nghị hưu chiến để tìm một giải pháp tốt đẹp. Cuộc hưu chiến bắt đầu từ 1/10/1945. Lợi dụng tình trạng đang hưu chiến để thương lượng với Pháp, Trần Văn Giàu cho công an và bộ đội VM bao vây trụ sở và tư gia của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, bắt các ông Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi Quang Chiêụ Một số bị hạ sát ngaỵ Các đảng viên của Đệ Tứ như Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phạm Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, v.v... đều bị VM bắt và đem ra chôn sống ở Lòng Song thuộc tỉnh Bình Thuận. Cuộc chiến giữa các đảng phái quốc gia và VM đã thực sự bắt đầụ Riêng PGHH đã lập các khu kháng chiến tại miền Tây để chống cả Pháp lẫn VM.

VM lợi dụng lòng yêu nước của Đức Huỳnh Phú Sổ (HPS) và của đồng bào, kêu gọi liên minh để kháng chiến. VM chiêu dụ một số người có uy tín của PGHH tham gia VM như Sư thúc Mười Trí (tức Huỳnh Văn Trí), anh em kết nghĩa với Đức HPS. Ngày 16/4/1947, VM giả vờ mở đại hội cao cấp của Ủy Ban Hành Kháng Nam Bộ tại Đốc Vàng, mời Đức HPS tới phó hộị Đức HPS đã cùng với 4 cận vệ đi thuyền tới điểm hẹn, thì đột nhiên nghe súng nổ hàng loạt. Đức HPS bị ám hại, 3 cận vệ của ông bị đâm chết, chỉ người lái thuyền nhảy được xuống nước bơi qua bên kia sông nên thoát chết.

Sau khi Đức HPS bị ám sát thì Mười Trí xuất hiện tại Thánh Địa như muốn thay thế Đức HPS làm Giáo chủ. Người ta loan tin "Đức Thầy vân du một thời gian, sẽ trở lại", trong thời gian chờ đợi, có vẻ Mười Trí sẽ là "Quyền Giáo chủ lãnh đạo PGHH". Nhưng âm mưu này của VM không thành vì trong Giáo hội này còn có nhiều người như Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt. Mười Trí lại bị mọi người nhìn bằng con mắt xoi mói nên không dám ở lại, phải đi vào mật khu của VM. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Mười Trí đã tập kết ra Bắc, trở lại miền Nam sau 30/4/75 và đã qua đời tại Saigon vào năm 1989.

Ám hại xong Đức HPS, VM cho bộ đội và công an đi lùng bắt giết các lãnh tụ và cán bộ trung kiên của PGHH. Có khoảng 12,000 tín đồ PGHH đã bị thanh toán trong giai đoạn nàỵ Riêng tại thôn Phú Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, người ta đã khám phá thấy 3 hầm chôn tập thể trên 300 ngườị Nhưng lực lượng PGHH đã được tổ chức lại để chống CS.

Sau ngày 30/4/75, CS triệt hạ toàn bộ cơ sở của PGHH, từ trung ương đến địa phương. Tất cả tài liệu kinh giảng của Giáo hội bị tịch thu, bắt dẹp bỏ hình Đức HPS tại nơi công cộng và tư giạ Một số lớn chức sắc và tín đồ của PGHH đã bị giết, bị tuyên án tử hình, án tù hay quản thúc tại giạ Vài vụ thanh toán điển hình:

- Những chức sắc và tín đồ bị án tử hình : Nguyễn Văn Phụng, Nguyễn Đê, Huỳnh Văn Lầu (cựu Dân biểu Quốc hội), Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Văn Oanh, Lê Chơn Tình, Nguyễn Văn Coi, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Út, Tô Bá Hộ (có thể bị tử hình hay tù chung thân). Riêng Nguyễn Thành Long, Hội trưởng Hội PGHH quận Cái Răng, Cần Thơ đã bị bẻ cổ chết.

- Tù chung thân : Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Trên, Trần Văn Dũng.

- Bị đưa đi cải tạo và chết trong tù : Phan Bá Cầm (Tổng bí thư Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng), Thiếu tướng Lam Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), Trịnh Quốc Khánh (tự Chín Lễ), v.v... Riêng cụ Trần Hữu Duyên, sau một thời gian cải tạo đã được tha về, năm 1992 bị bắt lại và bị phạt 10 năm khổ sai khi ông vừa được 70 tuổi.



Tương quan giữa Đạo Cao Đài và Cộng sản Việt Nam.

Đạo Cao Đài được chính thức thành lập vào năm 1926. Người sáng lập là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, tòng sự tại Phú Quốc. Ông là người rất tin giáng khẩu của các thần linh và thường dùng bàn xoay để tiếp xúc với thế giới vô hình. Một hôm, ông tiếp xúc được với một vị tự xưng là Cao Đài và vị này cho ông được tôn thờ dưới hình một con mắt. Được thuyên chuyển về Saigon, ông cùng với một số bạn bè thường cầu cơ và được Đức Cao Đài giáng đồng dạy cho biết những triết lý tu và sống đạo.

Ngày 7/10/1926, ông Ngô Văn Chiêu đã cùng 28 người ra tuyên ngôn chính thức lập đạo Cao Đài và xin Thống đốc Nam Kỳ cho phép hoạt dộng chính thức. Đơn được chấp nhận. Ông Lê Văn Trung được bầu làm giáo chủ đầu tiên của đạo này.

Sau khi được thành lập, đạo Cao Đài đã bị Đảng CSĐ lên án nặng nề và coi tôn giáo này là công cụ của thực dân Pháp.

Trong Nghị quyết của Đại biểu Đại hội lần thứ 1 của Đảng CSĐ họp từ 27-31/3/1935, CS nhận định như sau :

"Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như : Đại biểu Hội nghị Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy Phật học ở Cao Miên, cải lương đạo Phật, khuếch trương đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, cuộc tuyên truyền của một bộ phận bọn lãnh tụ Cao Đài giả bộ cổ động phản đế và cho rằng đạo Cao Đài là Cộng sản chủ nghĩa hòa bình (?), là những mưu mô của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng đấu tranh giai cấp để kéo quần chúng ra khỏi cách mạng tranh đấu " ("Lịch sử Đảng CSVN", nxb Sách Giáo khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 124).


Một Nghị quyết của Ban Trung ương đảng khác lại viết về đạo Cao Đài như sau :

Quần chúng có ít nhiều tinh thần phản đế (quốc) theo đạo Cao Đài và Phật giáo khá cao, nhất là sau những năm khủng bố 1930-1931, đạo Cao Đài ở Nam Kỳ kéo được một số đông tín đồ, nhưng nhờ thực tế thức tỉnh và nhờ phong trào dội lướt lên của một số quần chúng theo các đạo ấy đã dần dần nhận rõ con đường đoàn kết tranh đấu để đòi quyền lợi, đã có một số ra khỏi đạo Cao Đàị Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đã tìm cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những Hội Chấn hưng PG ở Nam-Bắc-Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của cơ quan mật thám chính trị bày vẽ. Còn bọn lãnh tụ Cao Đài lúc trước phần nhiều bị bọn tay sai Nhật mua chuộc và lừa gạt quần chúng tín đồ theo ảnh hưởng thân Nhật. Từ khi đế quốc Pháp dự vào chiến tranh, vì tình hình căng thẳng và vì đế quốc Pháp tìm cách mua chuộc, phần nhiều lãnh tụ Cao Đài lúc này đã trở nên tay sai đế quốc Pháp, hô hào tín đồ ra đầu quân giúp "mẫu quốc", che đậy sự tráo trở đầu hàng đế quốc Pháp của chúng bằng câu :"Đi lính để quay mũi súng đánh Tây". Tóm lại, bọn lãnh tụ Cao Đài là bọn có bản tính phản động, đòn xóc hai đầu, tùy theo cơ hội hoặc làm tay sai cho đế quốc này, hoặc bán mình cho đế quốc khác, còn quần chúng tín đồ Cao Đài thì có ít nhiều tinh thần phản đế, nhưng còn nhiều mê tín thần bí nên bị bọn lãnh tụ xỏ lá lừa gạt" ("Lịch sử Đảng CSVN", nxb Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 124).

Mặc dù Đảng CSĐ nhận định như trên nhưng thực tế không phải thế. Đạo Cao Đài về sau trở thành một tổ chức chống Pháp và chống CS mạnh mẽ nhất của miền Nam VN. Họ có cả một tổ chức quân đội rất vững ma.nh. Trong một đại hội Cựu Chiến sĩ Cao Đài dược tổ chức tại Anaheim, Caifornia từ 1-3/1/1993, cụ Đặng Quang Dương đã trình bày về Quân đội Cao Đài như sau :

"Tại sao Cao Đài là một tôn giáo mà lại có quân đội ? Nhìn vào lịch sử đen tối của đất nước thời bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, con ngươi mất hết quyền công dân, ngay cả bản thân cũng phải đóng thuế, thì làm sao tín đồ Cao Đài ngồi yên được, cho nên có sinh hoạt chính trị và tổ chức quân sư.. Để bảo vệ tính mạn tín đồ Cao Đài và để bảo vệ quốc gia dân tộc, quân đội Cao Đài tổ chức các Trung đội lưu động hành quân gom dân về các châu vi đạo, các Trung đội lưu thủ bảo vệ các châu vi đạo để đồng đạo được tự do tín ngưỡng. Đồng thời quân đội Cao Đài cũng lập chiến khu Núi Bà Đen, chiến khu Bù Lu để chống lại bọn thực dân.

"Năm 1954, chiến tranh Đông Dương kết thúc, một đại hội Cán Bộ Việt Nam Phục Quốc Hội, một đoàn thể chính trị của người Cao Đài, được triệu tập tại Trường Thiếu Sinh Quân Cao Đài, sau 3 ngày hội thảo, đại hội khẳng định :"Bắc chống Nga Hoa, Tây hòa Âu Mỹ, Nam liên kết bằng hữu Á Châu", một lập trường rất đứng đắn của tín đồ Cao Đài thời bấy giờ" (Phi Loan, "Phóng sự Đại hội cựu Chiến sĩ Cao Đài, Tập san Đại Đạo Phổ Thông, số 1, 4/1993).

Đảng CSĐ đã không thuyết phục được các lãnh tụ Cao Đài gia nhập VM vì giữa Cao Đài và chủ nghĩa CS có một sự khác biệt không dung hợp được : một đàng vô thần và một

đàng hữu thần. Bộ mặt tráo trở của các lãnh tụ Đảng CSĐ đã bị các lãnh tụ và tín đồ đạo Cao Đài nhận diện nên không những không tham gia vào các hội cứu quốc của VM mà còn cương quyết chống lạị Vì vậy, CS đã tìm mọi cách tiêu diệt Cao Đàị Nói một cách khác, đối với CS, thuận là sống, nghịch là chết.

Trong 2 năm 1945 và 1946, có trên 10,000 chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài bị tiêu diệt, điển hình nhất là các mồ chôn tập thể 4,000 giáo hữu của đạo này tại Quảng Ngãi và mồ chôn tập thể tại Trà Cao, Tây Ninh.

Sau khi chiếm được miền Nam VN, CS cho ngay một Trung đoàn chiếm đóng Tòa Thánh Tây Ninh và phong tỏa các vùng phụ cận, lục soát toàn bộ khu vực nàỵ Sau đó, CS đã bắt đi các chức sắc quan trọng của đạo Cao Đài như Phối Sư Trần Quang Vinh, Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh, cựu Thiếu tướng Trần Tấn Mạnh và 25 vị chức sắc khác đưa đi cải taọ

Phối Sư Trần Quang Vinh đã chết trong tù. CS đã giấu xác của ông không cho thân nhân và tín đồ nhận về.

Tiếp đó, CS cho bỏ vũ khí vào đằng sau Điện Giáo Tông rồi mở cuộc lục xét bắt Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và những người cư ngụ trong nội thành Tòa Thánh Tây Ninh, truy tố họ về tội tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và tổ chức chống chính quyền, rồi đưa ra xét xử trước Tòa Án Nhân Dân được thiết lập tại sân vận động Long Hoạ Hàng ngàn tín đồ đã vây sân vận động và khóc, CS không thể xét xử được vì thanh thế của ông đối với dân chúng quá caọ Cuối cùng, CS đã đưa ông về quản thúc tại gia nhưng buộc Hội Đồng Chưởng Quản phải giáng xuống hàng Đạo hữụ Hiền Tài Hồ Thái Bạch, con của Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, bị bắt trong vụ Mặt Trận Phục Quốc tại Saigon năm 1984 và đã bị xử bắn với Trần Văn Bá và Lê Văn Quân vào ngày 8/1/1985.

Mặt Trận Tổ Quốc của CS huyện Hòa Thành đã đưa Trương Ngọc Anh về tuyên bố giải tán Giáo hội Cao Đài và thành lập một Hội Đồng Chưởng Quản mới đặt trực thuộc quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Huyện với dụng ý giáng xuống cấp huyện. Tất cả các cơ sở của Giáo hội này được đặt dưới quyền quản trị của Ban Quản Lý Nội Ô Tòa Thánh.

Các chức sắc và giáo hữu của đạo Cao Đài chống lại việc giải tán đã bị bắt giam và truy tố về tội chống đốị Sau đây là các vụ điển hình :

- Tại Đà Nẵng và Quảng Nam : Năm 1975 : phạt Nguyễn Hoàng Diệu 10 năm tù. Tháng 11/1976 : kết án tử hình Phạm Ngọc Trảng, Nguyễn Thành Điểm và Đặng Ngọc Liêm; phạt từ khổ sai chung thân đến 7 năm tù : Nguyễn Minh Quan, Cao Tường Xuân, Lý Thành Trọng, Châu Thị Mỹ Kim, Trần Văn Bảo, Lê Ngọc Minh, Phạm Thàn Phước, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn Thành Minh, Đỗ Trung Trực, Trần Văn Phi, Nguyễn Tấn Phụng, Phương Văn Được, Ngô Văn Trạng và Tạ Tài Khoán. Năm 1978 : Nguyễn Phú và Mai Văn Căn bị 3 năm tù. Năm 1979 : Trần Ngọc Thành và Nguyễn Văn Bảy bị hành quyết.

- Tại Saigon : Trong phiên xử ngày 7-8/12/1979 của Tòa án Nhân dân Saigon, những nhân sĩ và đạo hữu Cao Đài sau đây bị tuyên án về tội tham gia mặt Trận Giải Phóng Việt Nam : Tử hình : Ngyễn Văn Mạnh và Lê văn Nho; chung thân khổ sai : Trần Minh Quang, Đinh Tiến Mậu, Nguyễn Thái Dùng, Đoàn Văn Ba.ch. Một số bị án từ 10-20 năm.

- Tại Tây Ninh : Trong phiên xử ngày 10-11/12/1979 các đạo hữu sau đây bị tuyên án vì tham gia Mặt Trận Nhân Dân Phục Hưng Quốc Gia Việt Nam : tử hình : Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Thanh Khiết, Hồ Hữu Hìa và Lê Tài Thượng; chung thân khổ sai : Nguyễn Anh Dũng (tức Phan Đăng Chức), Trương Phước Đức, Nguyễn Ngọc Đệ, Võ Văn Thắng. Một số đạo hữu khác bị án từ 3-20 năm tù.

Trên 35 cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài tại miền nam đã bị tịch thụ Năm 1989, CS tuyên bố tịch thu luôn Thánh Thất Cao Đài Hà Nội ở số 29 Lý Thường Kiệt, Hà Nội.

Như vậy, với chỉ một vài hàng tường thuật như đã trình bày, chúng ta đã thấy rất rõ CS, người từng xưng hô với thế giới và những người trẻ tuổi tại VN rằng họ là những người chống Pháp, chống đế quốc, đã từng hy sinh ra tù vào khám vì giấc mộng "giải phóng dân tộc", nhưng khi "giải phóng dân tộc" rồi thì CS còn tàn ác gắp trăm ngàn lần thực dân Pháp, vì chính họ đã uống máu, sát phạt, thủ tiêu, đày ải, cấm cố người dân Việt của họ chỉ vì tin vào "đấu tranh giai cấp" hão huyền.


Phần 11/62



Tương quan giữa Công giáo và CSVN


* Khởi đầu bằng ve vãn, mua chuộc :

Khi tình hình CG miền Bắc đang gặp khó khăn thì vào ngày 1/10/1945, Linh mục Lê Hữu Từ (LHT) được Vatican cử đến nhận chức Giám mục giáo phận Phát Diệm. Nhân ngày tấn phong 29/10/1945 của ông, HCM đã gởi một phái đoàn chính phủ đến tham dự kèm theo một thư chúc mừng như sau :



"Thưa Ngài,


"Mừng Ngài vì cuộc tấn phong này đã chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngàị

"Mừng đồng bào CG, vì từ nay các bạn đã được một vị lãnh đạo rất xứng đáng.

"Đồng thời mừng cho nước ta vì tôi chắc rằng Ngài sẽ lãnh đạo đồng bào CG noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ gìn quyền Tự do và Độc lập của nước nhà.

"Kính chúc Ngài được luôn an mạnh " ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 44).

Mặc dầu có những lời ve vãn và chúc tụng trên, GM LHT hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với tình hình mớị Ông cho lập Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo VN và VN Công giáo Cứu quốc. Phạm Văn Đồng hay tin liền về Phát Diệm một tuần lễ để nghiên cứu, theo dõi và xoa dịu tình hình. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký nghị định số 52/BNV ngày 6/4/1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức này lan rộng mau lẹ trên toàn quốc.

Ngày 25/1/1946, nhân lễ bế mạc tuần tĩnh tâm của giáo phận Phát Diệm, HCM xuất hiện đứng trước đồng bào CG và hô to :"Đức Chúa muôn năm !". Sau đó HCM tuyên bố mời GM LHT làm cố vấn cho chính phủ.

Ngày 24/12/1946, HCM gởi một thông điệp tới đồng bào nhân ngày lễ Giáng sinh bày tỏ sự mong ước nước nhà được tự do và độc lập như sau :

"Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đờị Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng.

"Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữạ Chúng làm trái với lòng bác ái của Đức Giêsu..." ("Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, nxb Sự Thật, 1956, tập I, t. 111).

HCM còn đi xa hơn nữa trong trò ảo thuật ve vãn nàỵ Cuối năm 1947, HCM ra lịnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào CG Phát Diệm và Bùi Chu không tuân hành. Ngày 20/12/1947, HCM về huyện Nho Quang, tỉnh Ninh Bình và mời GM Lê Hữ Từ đến dùng cơm trưa với ông ta và các Bộ trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, HCM đã xin chịu phép rửa tộị GM Lê Hhữu Từ kể lại :

"Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẳn 2 cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưạ Nằm sát bên ông, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói : "Xin cụ làm Béptêm (rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa". Nghe thế tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói :"Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng vì là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự trước, nên để sau sẽ tính" ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 160-161).



* Thanh toán (1946-1954) :

Bên ngoài ve vãn như thế, nhưng bên trong HCM đang chuẩn bị để thanh toán, vì HCM biết rằng CG và CS không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27/6/1946 đã nói ở trên, VM bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần CG hoạt động tích cực cho các tổ chức CG tại mỗi địa phương.

Trên toàn quốc, có 3 vùng đông giáo dân tập trung được VM chú ý là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định (117 giáo xứ) và Ninh Bình (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc giáo phận Vinh, nằm trong vùng kiểm soát của VM nên không thể võ trang tự vệ được. Các giáo xứ đó chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho VM chi phối vào các hoạt động của giáo phận và giáo xứ. Giáo phận Bùi Chu ở Nam Định và giáo phận Phát Diệm ở Ninh Bình nằm trong vùng tranh chấp giữa 2 bên nên HCM tìm cách lôi kéo 2 giáo phận này theo VM. Cả 2 giáo phận này đã phải đối phó một cách khôn khéo để sống còn. Khi không thuyết phục được, HCM ra lịnh tấn công.

Từ tháng 10-12/1946, VM cho mở cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc giáo phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đã bắt đi khoảng 5,000 người cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt bị đưa về giam ở huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùng ở Thanh Hoá. HCM đã cho phục kích mưu sát "Đức cha cố vấn" (GM Lê Hữu Từ) 3 lần, nhưng ông đã thoát nạn.Trước tình trạng này, 2 giáo xứ trên không còn cách gì khác hơn là lập các tổ chức tự vệ được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng bộ chỉ huy tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm.

Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của giáo phận. Đa số dân tập trung ở huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đở của các tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xã, 32 giáo xứ, gồm các tổng Hồi Thuần, Quy hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150,000 ngườị Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc phòng thủ : 3 mặt được bọc bởi 3 con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Toà Giám mục và Nhà Chung nằm ở giữạ Tính đến tháng 2/1947 đã có khoảng 60,000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xã Phát Diệm đã phải chứa khoảng 30,000 ngườị Tại nơi đây các giáo dân đã đùm bọc lấy nhau.

Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng chống cả VM lẫn thực dân Pháp. Họ đã cho người vượt biên để tìm mua vũ khí. 2 giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đã liên lạc được với Hoà Thượng Thích Tuệ Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh Bình để thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.

Pháp đã thuyết phục GM LHT để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng ông từ chốị Ngày 22/11/1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào CG. Cùng một lúc, VM cho bộ đội vây các xã Văn hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt di 695 người, trong đó có 13 người bị hành quyết ở núi Cánh Diềụ Bị tấn công từ 2 phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.

Ngày 29/2/1948, Chủ tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh Bình cho triệu tập buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về các vụ bắt bớ vừa quạ Ôg nói rằng VM không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm".

Tình trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16/10/1949 thì Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.

Sau này Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22/12/1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống CS có khoảng 5,000 thanh niên CG bị VM bắt giam ở các trại Đầm Đùng, Yên Lai và Kim Tân.

Bị Pháp phỏng tay trên ở Phát Diệm, VM gặp khó khăn khi mở các cuộc tấn công vào các giáo xứ. VM quay qua tấn công các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11/1949. Bộ đội và công an VM đã bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ. Ngày 19/11/1949, Pháp mở cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát. Từ việc đó ta thấy ngay là chính VM, với bản chất là CS tàn bạo, đội lốt "cac'h mạng", chứ không phải là "yêu dân tộc, đồng bào ruột thịt" đúng nghĩa đã làm cho dân chúng cảm thấy là họ sống an toàn hơn dưới "bàn tay của thực dân". Trong thời gian chống cả VM và Pháp, khu Phát Diệm cũng đã che chở nhiều nhân vật quan trọng giúp họ thoát khỏi sự sát hại của VM như Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương.



* Ngăn cản và đàn áp cuộc di cư :

Theo điều 14, đoạn b của Hiệp định Geneva ngày 20/7/1954 thì :

"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy".

Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21/7/1954, ở đoạn 8 có nói :

"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở VN tự do lựa chọn vùng mình muốn sống".

Lúc đầu thì CS cho di cư khá dễ dàng. Sự ra đi của người CG Bắc Việt phát xuất từ nguyên nhân sâu xa là họ ý thức rằng không có tự do tôn giáo dưới chế độ CS, do đó họ quyết tâm ra đị Về sau, số người bỏ làng vào Nam ngày càng đông, CS thấy rằng nếu việc này tiếp tục diễn ra có thể làm suy yếu tiềm năng và kinh tế của miền Bắc nên đã dùng nhiều biện pháp dã man để ngăn chặn. Nạn nhân chính dĩ nhiên là đa số người CG Bắc Việt. Sau đây là vài trường hợp điển hình :

- Vụ Ba Làng : khoảng 8,000 giáo dân biểu tình truớc nhà thờ Ba Làng đòi được quyền di cư, đã bị bộ đội và công an CS xả súng bắn thẳng vào làm vô số người chết.

- Vụ Trà Lý : Khoảng 2,000 giáo dân ra một cồn cát ở bờ biển Trà Lý đợi tàu đén đón đị Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao thì bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết, xác trôi dạt trên sóng. Tiếng kêu cứu vang một vùng. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đã đến cứu dược 1,445 ngườị Khoảng 600 người bị chìm dưới bể.

- Vụ Cửa Lò : Cửa Lò là vùng duyên hải nằm cách Hải Phòng khoảng 300 km, nhưng giáo dân không đi được vì bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Nhiều đám cháy được dựng nhiều nơi để đánh lừa bộ đội lo chữa cháy, nhơ đó 1,156 đã đi thoát.

-Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đình hay từng cá nhân, có khi nghiêm trọng nhưng không thể kể hết. Sau 30/4/1975, người ta được biết có nhiều nguời Bắc di cư năm 54 đứng ra tổ chức việc ra đi năm đó đã bị công an xử phạt từ 12-20 năm khổ sai.

Kết quả là đã có khoảng 860,206 người di cư vào Nam và được chia ra như sau : Công giáo với 677,389 người, trong đó có 1,041 người theo đạo Tin Lành. Phật giáo với 182,817 ngườị

Cùng với việc ngăn chặn sự ra đi này Phạm Văn Đồng tới gặp GM Trịnh Như Khuê yêu cầu ông viết một bức thơ kêu gọi giáo dân ngưng việc vào Nam, nhưng ông đã từ chối.


Giáo hội Công giáo miền Bắc từ 1954-1975

Sau chuyến di cư 1954, số giáo dân còn lại sau "bức màn tre" chỉ còn khoảng 750,000 người với 254 Linh mục và 7 Giám mục, chia làm 10 giáo phận. Ngoài ra Đức Khâm sứ Tòa Thánh Jean Dooley đã quyết định ở lại với Giáo hội CG miền Bắc.

CS đã ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế giáo hội nàỵ Trước tiên họ cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của giáo hộị Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này, CS triệu Nguyễn Mạnh Hà, cựu Bộ trưởng trong chính phủ VM, một tín đồ CG, từ Pháp về, đồng thời mời 2 linh mục và 1 giáo hữu Ba-Lan qua Hà Nội để "giải độc" trong giới CG. Phái đoàn Ba-Lan này tuyên bố :"Bên Ba-Lan chúng tôi có 26 triệu dân thì những 26 triệu dân là CG, chúng tôi đến giúp anh chị em VN để theo gương chúng tôi là ký kết một cái gì đó với chính phủ cho dễ thở, không thì sẽ như Giáo hội Trung hoa".


* Sắc lệnh về tôn giáo :

Ngày 14/6/1955, HCM ban hành Sắc lệnh số 234/SL về "Tự do tôn giáo" . Tuy đã chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi sắc lệnh này vừa được công bố trên nhật báo Nhân Dân ngày 15/8/55 thì gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của giáo hội CG miền Bắc vì các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm nay không còn nữạ Chỉ Linh mục Vũ Xuân Kỹ và một nhóm linh mục ly khai với giáo quyền mới ủng hộ sắc lệnh trên. Sắc lệnh quy định :

- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán.

- Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáọ

- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương trình của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lý cho các học sinh muốn học.

- Các linh mục không được vào bịnh viện, trừ khi chính bịnh nhân xin đích danh.

- Tài sản của GH do nhà nước quản lý. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.

Chương trình giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ võ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáọ

Cũng trong khoản đầu năm 1955, CS cho tổ chức đại hội các người CG "yêu tổ quốc và hòa bình" tại Hà Nội và ép buộc 16 linh mục từ các địa phận về tham dư.. Đại hội còn gởi thư cho Đức Giáo hoàng xin thẳng tay trừng trị "bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Các hội nghị tương tợ cũng đã được tổ chức tại Hà Đông, Sơn Tây và Nam Đi.nh.

Riêng tại Hà Nội, CS mời hàng giáo phẩm tới thảo luận về sắc lệnh tôn giáọ Trong hội nghị này cùng có sự tham dự của ông Ngô Từ Hạ và một số giáo dân "cấp tiến" khác. Tuy nhiên hàng giáo phẩm tới tham dự đã không lên tiếng ủng hộ sắc lệnh, cũng không chịu đi biểu tình và kéo chuông như CS dự trù.

Nhóm CG "cấp tiến" trên do CS thành lập dưới danh hiệu "CG yêu tổ quốc, yêu hòa bình" với thâm ý dùng phong trào này để thôn tính CG; nhóm này do Ngô Từ Hạ và Linh mục Vũ Xuân Kỹ cầm đầụ Chính nhóm này đã tổ chức những cuộc tiếp đón phái đoàn CG quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm GH miền Bắc do ông Rostielo Petra cầm đầụ Petra nói rằng khi người CG thực hiện các kế hoạch của nhà nước và Mặt Trận Tổ Quốc, chính là thực hiện "lý tưởng Công giáo". GM Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn này làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này làm CS tức giận. Vào dịp lễ Giáng sinh kế đó, CS bắt các nhà thờ đọc thông điệp của HCM nguyền rủa đế quốc.



* Thành lập tổ chức CG quốc doanh :

Giáo sĩ đầu tiên của CG đã tham chính trong chính quyền CS là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc giáo phận Hà Nội và là một trong 3 linh mục VN đầu tiên được đưa qua La Mã và Pháp học lấy bằng Tiến sĩ.

Linh mục Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc hộị Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo VM vào chiến khu và được cử làm Quốc vụ khanh của chính phủ HCM, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và CG. Ông đã nhiều lần được HCM giao cho nhiệm vụ tiếp xúc với GM Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị nàỵ Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần HCM phải đích thân dến.

Sau linh mục Trực còn có 2 linh mục nổi tiếng khác đã cộng tác với CS, đó là linh mục Vũ Xuân Kỹ và Nguyễn Thế Vịnh. LM Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức LM năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc giáo phận Phát Diệm. Năm 1947, khi VM rút vào chiến khu, ông đã đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp.

Ông được HCM giao cho việc phụ trách công tác Công giáo vận ở trong cũng như ngoài nước.

Sau khi chiếm được miền Bắc, HCM cũng muốn biến GHCG miền Bắc thành một GHCG Tự Trị như ở Trung Cộng, nhưng sau nhiêu lần thăm dò, HCM thấy rằng miền Bắc vẫn còn có Khâm sứ Tòa thánh, 7 Giám mục, 254 linh mục và 750,000 giáo dân.

Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật giáọ Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc HCM quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá GHCG tại đâỵ

Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đã quyết định cho triệu tập một Đại hội Đại biểu Công giáo vào ngày 11/3/1955 tại Hà Nội để thành lập môt tổ chức liên kết người CG miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội do Mặt Trận Tổ Quốc quyết định.

Các LM Nguyễn bá Trực, Nguyễn thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ Thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đã vận động tích cực cho việc tổ chức Đại hộị Sau 2 ngày thảo luận, Đại hội đã quyết định thành lập "Ủy ban liên lạc Công giáo yêu tổ quốc và hòa bình" và bầu LM quốc doanh Vũ Xuân Kỹ làm Chủ tịch, LM Hồ Thành Biên làm Phó chủ tịch. 3 LM quốc doanh khác làm Ủy viên trung ương của Ủy ban. Nhiệm vu chính của Ủy ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được nhà nước yểm trợ nhưng ủy ban này không làm được trò trống gì cả vì bị giáo dân tẩy chay.

Sau khi lập xong tổ chức CG quốc doanh nói trên, CS coi các GM miền Bắc như không có nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng LM và kết hợp hoạt động qua Ủy ban Liên lạc CG. Năm 1960, LM Phạm Hân Quynh đã lên tiếng chỉ trích các hành động chia rẽ này của CS và ông đã bị công an cho đi cải tạo và quản thúcsuốt 30 năm.



* Xiết chặt vòng kiểm soát :

Cũng trong năm 1955, CS cho triệu tập một Hội nghị CG Toàn quốc thứ hai tại Hà Nội, trong đó có 16 LM bị chỉ định phải đến tham dư.. Trong hội nghị này, Mặt Trân Tổ Quốc đã đưa thỉnh nguyện thư gởi Đức Giáo Hoàng yêu cầu"trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Thỉnh nguyện thư này mở màng cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của CS và bị họ lên án là "tay sai đế quốc".

Trước tiên, CS hạn chế sự di chuyển của LM nên những giáo xứ không có LM thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghĩ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Hòn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40,000 giáo dân nhưng không có LM nàọ Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng sinh hay Phục sinh.

Tại những nơi có LM, CS cố tình sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.

Năm 1956, CS bắt đầu trục xuất dần các LM thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 LM thừa sai đã tình nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc. Số LM này lần lược bị gọi đến và ra lệnh phải rời VN. Đầu năm 1959, Đức Khâm sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đã bị trục xuất qua ngã Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như hoàn tất. Sự thiếu thốn LM trở nên trầm trọng.

Đến giai đoạn hai, CS bắt đầu thanh toán các trường tư CG. Bỗng dưng các học sinh không CG từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường CG rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là âm mưu của CS. Sau khi dồn được một số đông học sinh không CG vào các trường này, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo LM hiệu trưởng và gây hỗn loạn. CS lấy lý do ổn định học đường, đã đứng ra quản lý trường CG. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do LM Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi CS tuyên bố quản lý trường này, ông đã gởi một văn thư phản đối đi khắp nơị Sau vụ này, LM Vinh bị đưa di học tập cải tạo ở trại Quyết Tiến (còn gọi là trại Cổng Trời) thuộc Hoàng Liên Sơn, sát biên giới Trung Quốc và ông đã chết tại đây.

Xong vụ trường tư CG, CS từ từ chiếm đoạt các tài sản của giáo hội CG, kể cả nhà thờ. Một giáo dân già đã kể lại rằng khi muốn lấy nhà thờ của giáo xứ ông, CS đã cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sàị Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, CS xin cha xứ cho họ tạm gởi lúa vào phần nữa dưới nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho luá lại. LM chánh xứ đã đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đã cho chận phân nữa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của ho.. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, CS miền Bắc cướp dần các tài sản còn lại của giáo hội này.

Sau khi tước đoạt tài sản xong, CS tiến tới việc phân tán các giáo xứ dông đảo, bằng cách buộc họ đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đình tới ở luôn. Đặc biệt, CS chú ý tới thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ tìm mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những "công ăn việc làm tốt" để gài bẫy và làm áp lực để nạn nhân phải di chuyển nơi khác.



* Quỳnh Lưu (Nghệ An) nổi dậy :

Trong thời gian Pháp chiếm đóng VN, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng VM kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kềm kẹp gắt gaọ Sau hiệp định Geneva, giáo dân các giáo xứ trong vùng CS kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, lợi dụng CS tung ra "nghị quyết sửa sai" trong đợt "Cải cách ruộng đất", vào đầu năm 1956, giáo dân thuộc các xã Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễn Tân, Diễn Đức, Diện Đông, Diện Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đã mở hội nghị tỏ bày bao nỗi uât ức và phẫn nộ của họ ròng rã trong 10 năm trường. Đại hội đã đưa ra 4 yêu sách sau đây :

- Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
- Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hoặc thủ tiêu.
- Trả lại các tài sản của giáo phận, giáo xứ bị xung công hay tịch thu.
- Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ đã bị nhục mạ hay bị vu khống.

Kiến nghị này được thành lập 5 bản gởi cho Vatican, HCM, Ủy hội Kiểm soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.

Đến ngày 9/11/1956, khi hay tin Ủy hội Kiểm soát Đình chiến sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cự Sau đó, họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghi.. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, 2 bên xô xát nhau, chết khá nhiều.

Sáng ngày 13/11/1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lươ.ng. Khoảng 3,000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trơ.. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước tình thế này, HCM ra lịnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hoá, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh, và Quỳnh Lưu ngập chìm trong máu lửạ Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn nàỵ Các linh mục Hậu và Đôn thuộc xứ Cẩm Trường và Song Ngọc bị đưa về giam tại Hà Nộị.Tính đến năm 1960, ở Bắc Việt chỉ có 300 linh mục, nhưng họ phải chăm sóc cho khoảng 750,000 giáo dân. Tính trung bình, mỗi linh mục phải trông coi 1200 giáo dân tại địa phận Vinh, 7000 tại địa phận Hải Phòng, 6000 tại Bùi Chu và 10000 tại Thanh Hoá.



* Giáo hội "thầm lặng" :

Tuy CS đã áp dụng nhiều biện pháp tinh vi để vô hiệu hóa các sinh hoạt của GHCG và làm tiêu hao dần giới tu sĩ và hang giáo phẩm, nhưng không thể xóa bỏ các tổ chức của giáo hội này dược, CS chỉ lập được "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" cho hoạt động song song mà thôi.

Tuy nhiên do chính sách làm tiêu hao GHCG, trong vòng 20 năm, CS đã làm sụt giảm số tu sĩ và giáo sĩ xuống thấp tới mức độ báo dộng : tổng số linh mục ở miền Bắc là 277 vị, gồm cả 30 LM được phong "chui", không bằng số LM của giáo phận Saigon gồm trên 300 vi.. Thí dụ : Tổng giáo phận Hà Nội có 300,000 giáo dân nhưng chỉ có 25 LM, Hải Phòng có 150,000 giáo dân chỉ có 16 LM trong đó có 7 vị trên 60 tuổi, Bắc Ninh có 100,000 giáo dân với 46 giáo xứ chỉ có 5 linh mục và 12 nữ tụ, Phát Diệm có 112,000 giáo dân chỉ có 22 LM, Bùi Chu có 300,000 giáo dân chỉ có 27 LM và 21 LM "chui" chưa được CS công nhận.

Nhà cầm quyền CS hy vọng rằng trong vòng 15 hay 20 năm nữa khi số giáo sĩ già nua đã qua đời, giáo dân lúc đó như rắn mất đầu, giáo hội này đương nhiên sẽ tan rã.

Thời kỳ căng thẳng nhất của GHCG miền Bắc là giai đoạn từ 1970-1975. Năm 1970, khi Quân đội VNCH mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyên CS miền Bắc sợ Quân đội VNCH có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đã một mặt ra lịnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh dạo, mặt khác họ đột nhiên khuyến khích và lại còn cung cấp phương tiện cho các giáo xứ tổ chức các nghi lễ tôn giáo linh đình.

Tóm lại, thái độ của GHCG miền Bắc cũng như giáo dân tronggiai đoạn này, ngoài cuộc tranh đấu mãnh liệt của đồng bào Quỳnh Lưu, là âm thầm chống đối bằng cách không hợp tác và âm thầm chịu đựng.


Thời kỳ chiếm được miền Nam

Sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30/4/1975, CS Hà Nội đem ngay chính sách tôn giáo đã từng thi hành tại miền Bắc từ 1954-1975 vào áp dụng cho miền Nam. Có thể chia thời kỳ này làm 2 giai doạn : 1975-1989 và 1989 cho tới nay.


* Giai đoạn 1975-1989 : 10 năm đầu (1975-1985) được CS gọi là giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN" và 4 năm sau (1985-1989), CS gọi là giai đoạn "tiến lên XHCN" hay giai đoạn "cải tạo".

a) Giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN". Trong giai đoạn này, CS chủ trương thanh toán ngay 3 thành phần sau đây : các phần tử đại điền chủ, tư sản mại bản và các tôn giáo; tịch thu tất cả tài sản của 3 thành phần này và trao cho "nhân dân làm chủ", "nhà nước quản lý" thực tế là biến thành cơ sở quốc doanh.

Đại cương kế hoạch đánh phá các tôn giáo được tóm lược như sau :

- Bắt bớ hoặc cô lập hóa các lãnh tụ tôn giáo và các tu sĩ có uy tín, khả năng, có ảnh hưởng lớn với tín đồ.
- Đóng cửa hoặc tịch thu các trụ sở, các cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, tài sản của các giáo hộị
- Lập các giáo hội quốc doanh hoặc các Ủy ban Yêu nước bên cạnh các tôn giáo và dành cho những giáo hội hay Ủy ban này nhiều đặc ân, đặc quyền, với mục đích kiểm soát, lũng đoạn các tôn giáo.
- Lập các mạng lưới công an chuyên theo dõi các hoạt động tôn giáo, gài người vào các tôn giáo để báo cáo các hoạt động của các giáo hội hoặc rỉ tai, gây phân hóa, nghi kỵ trong nội bô..


Phần 12/62


Đối với CG, CS tìm cách cô lập giáo hội này với bên ngoài và làm khó dễ những vị lãnh đạo cao cấp và có uy tín.

Trước hết, CS ra lịnh cho "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" mới được thành lập dứng ra tổ chức "Phong trào quần chúng" biểu tình đòi trục xuất Đức Khâm Mạng Tòa Thánh Henri Lemaitre và Đức ông Trân Ngọc Thụ (hiện là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng John Paul II), bí thư của ngàị Để làm việc này, CS đã giao quyền cho 2 linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, mà họ đã móc nối được trong thời gian 2 ông này được Giáo hội CGVN cho đi du học ở Pháp, tổ chức và dùng "Phong trào quần chúng" trên để yêu cầu trục xuất 2 vị trên. "Phong trào quần chúng" gồm 7 tổ chức sau đây : Thanh niên Công giáo Đại học, Công giáo Xây dựng Hòa bình, Thanh lao công, Liên đoàn Sinh viên Công giáo, Công giáo và Dân tộc, Nhóm Liên tu trẻ và Đoàn Sinh viên Dự tập Dòng Chúa Cứu Thế. Đa số các tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.

Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Đức TGM Henri Lemaitre trước đây đã yểm trợ cho chính sách "thực dân mới" của Hoa Kỳ và cho chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm sứ Tòa thánh đã can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ củ VN và tuyên bố "Giải thoát các GM miền Nam VN khỏi áp lực xâm lấn của Khâm sứ Tòa thánh là giúp giáo hội VN được trưởng thành". Ngày 2/5/75 họ biểu tình đòi Đức Khâm sứ phải ra đị Ngày 14/5/75, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm sứ đường Hai Bà Trưng trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Khâm sứ phải cút đị Họ đẩy Đức Khâm sứ, một linh mục phụ tá người Ba-lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp hình còn linh mục Thanh Lãng (lúc này chưa thức tĩnh) phát bản cáo trạng tố cáo 5 đời Khâm sứ Tòa thánh can dự vào vấn đề nội bộ của VN.

Trong thời gian từ 5/5/75 - 4/6/75, các nhóm trên đã tiếp xúc với Đức Khâm sứ để đe dọa và nói nếu không rời VN, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc".

Ngày 3/6/75, các nhóm này đến khuấy phá Tòa Khâm sứ một lần nữa, họ khuấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này, các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tơi định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng thì bị bộ đội xả súgn bắn thẳng vào, một người chết và nhiều ngươi bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.

Ngày 4/6/75, Bộ Ngoại giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã mời Đức Khâm sứ Henri Lemaitre tới yêu cầu ngài phải lánh khỏi VN trong một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm sứ đã phải rời VN.



* Trục xuất Đức TGM Nguyễn Văn Thuận :

Trước 30/4/75, theo đề nghị của Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, ngày 25/4/75, Vatican đã bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận, đang là GM Nha Trang, làm Tổng GM hiệu tòa Vadesitana, Phụ tá Tổng GM Saigon với năng quyền kế vị Tổng GM Saigon. Ngày 12/5/75, TGM Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số LM thân Cộng đã đến bao vây TGM Nguyễn Văn Bình và Phó TGM Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng viện Thánh Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Phó TGM Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim.

Trước đó, ngày 8/5/75, nhóm linh mục nói trên đã gởi TMG Bình một văn thư yêu cầu hoãn công bố việc bổ nhiệm TGM Thuận. Ký tên trong văn thư này có các linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghi..

Ngày 13/5/75, một toán "sinh viên CG" nằm trong tổ chức đòi trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre đã xâm nhập Tòa TGM Saigon, căng lên 3 biểu ngữ như sau :

"Nguyễn Văn Thuận, GM của ai ?"
"Vì quyền lợi của GHVN, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức"
"Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui"

Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm sai, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo GM Thuận là một GM chống Cộng, thuộc dòng dõi chống Cộng cực đoan, đã tổ chức Phong trào Công lý và Hòa Bình để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân xã, hậu thân của đảng Cần Laọ Họ lên án GM Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất... Theo họ, trong tinh thần hòa hợp hiện nay, khi "Mỹ-Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ nhiệm một GM chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho GH mà còn cho cả dân tộc VN". Họ đòi TGM Thuận phải từ chức để "tránh cho GH và dân tộc VN những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm".

Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7/6/75, TGM Bình đã gởi thông cáo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết :"Tôi đã hết sức ôn hòa và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn". Sau đó ông kêu gọi :"Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa thánh La Mã".

Ngày 8/6/75, TGM Bình cũng gởi cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTGPMN yêu cầu 3 điểm sau :

- Triệt để thi hành Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.
- Chấm dứt chiến dịch tuyên tryền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của GHCG VN.
- Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường đưọc, về đối nội cũng như đối ngoại, cho quốc gia dân tộc.

Nhưng câu chuyện cãi qua cãi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15/8/75, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy ban MTGPMN TPHCM tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các dòng tu nam nữ và giáo xứ để nghe họ trình bày về trường hợp TGM Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách mạng quyết định đưa TGM Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước 30/4/75 với lý do sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.

Ngày 15/8/75, CS bắt TGM Thuận nhưng không đưa về Nha Trang mà đưa ông ra Vĩnh Phú. Sau một thời gian bị giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Vatican, ông được đưa đi quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 km cho đến ngày 21/11/1988 thì được phóng thích, nhưng đặt trong tình trạng quản chế. Năm 1991, ông bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay ở La Mã. CS cương quyết không cho ông về kế vị TGM Bình hay làm TGM bất cứ nơi nào ở VN.

* Thanh toán những tu sĩ có uy tín hay có "nợ máu với nhân dân" :

Song song với việc trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre và TGM Nguyễn Văn Thuận, CS thanh toán các linh mục có khả năng chống đối chính phủ.

1) Linh mục Hoàng Quỳnh : Khi còn ở Phát Diệm, ông đã từng giữ chức Tổng tuyên úy Thanh niên, Cố vấn chỉ đạo Chiến khu Công giáo Phát Diệm, Phó chủ tịch Ban chấp hành Mặt trận Công giáo Cứu quốc và Tổng chỉ huy Tự vệ, nên thường được gọi là cha Tổng. Vaò Nam, ông coi giáo xứ Bình An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miên Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ tịch Khối Công dân Công giáo để đối phó với tình hình. Tính tình hòa nhã, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết. Ông đã giúp khối Công giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, CS không bao giờ để cho tự do khi họ chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đã bắt linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Hòa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lý trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Hòa rồi đem xác đi chôn lén.

2) Linh mục Trần Hữu Thanh : Ông sáng lập Phong trào Chống tham nhũng dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp miền Nam. Ông là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của GHCGVN. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sắc. Chính ông là người đã viết bộ "Cẩm nang của người CG d+ới chế đô CS", đem huấn luyện cho các cán bộ CG 2 năm trước ngày CS chiếm miền Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà CS áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để có thể tồn tại khi phải sống dưới chế độ CS. Công an bắt ông giam vào khám Chí Hòa sau khi chiếm được miền Nam; sau đó đưa ông ra quản chế tại miền Bắc.

3) Linh mục Đinh Bìn Định : Ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Q3, Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ tịch Phong trào Chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có ký tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu TGM Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Ông nói rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hành động gì chống Cách mạng và không hiểu tại sao CS đã giam giữ ông lâu như thế. Thực ra CS giam ông chỉ vì họ biết ông là người có tài tổ chức và có uy tín với giáo dân. CS đề phòng khi có những sự bất mãn vì các chính sách mới của họ và ông có thể sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ; do đó họ bắt ông trước để trừ hậu họạ Sau khi tình hình đã ổn định, họ đã thả ông ra.

Gần như giáo phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong tình trạng tương tợ như trên. Tính chung, đã có hơn 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong đó có 139 linh mục tuyên úỵ Khoảng 15 linh mục đã chết trong các trại tù. Riêng linh mục Trần Học Hiệu bị xử tử tại Biên Hòa.


* Năm tháng thăng trầm :

Như đã biết, ngay sau ngày 30/4/75, các linh mục tuyên úy bị ảnh hưởng đầu tiên trong chiến dịch tiêu diệt tôn giáo qua các trại tù mệnh danh là "học tập cải tạo". Vì thế, dù quản giáo cấm nghiêm nhặt các vụ đọc kinh, làm lễ, vẫn có những buổi lễ cầu nguyện âm thầm trong giờ ngủ, lúc lao động và ngay cả trong các nhà cầụ Vẫn có những buổi làm lễ giữa linh mục tuyên úy và người tù "con chiên" trong những khoảnh khắc của bóng tốị

Những kẻ hả hê về một cuộc chiến thắng bất ngờ càng nghênh ngang hơn nữạ Sau khi CS trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre vào 5/6/75, GM Sietz và các linh mục, tu sĩ ngoại quốc đều bị mời khéo "về thăm gia đình" kể từ ngày 12/8/75. Trước tình thế này, giáo hội âm thầm chuẩn bị nhân sự cho tương lai với các cuộc phong chức gấp rút 6 giám mục trong số này có GM Nguyễn Văn Thuận như đã kể trên.

Từ 15-20/12/75, 21 GM miền Nam hội họp có sự tham dự của cán bộ CS và đưa ra bản thông cáo chung, có đoạn : "Đồng bào sẽ thấy ta sát cánh với họ trên đường xây dựng quê hương... Người tín hữu phải coi như có bổn phận và vinh dự được đem niềm tin của mình vào việc làm chứng cho nước giàu, dân mạnh". Bản thông cáo này cho thấy rõ CS muốn chứng minh sự hậu thuẫn của CGVN. Nhưng chẳng bao lâu, ngày 13/2/76 vụ nhà thờ Vinh Sơn nổ ra làm chấn động giáo dân Saigon.

Vụ Mặt Trận Phục Quốc : vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn vì xảy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Q3, Saigon. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân đã thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sở phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. 2 linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân, còn linh mục Đỗ Quang Nghị bị án tử hình; ông bị bắn tại Thủ Đức ngày 15/3/78. Khoảng 200 linh mục bị bắt sau đó. Nỗi lo sợ bao trùm khắp nơi, nhiều linh mục đã chuẩn bị sách nguyện và quần áo để ra đi bất cứ lúc nào bị "gõ cửa".

CS tiếp tục khủng bố tinh thần giáo dân bằng những buổi học tập chính trị dành cho các linh mục, tu sĩ ở tất cả các địa phận, đặc biệt là ở miền Nam. Các vị thừa sai và tu sĩ ngoại quốc còn lại đều bị trục xuất vào tháng 6/76. Nhằm mục đích vừa tạo "tình thân" vừa răn đe sự "lệch lạc chính sách", trong 2 tháng 8-9/76, Phạm Văn Đồng gặp Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, Đức cha Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Kim Điền và TGM Nguyễn Văn Bình.

Vụ Việt Tiến : Vụ này xảy ra ở khu nhà thờ Fatima, Bình Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatimạ Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của CS. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, còn linh mục Võ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và được trả tự do vào năm 1992.

Ngày 20/9/77, VNCS được chấp nhận gia nhập LHQ. Gần 2 tháng sau, CS liền thách thức bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bằng Nghị quyết 297/CP, ngày 11/11/77, công khai chỉ định những giới hạn tự do tín ngưỡng, mở đầu cho những vụ đàn áp tôn giáọ Đây là một nghị quyết ấn định những biện pháp gắt gao nhằm kiềm chế và vô hiệu hóa các tôn giáọ Nghị quyết này chỉ cho phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự chính thức, hoạt động ngoài các cơ sở này bị coi là truyền giáo bất hợp pháp, những người hoạt động sẽ bị đưa đi cải tạo dài hạn. Các hội đoàn tôn giáo như Đạo binh Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh thể,...đều bị cấm hoạt đô.ng. Các tu viện không được nhận tuyển sinh mới vì không cho vào "hộ khẩu" của tu viện. Mọi việc phong chức, thuyên chuyển các giáo sĩ đều đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của CS.

Trong tháng 4/77, qua 2 bài phát biểu, TGM Nguyễn Kim Điền của địa phận Huế đã thẳng thắn tố cáo "Sau 2 năm, ngươi CG thấy tự do tôn giáo chỉ có trên văn bản (qua 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo), còn các hoạt động bị hạn chế, các khẩu lệnh đi ngược lạị Người CG làm gì cũng bị nghi ngờ, chèn ép". Ông còn dùng ngay cả câu nói mị dân của HCM để lật mặt CS :"...Không diệt được thì chỉ có cách là tôn trọng tự do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất. Còn tín ngưỡng thì ai chọn tôn giáo nào tùy sở thích, đừng đụng tớị Như vậy mới thoải mái và đoàn kết được... Có người nói Hồ chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng "lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không bồi dưỡng trí óc thì là một con người bán thân bất toại". Câu nói đó rất chí lý sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng thì cũng là con người bán thân bất toạị Nhưng không phải tự do họ muốn, mà là bị ép buộc bán thân bất toạị Như thế ích lợi gì cho tổ quốc".

Cho đến ngày 5/11/77, nhân dịp qua Vatican họp Thượng hội đồng, TGM Nguyễn văn Bình mới có thể nói lên ưu tư của GHCGVN về tương lai mà con người phải sống với chủ thuyết CS. Ông có nói đến một số cơ sở của giáo hội bị trưng dụng, nhất là các trường đạo, như các viện đại học Đà Lạt và Minh Đức, Giáo hoàng chủng viện, Dòng Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt, Nha Trang; hệ thống các trường mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc; các bịnh viện, cơ quan từ thiện... Một số cơ sở tịch thu được giao cho Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước sử dụng để hoạt động song song với tổ chức của giáo hội trong khắp nước. Ủy ban này được đặt dưới quyền điều khiển của Mặt Trận Tổ Quốc, một cơ quan dân vận của Đảng CSVN. Trong tình trạng đen tối đó, Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê qua đời ngày 7/11/78; gần một năm sau Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn được tấn phong chức vụ nàỵ

Vụ Mặt Trận Liên Tôn : Vụ này do linh mục Dòng Chúa Cứu thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của GHCGVN. Ông đã lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theọ Nhưng do phản gián của CS len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại Hàm Tân, Bình Tuy, năm 1989.

Tháng 9/79, Ban Tôn giáo của CSVN phổ biến một tài liệu mật cho các cán bộ đảng cao cấp ở địa hương có tiêu đề "Trách vụ của chúng ta đối với GHCG" dài 19 trang đánh máy và chia ra làm 8 mục. 2 mục đầu tiên xác định "bạn - thù" :

1. Bản tính và tình trạng CG tại VN bị coi là "bộ phận của Giáo Hội hoàn vũ, có đầu não ở Vatican, gồm một nhóm bóc lột có tầm hoạt động lớn, luôn luôn gắn liền với đế quốc phản động".

2. Trách vụ của đảng CS đối với GH ở VN nhằm "cải cách và biến đổi GH dần dần trở thành một tổ chức tôn giáo trọng chính sách và luật pháp, được thúc đẩy bởi lòng ái quốc, gần gũi nhà nước và XHCN. Sách lược là phân loại 4 nhóm để đối xử khác nhau : nhóm tiến bộ, nhóm chủ trương thích ứng, nhóm chưa dứt khoát lập trường và nhóm phản động".

5 mục còn lại là chính sách đối với từng bộ phận sinh hoạt của giáo hộị

Từ ngày 24/4 - 1/5/80, 33 GM toàn quốc họp lần đầu tiên và chính thức thành lập Hội đồng Giám mục VN (HDGMVN), đưa ra một bức thư chung khá dài nói về đường hướng mục vụ "đi trong lòng dân tộc". Thư nhắn nhủ với từng trách nhiệm của giáo dân, tu sĩ, linh mục... Từng câu từng chữ đều được viết rất thận trọng, nhưng ý nhấn mạnh đến việc đoàn kết người trong đạo, kêu gọi giáo dân dạy giáo lý ngay trong gia đình "nếu bên ngoài có thay đổi"... Từ tháng 5/80, CS cho phép nhiều GM sang Vatican để chứng tỏ "sự ưu đãi CG", nhưng chỉ 2 tháng sau, CS đem cha Nguyễn Văn Vàng và một số cha Dòng Tên bị bắt đem ra tòa về tội thành lập Mặt Trận Liên Tôn.

Vụ Đắc Lộ : Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Dòng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng), Q3, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà CS muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hộị Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in Ronéo, có tên là Đạo Nhập Thế, do linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người CG trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền.

Những người đi phổ biến tờ bà'o có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho 2 mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dõị Vì 2 người này đều là CG, một người xuất thân từ trường Taberd, nên được ông Hiển tin cậỵ Một thời gian sau, 2 người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo, thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức võ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ tìm mua võ khí và cung cấp chọ Có lần họ đem võ khí đến giao cho ông Hiển, nhưng ông không nhận. Trước mặt 2 tên này, ông Hiển chưa làm gì khác hơn là phê bình chế độ CS. Những lời phê bình này đều được 2 mật báo viên cung cấp đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ võ trang chống đối không xong, 2 tên nội tuyến này đã đem một số tài liệu hô hào chống Cộng để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ báo Đạo Nhập Thế.

Khi hay tin rằng các tài liệu chống Cộng đã được đem vào Trung Tâm Đắc Lộ để phát một lần với tờ báo, ngày 12/12/80, công an tràn vào lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nàọ Tuy vậy, công an vẫn bắt linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Dòng Tên tại đây, LM lê Thanh Quế, chủ biên tờ báo, và các LM trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quý. Ông Hiển và những người liên hệ đều bị bắt.

Khi đối chất với 2 tên mật báo tại công an, ông Hiển đã bác bỏ tất cả những lời tố cáo của 2 tên này và công an cũng không đưa dược bằng chứng cụ thể nào để buộc tộị Các LM bị bắt đã khai rằng họ không biết gì đến hành động của ông Hiển và 2 tên mật báo viên kiạ Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra tòa về 2 tội chính : âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế đô.. Trong phiên tòa ngày 29/6/82, các cuộc đối đáp qua lại khá gây cấn : ông Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất trình bằng chứng ông đã âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đã trả lời :"Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh". LM Lê Thanh Quế nói ông không biết gì về các việc ông Hiển và 2 nhân chứng đã làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền thì xin tòa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Tòa trả lời rằng, "Tội của bị cáo không phải là tội hình mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả thì chế độ đã bị lật đổ mất rồi".

LM Nguyễn Công Đoan đã bị truy tố về tội hỗ trợ cho LM Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông trình bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đã có trước 30/4/75, chỉ hướng dẫn về giáo lý, không đề cập đến chính tri.. Nếu bảo rằng chống đối chế độ, xin hãy cho bằng chứng.

Kết quả tòa của CS vẫn tuyên án ông Hiển khổ sai chung thân. LM Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, LM Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, LM Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và LM Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu và hiện nay được dùng làm cơ sở của tòa soạn báo Tuổi Trẻ.

Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được dối xử tàn tệ nhất tại miền Nam VN. Đến năm 1991 vì quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đã chết tại đây vào ngày 22/11/1992. Ông Hiển xuất thân từ Đại chủng viện Huế, đã dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đã bị CS lừa và chết trong tù. Lúc còn bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dã man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày xét xử.

Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đã viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.



Tới đây, ta tạm dừng lại việc theo dõi những diễn tiến theo năm tháng để tìm hiểu về ý nghĩa của những "quy chế tôn giáo" và việc "đoàn ngũ hoá giáo sĩ cũng như thiết lập giáo dân quốc doanh" để biết mưu độc của CS ra saọ

Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo

Như đã được trình bày ở trên, sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14/6/55, HCM đã cho ban hành Sắc lệnh số 234/SL về Tôn giáọ Tuy gọi là Sắc lệnh về Tôn giáo nhưng nội dung Sắc lệnh nhắm vào CG, vì lúc đó Phật giáo chưa tổ chức thành giáo hộị Các tăng sĩ PG đều bị tập trung vào Hội Phật giáo VN Thống nhất do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. GHCGVN không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc lệnh về Tôn giáọ Khi chưa quen với chế độ CS, các linh mục nhận thấy rằng Sắc lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đã công khai chống đối.



Điều 3 của Sắc lệnh dự liệu :

"Các nhà truyền giáo ngoại quốc dưới sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể dạy tôn giáo mình như những người truyền giáo VN và phải tôn trọng luật pháp nước VNDCCH như những người ngoại quốc khác".

Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vu.. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương trình nhà nước đưa rạ Các trường tư CG có thể dạy thêm giáo lý cho học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn :

"Chính quyền dân sự không can tiệp vào nội bộ tôn giáọ Những liên hệ giữa GHCGVN với Tòa Thánh La Mã là vấn đề nội bộ".

Đây chỉ là bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáọ Mặc dù quy luật đuy định như vậy, trong thực tế CS đã dần dần khống chế GHCG miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, HCM ban hành Sắc lệnh số 102/SL ngày 20/5/57 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế lập hội này.Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam thì CS cũng đã đưa Sắc lệnh ngày 14/6/55 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho các tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ CS cũng có tự do tôn giáọ Nhưng sự rêu rao này đã gây những hậu quả tai hạị TGM Nguyễn Văn Bình đã viện dẫn Sắc lệnh nói trên để chống lại việc CS phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận làm Phó TGM Saigon. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau, CS đã xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị quyết 297 ngày 11/11/1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, CS đã thay đổi cả một văn kiện pháp quy của chính họ là Sắc lệnh ngày 14/6/1955. Nội dung Nghị quyết 297 gồm

những điểm sau đây :

- Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lý, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi...phải có giấy phép của chính quyền.

- Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân, chấp hành chính sách và luật pháp của nhà nước. Không được tuyên truyền chống chế độ XHCN, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan.

- Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ý của chính quyền.

- Giáo hội TCG được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc giạ

- Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xã quản lý và hưởng mức lời từ 25-30% tổng số thu hoa.ch.

Đến năm 1991, CS lại ban hành Nghị định số 69-HDBT ngày 21/3/1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáọ Nội dung của Nghị định này không khác Nghị quyết 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng rãi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị định gồm các điểm chính sau đây :

- Chỉ dược phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương trình sinh hoạt phải đăng ký trước hàng năm.

- Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép, xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.

- Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.

- Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hê..

- Các dòng tu hay các hình thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.

- Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viên trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.

Nhà cầm quyền CS đã hành động bất chấp hệ cấp pháp lý: Dùng Nghị quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc lê.nh. Điều nay cho thấy khả năng về pháp lý của CS rất thấp và CS nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái gì mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lý do chính họ đặt ra..

Sau khi Nghị định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.



Thành lập cơ cấu CG quốc doanh để lũng đoạn CGVN

1) Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh :

Nhận thấy tổ chức "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà bình" không gây được ảnh hưởng gì đối với GHCG miền Bắc trong suốt 20 năm, CS Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn.

Công việc đầu tiên của CS Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh ma.nh. Nhận thấy một số đông LM và giáo dân "cấp tiến" đứng ra đòi trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre, CS rất phấn khởị Tại mỗi tỉnh, CS kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa CG và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị (tách rời Vatican). Nhà cầm quyền CS không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các GM giáo phận.

Một số giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai trò liên lạc giữa chính quyền và CG. Về sau, đa số các giao sĩ này đã nhận ra âm mưu thành lập GH tự tri.. và họ đã rút luị Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đã nhận ra bộ mặt thực của CS nên quay lại chống đối chế đô..

Tại miền Bắc, các LM sau đây đã tham gia "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà bình" : Vũ Xuân Kỷ (đã qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đã qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh. Tại miền Nam, số LM tham gia "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" lúc đầu khá đông như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ý, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đòi trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre và bãi chức GM Thuận, các LM sau đây cũng tham gia : Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lãng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Hoàng Kim, Đinh Bình Định, Nguyễ Quang Lãm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các LM này về sau không tham gia nhóm LM quốc doanh. 2 LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan còn quay lại chống CS nên bị quản chế một thời gian khá dàị LM Đinh Bình Định thì bị đi cải tạo 10 năm, còn LM Nguyễn Quang Lãm bị công an bám sát cho đến khi qua đời năm 1993. 2 LM Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đã xin từ bỏ chức LM và trở về lập gia đình.


Phần 13/62


Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đã tham gia tích cực vào các tổ chức Công giáo quốc doanh cả ngoài Bắc và trong Nam : Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Dông Ngân, Đỗ Văn(tức Đỗ Hữu Nghiêm), Nguyễn Đình Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh, Nguyễn Thành Cung và Lý Chánh Trung. Trong số này có 2 thành phần hoạt dộng tích cực hơn cả là Nguyễn Đình Đầu và Lý Chánh Trung.

o Nguyễn Đình Đầu : Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con của một nhân viên lao công quét trường. NĐ có 2 người em là Nguyễn Đình Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc còn nhỏ, NĐ được học Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Kẻ Sơ, Hà Nam, thuộc giáo phận Hà Nộị NĐ mới học tới Đệ Lục (sixième) thì xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú tàị Thời đó, Phong trào Thanh niên Lao Động CG (JOC) đang phát triển mạnh ở VN, Nguyễn Mạnh Hà làm Hội trưởng Phong trào toàn quốc, còn NĐ làm Hội trưởng Phong trào ở Hà Nộị

Ngày 19/8/45, VM cướp chính quyền. Ngày 23/8/45, HCM công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nộị Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ trưởng Kinh tế. NĐ được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám đốc Nha Lao động toàn quốc, dưới quyền của Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiếụ

Ngày 2/3/46, HCM lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quôc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữạ Lê Văn Hiến qua làm Bộ trưởng Tài chánh, Nguyên Văn Tạo, 1 đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ trưởng Lao đô.ng. NĐ tiếp tục làm Tổng Giám đốc Tổng nha Lao đô.ng. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm lại Bắc Việt, VM rút vào chiến khu, NĐ ở lại Hà Nộị Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, NĐ được Nguyễn Mạnh Hà bảo lãnh cho ở lại Pháp học xã hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú tàị NĐ không đậu bằng cấp gì.

Lúc ở Pháp, NĐ ở một căn phòng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những ng+ời theo CS hay không theo CS như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc, v.v... Nhóm học Đại học Louvain ở Bỉ như LM Nguyễn Quang Lãm, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung...cũng đến họp nơi đâỵ Các nhóm trên hoạt động riêng rẻ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là Nhóm Thống Nhất. Riêng nhóm của Đảng CSĐ có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.

Ngày 25/6/54, do sự vận động của ông Ngô Dình Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh số 38/QT ngày 25/6/54 ủy quyền cho ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sư.. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đình Đầu, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung (đã được con bảo lãnh sang Canada năm 1995), LM Nguyễn Quang Lãm...đi.nh về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đình Nhu gạt ra vì nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng NĐ, vốn không lấy được bằng cấp gì, đã thúc giục Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và LM Nguyễn Quang Lãm phải trở về và chờ cơ hộị Những người này đã trở về VN năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là "nhóm Sống Đạo" hay "nhóm Cấp Tiến". Tờ "Sống Đạo" có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối XHCN. 2 LM Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạọ Lý Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng NĐ vẫn nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báọ

NĐ về nước được một thời gian thì ông Đào Văn Tập qua đờị NĐ cặp bồ với bà Đào Văn Tập. để chiếm du.ngm nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau NĐ cưới em của cựu Thủ tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.

NĐ vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của CS đang hoạt động ở Pháp hay đã về nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo để hoạt đô.ng. Tờ Sống Đạo cũng như tờ "Công giáo và Dân tộc" sau này, đã cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vực cho Chủ nghĩa Cộng sản.

Nguyễn Đình Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc bị gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ CG và tuyên truyền ngụy hòạ Khi CG biểu tình lên án những vụ bạo loạn tại miền Trung do CS giựt dây, NĐ soạn sẳn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số LM và giáo dân ký vàọ Trong cuốn sách "30 tháng 4" do nxb TPHCM ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của VC cho biết NĐ là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay CS. NĐ có chân trong "nhóm Trí Việt", gồm một số đặc công CS nằm vùng, hoạt động dưới danh nghĩa "đòi thi hành hiệp dịnh Paris". Ngày 29/4/75, NĐ đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ trưởng Kinh tế) và Đinh Bá Thi vào trại David ở trong phi trường Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn VC cư ngụ ở đó để báo cáo tình hình và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Đinh Bá Thi dùng mật hiệu để được phái đoàn VC trong Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên mở cửa cho vàọ Sau này Đinh Bá Thi được cử làm Đại sứ VC tại LHQ đầu tiên, nhưng một thời gian sau đã bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về VN.


Sau khi VC chiếm được miền Nam, bên ngoài NĐ không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong NĐ đã đứng ra tổ chức và giựt dây các chiến dịch chống phá GHCG. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức TGM Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công...đều có bàn tay của NĐ thúc đẩy phía saụ Với âm mưu thâm độc, chính NĐ đã soạn thông cáo của Tòa TGM Saigon lên án vụ Dòng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu TGM Nguyễn Văn Bình ký tên vào, nhưng TGM Bình không chịu ký thì NĐ đã lấy con dấu của Tòa TGM đóng vào rồi gởi cho các báo VC yêu cầu công bố.


o Lý Chánh Trung : LCT sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo CG vào khoảng 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại học Louvain, một đại học CG, ở cách xa thủ đô Bruxelles khoảng 30km. LCT học rất giỏi, nhưng khi mới lấy xong Cử nhân Tâm lý học và Cử nhân Chính trị học, đã vội theo Nguyễn Đình Đầu về nước năm 1956 với ý định tham chánh, nhưng không được Ngô Đình Nhu dùng nên rất bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm và quay lại tán dương đường lối của CS. Khi ở Bỉ và Pháp, LCT cũng nằm trong Nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đình Đầụ

Tuy chưa có bằng Tiến sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lý thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạọ LCT có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ngòi bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài của LCT ca tụng HCM sau ngày 30/4/75, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó tìm được tại miền Nam một người viết "bài ca con cá" điêu luyện như thế.

LCT có người em là Lý Chánh Đức, làm Giám đốc Nha học liệu tại Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH, đã xin cho LCT làm Công cán Ủy viên của Bộ nàỵ Về sau, LCT được bổ làm Giám đốc Nha Trung học Công lập. LCT cũng được mời dạy triết học tại Viện Đại học Huế và Đà Lạt.

Tuy có trình độ kiến thức cao và vững vàng, tính tình hòa nhã, nhưng bước đường sự nghiệp của LCT rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu LCT đừng nghe Nguyễn Đình Đầu, lấy xong bằng Tiến sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. LM Cao Văn Luận là người đã nâng đỡ LCT rất nhiều, nhưng dưới 2 chế độ Cộng hòa Miền Nam, LCT chưa tìm được chỗ đứng thoải mái, luôn bận tâm về sinh kế nên thường tỏ ra hận đờị Sự bất mãn của LCT xuất hiện rất rõ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính châm chọc và chua cay của ông. Vốn là 1 giáo sư Triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, LCT đã nhìn vấn đề chính trị VN dưới lăng kính của một triết giạ Trong bài "Trên đường cùng đi" trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4/6/72, ông viết :

"Đối với tôi, vấn đề rất giản dị : dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có 2 phe cùng là người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận tình về mọi mặt.

"Tôi là người đứng "bên này" và từ lâu tôi đã nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho "bên này" một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín để gặp gỡ và làm hòa thật sự với "bên kia"."


Nghĩ sao làm vậy, khi CS chiếm được Saigon là ông đi theo CS, viết bài tán dương HCM và đảng CSVN. Ông được chọn làm Đại biểu Quốc hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theọ Khi vụ Vinh Sơn xảy ra, ông có viết một bài phê bình đăng trên báo "Công giáo và Dân tộc" số 55 ngày 18/7/76, lên án những người tham gia như sau :


"Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con người, xin đừng gọi là người VN mà tội cho dân tộc VN. Cũng xin đừng gọi là CG mà tội cho GHCG".


Gặp lại LCT vào thập niên 1980, người ta có thể thấy nơi ông hình ảnh của một người đã thấm đòn và chán nản. 2 vợ chồng ông làm lụng vất vã vẫn không đủ ăn, mặc dù trên ngực có gắn cái nhãn hiệu "đại biểu Quốc hội". Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng "những người không đáng là người, không đáng là người VN" chính là những người CS chứ không phải là những người tham dự vào vụ Vinh Sơn. Những người mà ông mơ ước "làm hòa" đã cùng ông biến VN thành một quốc gia nghèo đói, không dân chủ, không tự do, không nhân quyền, và đã vùi lấp cuộc đời còn lại của một triết gia như ông.

Về phía giáo sĩ có 2 linh mục miền Nam được CS tín nhiệm, đó là LM Huỳnh Công Minh và LM Trương Bá Cần. 2 LM này đã được LM Nguyễn Đình Thi, một cán bộ VC nằm vùng ở Pháp, móc nối khi còn du học ở Pháp.


o LM Huỳnh Công Minh : Huỳnh Công Minh là một đảng viên nồng cốt của Đảng CSVN trong công tác Công giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa VI năm 1976, ông được chọn làm đại biểụ Trong phiên họp ngày 7/7/77, sau khi Lê Duẩn đọc Báo Cáo Chính Trị, ông đã lên đọc một bài tham luận đúng sách vở của đảng :

"Báo cáo chính trị làm hho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xã hội mới mà Quốc hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có gì mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, trái lại còn rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsụ
"Báo cáo chính trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chú Kitô Giêsu mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.
"Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu CNXH, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay saị" (Thông tấn xã VN, 7/7/77)


Cũng giống như TT Thích Minh Châu, LM Huỳnh Công Minh là một người được huấn luyện về nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hoà nhã và khiêm tốn, không bao giờ bênh vực công khai chế độ CS khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ gì quan trọng trong tổ chức CG quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức nàỵ Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của GHCGVN đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị nhà cầm quyền CS thì mới chấp nhận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.


o LM Trương Bá Cần : là Tiến sĩ Sử học ở Pháp. Ông điều hành tờ tuần báo Công giáo và Dân tộc, dùng tờ báo này để bênh vực XHCN và vận động người CG thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo Công giáo và Dân tộc Xuân 1982, ông viết :

"Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩ xã hộị Do đó, chấp nhận CNXH, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người CS.

"Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn CNXH là tốt nhất. Riêng tôi, hằng ngày tôi sống trong sự hợp tác giữa người CS và người CG. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa gì ? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhaụ Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tạị Nhưng tôi lập lại sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái mà người ta thừa nhận là có giá tri.. Tôi thấy rằng những người CS kính trọng chúng tôị Về phía chúng tôi, chúng tôi đã học được rất nhiềụ Chúng tôi đã học biết những giá trị thật của CNXH. Đó là một lý tưởng cụ thể, phục vụ người khác".

Vào khoảng 1989, suy nghĩ của ông hơi thay đổi nhưng chưa ai chắc điều đó có phải thật hay giả. CS đã nhờ ông viết lại lịch sử GHCGVN để biện minh cho chế dô.. Có lần CS nhờ LM Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi LM Huồn hỏi tại sao không nhờ LM Trương Bá Cần thì CS trả lời, "Linh mục viết người ta mới tin. Trương Bá Cần viết người ta không tin !".

Nhìn chung, ngoài 2 LM Minh và Cần ra, các LM quốc doanh khác không đóng vai trò gì quan tro.ng. Các LM Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích,...chỉ là loại chạy cờ, có việc gì CS sai thì làm.

Đa số các linh mục và trí thức CG thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nhìn các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng Tâm và Lý để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng Trí để phán đoán và chọn con đường thich hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng, đã có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trở lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ võ. Bằng bài báo "Dấm chua mật đắng" trong cuốn "3 năm xáo trộn", nhóm Sống Đạo đã khuyến cáo các tổ chức của người CG đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do CS giựt dâỵ Nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ CSVN, họ không hề đưa thêm má bên kia cho CS đánh mà trái lại đã mạt sát chế độ CS bằng những lời lẽ chua cay hơn những người thường. Sau đây là một mẫu chuyện ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan, được NNgL ghi lại trong cuốn "Nhật Ký 1990-1991" :


"Ông có di thăm linh mục Chân Tín không ?
- Làm sao tôi đi được ?
- Như ông viết qua báo chí đó : Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như di.ch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.
- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi ?
- 71.
- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậỵ"

Trước đây, 2 linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ CS một thời gian, họ nhận ra CNXH không tốt đẹp như họ tưởng, họ đã quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ là thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xã hội và tôn giáo một đôi khi rất tai hạị Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây phương thường đem ra chế giễu :

Triết gia hỏi ông lái đò :

- Ông có biết làm toán hông ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông đã mất một phần tư cuộc đời rồi !

Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai :

- Ông co biết viết không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất nửa cuộc dời rồi !

Thuyền đến giữa sông, triết gia hỏi câu thứ ba :

- Ông có biết đọc không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi !

Khi triết gia vừa dứt lời thì sóng gió lớn nổi lên; ông lái đò liền quay lại hỏi triết gia :

- Ông có biết bơi không ?
- Tôi không biết.

Ông lái đò lắc đầu :

- Thế thì ông mất cả cuộc đời rồi !



Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26/10/1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã nói :"Người cấp tiến là người hai chân đã được trồng chặt vào khoảng không".


Khi các triết gia nói trên nhận được sự thật thì đã quá muộn, phương cách để cứu vãn không tìm thấy dễ dàng ở trước mắt. Nhưng dù sao họ cũng còn có thể quyết định quay trở lạị Những thành phần gia nhập Đảng CS như các linh mục Nguyễn Đình Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh thì không còn đường trở lại nữa : hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha thành phần phản Đảng.

Mặt Trận Tổ Quốc luôn tìm cách đề cao vai trò của các linh mục quốc doanh, nhất là vai trò của linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các hình thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10/7/89, Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm Saigon, báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ tịch UBNDTP đã tiếp Đức Hồng Ỵ Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có "TGM Nguyễn Văn Bình và GM giáo phận Saigon Huỳnh Công Minh". Bản tin trên đã làm mọi giới CG bất bình.

Nhiều người đã gọi điện thoại phản đối báo SGGP và yêu cầu TGM Bình đính chính. Báo SGGP ngày 13/7/89 đăng một cột nhỏ cải chính nói "Linh mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh tòa Saigon chứ không phải GM giáo phận Saigon như đã loan tin". Qua bản tin cố ý đăng sai đó, mọi người đều thấy rõ ý định của CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh làm GM giáo phận Saigon.

Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói gì cũng không ai nghẹ Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh còn lo sợ các biện pháp kỷ luật của Tòa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N4708/92/RS ngày 20/5/92 gởi cho GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Angelo Sodano đã yêu cầu Hội Đồng GMVN lưu ý các giáo sĩ về "Tuyên ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà các giáo sĩ không được tham gia" công bố ngày 8/3/82 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức CG quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rõ :"Ai hành động trái với lịnh cấm hợp pháp của thẩm quyền GH có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phải tuân giữ theo luật".


o Thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam Tự trị không được, quay lại thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" :

Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới gọi là "giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân". Trong giai đoạn này, CS cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các nhà tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các nhà tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ CS. Đây là một hình thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để xây dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, CS cũng tiến thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ "quốc doanh" được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là "state-run", tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đã dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.

CS muốn tiến tới "quốc daonh hóa" CG trước cả PG. Đầu năm 1980, Ban Tôn giáo chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hòa bình", từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị CG mở rộng vào ngày 5/1/80. Hội nghị này dã đi đến quyết định thành lập "Ủy ban Vận động Công giáo" nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo hội Công giáo VN tự trị tách rời khỏi Vatican. Xong CG rồi, ngày 12/2/80, CS mới cho lập "Ủy ban Vận động Thống nhất Phật giáo". Nhưng về phía CG, CS đã gặp rất nhièu khó khăn vì không kêu gọi được một GM nào tham gia vào Ủy ban, còn hầu hết giáo sĩ và giáo dân thì tỏ ra e dè.

Tháng 11/81, CS đã hình thành được một Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Hòa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống và HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá đạo GHPGVNTN hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phiá CG, CS đã hoàn toàn thất bạị


Trong một bản phân tích tình hình các tôn giáo tại miền Nam năm 1981, Tổng cục An ninh của CS đã nhận định rằng 2 tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo chỉ là 2 giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía PG, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có gì khó khăn, vì PG không có tổ chức chặt chẽ và trong những năm "kháng chiến" Đảng đã gài được nhiều cán bộ nồng cốt vào bên trong để hoạt dô.ng. Những thành phần chống đối đã bị loại bỏ hoặc cô lâp. Vậy có thể tiến tới thống nhât ngay mà không gặp trở ngại nàọ Riêng về phía CG, bản nhận định cho biết GHCG là một GH được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lãnh đạo và cán bộ có kiến thức, giáo dân đều đã được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng giáo phận Saigon có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rõ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. CG có Hội đồng Giám mục là một cơ quan lãnh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phốị CG lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước CG Tây phương nên nếu hành động không khôn khéo thì có thể gây hậu quả bất lợị Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần giáo hội này như đã áp dụng tại miền Bắc từ 1954-1975 : Tìm cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi tình hình ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những chức sắc đã qua đời, cô lập và phân tán các dòng tu, v.v...

Mặt Trận Tổ Quốc đã nhiều lần mở cuộc thăm dò để thành lập một Giáo Hội Công Giáo VN tự trị, nhưng đã bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ý kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội đồng Giám mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của CS. Cuối cùng, CS đã quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức CG quốc doanh trong khi nghiên cứu lại làm sao để đ^'i phó với CG để thành lập một GHCGVN tự trị, tức là nằm dưới sự điều khiển của CS.

Ban Tôn giáo Chính phủ đã giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh của miền bắc đứng ra thành lập một tổ chức CG quốc doanh thống nhất. và một dại hội đã được triệu tập tại Hà Nội từ 7-10/11/83. Biết linh mục Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tạp một hội nghị như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đã đứng ra hành đô.ng. Mặt Trận tại mỗi địa phương đã chỉ định các thành phần tham dự đại hộị Trong dại hội người ta thấy có 299 "đại biểu" thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, 11 tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh tấn Phát, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lãnh đạo đại hộị Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn giáo CS cũng có mặt để theo dõi từng diễn biến của đại hộị Trong đại hội, đại diện chính quyền CS cũng như một số đại biểu cò mồi đã nhấn mạnh khá nhiều về "vấn đề CGVN" với gợi ý nên tiến tới việc tuyên bố tách rời GHCGVN ra khỏi Vatican vì GHVN đã trưởng thành. Chuyện này đợc bàn tán nhiều sau Đại hội nên tờ Công giáo và Dân tộc phải lên tiếng xác nhận "không có vấn đề tự trị".

Đại Hội đã quyết định thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ ti.ch. Đại hội cũng chấp thuận một bản Điều lệ và một bản Nghị quyết do Ban Tôn Giáo CS soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều lệ ghi rõ :

"Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước VN là một tổ chức thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc VN, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của nước CHXHCNVN và Cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc VN".


Điều 3 của bản Nghị quyết đã nói về vai trò của phong trào CG Yêu nước như sau :

"Đại hội cũng nhận định : vượt qua những gian lao thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN và Chủ tịch HCM vĩ đại, với sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc VN, phong trào CG Yêu nước đang lớn ma.nh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc VN, là đòi hỏi thiêng liêng của tình thương Kitô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân VN. Trong thời đại ngày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho hòa bình và công lý trên thế giới".

Linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ tịch được 6 tháng thì mất. GM Bùi Chu Tạo cho biết những tháng cuối cùng của cuộc đời, linh mục Vịnh thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng CSVN, và rồi việc tới phải tới, những ngày trước khi qua đời linh mục Vịnh đã xin chịu các phép bí tích. Một nhân vật khác là linh mục Hồ Thành Biên đã thay thế linh mục Vi.nh.

Tại Saigon, "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam" đã được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương, Q3, để làm văn phòng thường trực và sinh hoạt. Cũng giống như nhóm người đào tạo ra nó, Ủy ban chiếm phòng hội của Trung tâm CGVN ở đường Trần Quốc Toản làm nơi hội họp. Ủy ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy ban có một tờ tuần báo là tờ "Công giáo và Dân tộc" do linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong 1 bài phhỏng vấn dành cho báo Eglises d'Asie, GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, đã trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và tờ "Công giáo và Dân tộc" như sau :

"Ủy ban thủ một tờ báo CG duy nhất tại miền Nam VN. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đã được coi như là những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong tờ báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích GH. Họ không có ý kiến đứng đắn về GHVN...

"2 trong những người đại diện (của Ủy ban) đã gởi cho tôi một lá thư trong đó họ than phiền họ đã bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền CG coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đã trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đã mất sự tin tưởng của người CG". (Nguyễn Ngọc Lan, "Nhật ký 1990-1991, Tin, Paris, 1993, tr. 236-237).

Tuy được sự trợ giúp của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy ban trên không hoạt động gì được, vì giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội đồng Giám mục VN chớ không cần biết Ủy ban nàỵ

Với chỉ thị của Tòa Thánh Vatican cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai trò của Ủy ban cũng sắp cáo chung, vì các giáo dân tham gia ủy ban không có ai có uy tín hay khả năng điều hành nó.



o Tiếp tục đánh phá Công giáo :

Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà CS gọi là "Tiến lên Xã hội chủ nghĩa", CS quyết định đưa các ngành tư doanh còn lại vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Q3, nơi còn nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đã được chọn làm thí diểm. Song song với biện pháp kinh tế, CS cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế CG.

Khoảng 200 công an đã được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Hòa, Đồng Nai và Saigon là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đã được chọn làm thí điểm vì nơi đây còn một số đông các cơ sở dòng tu và các giáo xứ miền Bắc di cự Trong năm 1986, một số dòng tu ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công...đã được lệnh phân chia ra nhiều "hộ" nhỏ, mỗi hộ không quá 10 ngườị CS sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các "hộ" này tiếp tục đời sống tu trì. Các cơ sở của các dòng còn lại sẽ được đặt dươi quyền quản lý của nhà nước. Vụ đánh phá Dòng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các dòng tu để diệt dần.

Năm 1986, CS lại triệu tập một Đại hội Toàn quốc "Những người Công giáo Việt Nam Xây dựng và Bảo vệ Hòa bình" lần thứ 2 tại Hà Nội để hình thàhn một GH Thiên Chúa Giáo VN tự trị, tách rời khỏi Tòa thánh Vatican như năm 1983, nhưng vẫn thất bại, vì các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như trước : Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám mục, họ không có thẩm quyền.

Sự phản ứng của CS Hà Nội về việc Tòa Thánh Vatican quyết định phong thánh cho 117 vị chân phước tử đạo tại VN ngày 19/6/1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đã viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đình Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội đồng Giám mục VN bị đả kích nặng nề vì đã ký đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đã được triệu tập, nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng Hà Nội đành bó taỵ

Nhưng không may cho Đảng CSVN là cuộc đổi tiền vào tháng 9/1985 đã đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, kinh tế suy sụp hoàn toàn, bắt buộc Đảng CS phải đổi mới để sống còn. Sự khống chế CG cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng CG là nguồn ngoại tệ đáng kể vì có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức CG quốc tế. Tuy nhiên sự nới rộng này chỉ có ảnh hưởng đến một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số linh mục, đồng ý cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đã bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số sách Thánh Kinh... Đặc biệt, người CG không còn bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữạ Một vài lãnh vực đại học và cơ quan công quyền đã thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng GM trở lên. Ngày 25/8/1993, nhà cầm quyền CS đã bác bỏ quyết định của Vatican cử GM Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Tòa GM Saigon và cũng không cho TGM Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức TGM Saigon khi TGM Nguyễn Văn Bình từ nhiệm vì lý do già yếụ Trước đây, khi TGM Nguyễn Kim Điền, TGM Giáo phận Huế qua đời ngày 8/6/88, Hà Nội cũng không cho Vatican cử người thay thế. Đó là những âm mưu của CS làm tê liệt guồng máy lãnh đạo của GHCGVN. Nhưng GH này vẫn tiếp tục hoạt động bình thường là nhờ có Hội đồng GM, do đó âm mưu của CS không ảnh hưởng nhiềụ Ngày 15/4/1991, Hội đồng GMVN đã gởi đến Tổng Bí Thư Đảng CSVN một Bản Góp Ý đề cập đến 2 vấn đề quan trọng sau :

- Vấn đề xây dựng đất nước : Phải lấy phương châm "phục vụ con người toàn diện" làm mục tiêu hàng đầu, phải có dân chủ thật sự và đặt tổ quốc lên trên hết. Tránh đồng hóa tổ quốc với Xã hội Chủ nghĩa, vì XHCN cũng chỉ vì tổ quốc và nhân dân.

- Vấn đề tôn giáo : Hiến pháp có công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng việc thi hành quyết định này gặp nhiều khó khăn phiền hà. Phải coi quyền tự do tôn giáo là một thứ quyền lợi chứ không phải là một đặc ân. Các quy chế về tôn giáo, trước khi ban hành phải đem lấy ý kiến của toàn dân, nhất là tín đồ các tôn giáo chứ không nên áp đặt. Tạo điều kiện cho tôn giáo thực hành lý tưởng nhân ái, chia xẻ hoàn cảnh của những người gnhèo túng, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đừng lo sợ tôn giáo đề cao cá nhân hay tập thể.

Bản góp ý này đã được các giới trong và ngoaì nước đánh giá như là một tiếng nói thẳng thắn và xây dựng thiết thực, và đã làm cho CS lúng túng.


*


Bây giờ ta quay lại câu chuyện giữa CGVN và CSVN từ 1981. Dù đang ve vãn Vatican để mở rộng bang giao và vay mượn tín dụng của Tây phương, nhưng sở dĩ CS không bao giờ từ bỏ chính sách khống chế GHCGVN là vì họ tin rằng đây là một tổ chức có thể gây nguy hiểm cho chế độ của ho..

Nhắc lại sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đã viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.

Cũng vào năm 1981, CS bắt đầu cho in nhiều sách, truyện bôi nhọ, chống báng CG, như cuốn "Tây dương Gia Tô bí lục", hoặc các cuốn tiểu thuyết như "Ruồi trâu", "Đất mặn", "Cánh cửa bên ngoài",... Hà Nội ra lịnh đóng cửa Trung tâm Đắc Lộ của các cha Dòng Tên; ngược lại, họ cho mở cửa Đại chủng viện Saigon ngày 15/3/81, để giữ "mặt nổi" tự do tín ngưỡng. Nhưng Đại hội La Vang này 15/8/81, do TGM Nguyễn Kim Điền và GM Thể chủ tọa với 40 linh mục và 10,000 giáo dân tham dự đã là sự thách thức chế đô.. Sau đó, TGM Điền bị kêu đi "làm việc" 4 ngày và gặp nhiều rắc rối khác. Ông bị cấm không được sang Vatican tham dự cuộc họp của Bộ Truyền giáo.

Phản ứng lại hành động ngăn trở mục vụ, hội nghị của Hội đồng Giám mục VN ngày 7/8/82 đã bàn về vấn đề mở cửa các chủng viện. Nhưng sau khi gặp Hoàng Quốc Việt và ban lãnh đạo Mặt Trận Tổ Quốc VN (MTTQVN) họ mới biết là CS chỉ cho phép mở các đại chủng viện ở các thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Saigon và Cần Thơ mà thôi.

Năm 1983, nhằm mục đích xóa dần vai trò của GH chính thống, CS cho thành lập "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" (UBCGDKYN) gồm có một số tu sĩ quốc doanh như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ...dưới sự chỉ đạo chặc chẽ của Ban Tôn Giáo nhà nước và MTTQVN. Nhưng Ủy ban này gặp sự chống đối mạnh mẽ của đa số GM, linh mục, giáo dân cả nước. CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh lên chức đại diện giáo phận Saigon để thao túng, mua chuộc các tu sĩ vào trong Ủy ban, rồi sẽ giải tán cái bình phong này, biến những người của Ủy ban trở thành cấp lãnh dạo của GHCG và sẽ tìm cách tách rời sự lãnh đạo của Vatican trong vị thế "tự trị". Nhiều GM công khai phản đối vài trò của Ủy ban này liền bị CS kêu đi "làm việc" và Tòa GM bị công an canh chừng cẩn mật.

Dù vẫn cho một số GM có chức quyền xuất ngoại sinh hoạt mục vụ, hoặc chấp thuận Tòa thánh cho phong chức GM một vài người, nhưng CS vẫn tiếp tục chiến dịch khủng bố tinh thần. Ngày 9/8/83, toà án CS tại Saigon đã đem ra xử vụ án Dòng Tên và kết án 12 linh mục và tu sĩ về tội "âm mưu lật đổ chính phủ" vì đã phổ biến tờ báo "chui" Nhập Thế.

UBDKCGYN mở đại hội tại Hà Nội, từ 8-11/11/83, gồm có 142 linh mục và 11 tu sĩ tham dự, nhưng bị TGM Huế Nguyễn Kim Điền và một số GM phản đốị Các vị này sau đó lại phải đi "làm việc". GM Nguyễn Như Thể từ chức TGM phó giáo phận Huế để phản đốị TGM Điền đã vạch rõ bản chất của Ủy ban này qua những thư gởi cho các linh mục Vịnh và Trinh của nhóm quốc doanh, nêu ra 3 điểm chính :

- Chính sách Mác-Lê dùng Ủy ban để phá hoại GHCG với sự xác minh rằng "Nhà nước XHCN đoàn kết các tôn giáo trên cơ sở ích lợi chung, trong một mặt trận thống nhất cùng toàn dân đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội; đồng thời xây dựng GH độc lập, thoát ra khỏi sự lệ thuộc GH nước ngoài" ("Chủ nghĩa khoa học xã hội", 1978, tr. 188).

- Trên thực tế Ủy ban đã có ý định tách rời khỏi GH toàn cầu, trực tiếp viết thư mời các linh mục mà không qua GM; nhà nước CS làm áp lực trên các GM...

- Trên thực tế, nhà nước CSVN xem Ủy ban này là GH chính thức.


Để ngăn chặn làn sóng chống đối của GHCG, ngày 23/2/84, CS ra lịnh bắt giam 27 nữ tu dòng Chúa Quan Phòng, cùng với linh mục Mao và Cổ Tấn Hưng. Ngay sau đó, TGM Điền và GM Phạm Ngọc Chi đã bị kêu lên "làm việc" suốt 2 tháng 3 và 4/1984. HDGMVN đã triệu tập phiên họp từ 16-23/5/84 bàn về 2 vấn đề sôi nổi nhất là vụ TGM Điền và UBDKCGYN. Hội đồng không có quyền nên không thể can thiệp mạnh mẽ cho TGM Điền, nhưng cho biết sẽ có phản ứng mạnh với UBDKCGYN nếu Ủy ban này can thiêp vào nội bộ của GHCGVN. Không được đi tham dự phiên họp này gồm có các vị Nguyễn Kim Điền, Lê Hữu Cung, Phạm Văn Dụ, Phạm Ngọc Chi và Nguyễn Như Thể.

Với chiến thuật "vừa xoa vừa đánh", CS lại cho phép GH in sách nguyện cho linh mục và sách lễ giáo dân và đồng ý dể mỗi miền chỉ được mở 2 chủng viện.


* Giai đoạn "Tiến lên XHCN" :

Như ta đã biết, năm 1985, Hà Nội tuyên bố giai đoạn thực hiện chế độ "Dân chủ nhân dân" tại miền Nam VN coi như đã hoàn tất và bắt đầu đi tới giai đoạn "Tiến lên XHCN". Muốn vậy, phải thực hiện một chương trình được gọi là "Cải tạo XHCN". Trong chương trình này, tôn giáo cũng được coi là đối tượng hàng đầu phải được "cải tạo". Tháng 9/85, Hà Nội ra lịnh kiểm kê tất cả các cơ sở sản xuất và kinh doanh của tư nhân còn lại để đưa vào hợp tác xã, đồng thời ra lịnh đổi tiền để vô hiệu hóa các nguồn vốn của tư nhân còn lạị Về phương diện kinh tế, UBNDTP Saigon đã quyết định chọn Q3 làm thí điểm, vì nơi đây có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ loại nhỏ của tư nhân.

Về phương diện tôn giáo, thì CS đã đem 200 công an học về công tác "tôn giáo vụ" ở Tiệp Khắc ra phân phối khắp nơi để phụ trách công tác xóa bỏ và vô hiệu hóa dần các cơ sở tôn giáọ Các chùa chiền, dòng tu và cơ sở tôn giáo bị kiểm tra thường xuyên. Nhiều tu viện và cơ sở tôn giáo đã được lịnh chuẩn bị để được phân tán mỏng ra từng hộ 5-10 người, không cho tập trung nữạ Nhiều tu sĩ đã được Mặt Trận Tổ Quốc khuyến cáo trở về với gia đình hay lập gia đình.

Cũng vào năm 1985 nhằm vào dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm VN, ngày 14/1/85, Đức Giáo Hoàng đã gởi chúc thư chúc Tết các GMVN và nhắc nhở qua Roma để tham dự lễ "viếng mộ Thánh Phêrô", nhưng thư bị CS tịch thụ Ngày 6/3/85, lá thư này được công bố trên đài phát thanh Vatican. HDGMVN dự định họp từ ngày 4/5/85, nhưng CS bắt dời lại ngày 20/5/85. Sau đó nhiều GM không được đi sang Roma, chỉ có Hồng Y Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Văn Bình và GM Huỳnh Đông Các được phép đi từ ngày 7-24/11/85.

CS tìm cách cô lập và làm khó dễ GM Phạm Ngọc Chi, TGM Nguyễn Kim Điền, nhất là sau vụ CS gọi là "vụ gián diệp" Trương Thị Lý, Bề trên Tu hội Dòng Mến Thánh Giá Huế, bị bắt vào tháng 7/85 chỉ vì mang văn thư của TGM Điền vào Saigon (cái chết đột ngột vào 8/6/88 của TGM Điền, một người mạnh mẽ lên tiếng chống đối chính sách đàn áp tôn giáo của CS hiện vẫn còn là một nghi vấn). CS cô lập TGM Điền lấy cớ là để tránh bị "mạo danh" nói những điều bất lợị Ông liền viết thư mục vụ ngày 19/10/85 nhắn nhủ mọi người trong tương lai "đừng tin" những gì cho rằng ông có nóị Để làm giảm bớt không khí căng thẳng này, UBNDTPHCM chính thức cấp giấy phép cho mở Đại chủng viện Saigon. Trước đó họ cho mở Đại chủng viện tại Hà Nộị

Ngày 24/11/85, Đức Giáo Hoàng gởi một sứ điệp đến hàng giáo phẩm VN khen ngợi đức tính cần cù và lòng can đảm, và nhắn nhủ "những đau khổ giống như hạt lúa mì rơi xuống đất chết đi sẽ sinh nhiều bông hạt khác". Trong dịp dâng thánh lễ cho VN ngày 13/12/85, DGH gởi một thư chung cho các GMVN, kể tên từng vị và nhắn nhủ tận tâm loan truyền sứ điệp tin cậy mến, trong đó có đoạn ông viết :"Tôi khuyến khích các linh mục, cho dù có gặp trở ngại, hãy tiếp tục con đường dẫn đến một xã hội được tình thương biến cảị Vì sức mạnh của việc rao giảng tin mừng sẽ trở nên yếu ớt nếu những người rao giảng tin mừng chia rẽ nhau".

Sứ điệp này càng làm cho sinh hoạt CG căng thẳng hơn. Suốt năm 1986, TGM Điền bị cán bộ Đảng kêu đi "làm việc" nhiều lần và ông phải vào nhà thương điều tri.. Ông tuyên bố đang "ở trong tình trạng bách hại" và cương quyết giữ "5 không" : không nói, không viết, không ký; và nếu CS bắt giam thì sẽ "không ăn, không uống".



Phần 14/62


Năm 1987 có 2 biến cố quan trọng : vụ án dòng Đồng Công và việc phong 117 Thánh tử đạo Việt Nam.

Sáng ngày 15/5/87, có khoảng 40 công an huyện Thủ Đức bất ngờ đột nhập vào khu vực dòng Đồng Công tọa lạc trên ngon đồi Thủ Đức với lý do cần kiểm tra hộ khẩu; đúng vào lúc dòng này đang tổ chức một khóa học "Gia đình Đồng Công" quy tụ 62 giáo dân nam nư từ khắp nơi đến tham dư.. Khóa học này vẫn được phép tổ chức hàng năm, nhưng công an lập biên bản tại chỗ, bắt từng người làm bản tự khai rồi yêu cầu họ giải tán. Nhưng đây chỉ là màn đầu đến dọ thám địa hình của công an để chuẩn bị đàn áp. Sáng hôm sau, 16/5/87, linh mục Trần Đình Thủ, cha Bề Trên Cả,cũng là người sáng lập dòng Đồng Công, và thầy Trần Trung Thần, đã bị gọi lên công an huyện Thủ Đức để "làm việc", bắt viết những bản tự khai về tất cả sinh hoạt của Dòng. Đến trưa, hơn 40 công an võ trang đầy đủ đã đưa linh mục Thủ trở về và vây kín khu nhà Dòng. Công an CS đọc lệnh kiểm tra toàn bộ tu viện, đặc biệt là khám xét rất kỹ căn phòng làm việc của linh mục Thủ, trước sự soi mói của 2 cán bộ Phòng An ninh Nội tuyến (P16) là Trần Thanh Tá và Nguyễn Văn Đảng.

3 giờ chiều cùng ngày, công an đòi khám xét khu Kitô Vương, cũng thuộc nhà dòng nhưng cách 400m, nơi dùng để canh tác hoa màụ Công an ngang nhiên bắt giữ 5 thầy và tịch thu hết đồ đạc. Phi lý hơn, công an dùng xe vận tải chở hết gạo và một số đồ đạc của nhà dòng mà không hề lập biên bản tịch thụ Đến 6 giờ chiều, hàng ngàn giáo dân nghe tin này đã kéo đến dòng Đồng Công bao quanh khu vực, với gậy gộc, dao búa, xăng, gạch đá..., ngay vào lúc chuyến xe vận tải thứ tư của công an đến thu cướp gạo, giáo dân đã bao vây chiếc xe này, đập bể kính, đánh nhau với công an tài xế, và chận một chiếc xe khác. Một số công an bị đánh đến ngất xỉu, nhiều tên khác bỏ chạỵ Giáo dân đã canh thức khu nhà dòng suốt đêm, cận chiến với công an. Thừa dịp này, công an đốt cháy khu nhà Kitô Vương, đập phá nhiều căn nhà khác, làm cho không khí phẫn nộ càng dữ dội hơn. Sáng hôm sau, 17/5/87, giáo dân kéo dến ngày một đông; có cả sự tham gia của nhiều giáo dân đến từ Saigon, Hố Nai Biên Hòa... Biển người tràn vào bên trong tu viện làm cho công an phải chạy ra ngoàị Đến đêm, tiếng kinh cầu nguyện vang vọng với những bài thánh cạ Báo Saigon Giải Phóng ở Saigon nhanh chóng chụp mũ dòng Đồng Công "hoạt động chống phá cách mạng", với nhiều tang chứng như Giáo Cương Gia Đình Đồng Công bị xem là truyền đơn; các dụng cụ văn phòng, máy in ronéo cũ kỹ, chiếc bàn cắt giấy nhỏ, ít giấy vụn, vài bình mực in kinh sách...được xem là những tang vật "chống nhà nước".

Sáng 18/5/87, một số tu sĩ khuyên giáo dân giải tán nhưng không được. Công an thành phố Saigon và huyện Thủ Đức phải nhờ các linh mục chánh, phó xứ đạo đến họp "giúp giải quyết". Công an còn đọc thư của GM phụ tá Saigon Nguyễn Văn Nẫm (vì TGM Bìng đi Âu châu) kêu gọi giáo dân đừng tụ tập "để nhà nước dễ làm việc". Nhưng giáo dân vẫn tiếp tục thức đêm tại nhà dòng và xảy ra bạo động đẫm máu khi phát hiện ra một số công an chìm xâm nhập vào hàng ngũ. Một công an bị đâm chết, 2 tên khác bị trọng thương.

Đến ngày 19/5/87, bộ đội Quân đội Nhân dân hỗ trợ công an CS vây chặt đường phố và hôm sau mọi người trên đường phố đều bị khám xét. Tối hôm đó, công an, bộ đội xông vào tu viện bắt giữ 40 tu sĩ, kể cả các vị già yếu, bệnh tật đang ở Giáo sĩ Dưỡng đường của dòng Đồng Công. Chiều ngày 21/5/87, toàn bộ dòng Đồng Công bị CS chiếm giữ. Linh mục Trần Đình Thủ bị bắt giam sau đó và bị xử tù chung thân ngày 18/10/87.

CS còn bày tỏ sự khó chịu khi Bộ Truyền giáo Tòa thánh Vatican thiết lập Văn phòng Phối kết Tông đồ Mục vụ Hải ngoại và chỉ định Đức ông Trần Văn Hoài làm giám đốc tiên khởị

Ngày 4/1/1988, phái đoàn GM Hoa Kỳ do Đức cha Mahoney dẫn đầu đến thăm VN tìm hiểu sinh hoạt CG. Đức cha Mahoney chủ trương kêu gọi chính phủ Mỹ hủy bỏ cấm vận và bang giao với CSVN. Để "đáp lễ" việc này, CSVN ra lịnh thả 35 linh mục tuyên úy quân độị

Trong không khí đau buồn sau vụ CS tiêu diệt dòng Đồng Công, GHCGVN lại thêm đau buồn trước cái tang của Đức cha Phạm Ngọc Chi, Đức cha Lễ và nhất là TGM Nguyễn Kim Điền bị CS ám hại ngày 8/6/88 vì tinh thần đấu tranh can đảm cho tự do tín ngưỡng của ông.

Một biến cố vui mừng đối với GHCG nhưng trở thành sự phẫn nộ đối với chế đô.. Tòa thánh long trọng cử hành đại lễ Phong thánh 117 Vị Tử đạo VN vào ngày 19/6/88 (trùng ngày kỷ niệm Quân lực VNCH). CS đã ra lịnh các cơ quan truyền thông liên tiếp bôi nhọ quyết định phong thánh của Vatican. Hàng ngàn giáo dân VN ở hải ngoại đã đến Roma tham dự, với cờ quốc gia nền vàng 3 sọc đỏ được thực hiện với nhiều hình thức, vì ban tổ chức không chấp thuận khách tham dự mang cờ VN.

Trước tình hình bất ổn trong nước qua những vụ đấu tranh của bà con nông dân, các tu sĩ Phật giáo, của văn nghệ sĩ ngày 24/11/88, CS phải giảm bớt sức căng với CS và ra lịnh phóng thích TGM Nguyễn Văn Thuận sau khi bắt giam ông 13 năm không xét xử. Đến 27/3/89, tương kế tựu kế, CS cho TGM Thuận xuất ngoại thăm cha mẹ và Đức Giáo Hoàng, rồi không cho ông về nữạ

Đầu tháng 1/89, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng là Đức Hồng Y Etchegaray đã cùng với Đức ông Phương sang VN thăm một số địa phận. Bất chấp sự rỉ tai đe dọa của công an địa phương, 20000 giáo dân tại Hà Nội, 120000 tại Phát Diệm, 250000 tại Bùi Chu, tương tự ở Hải Phòng, Saigon, Long Xuyên...đã vui mừng tiếp đón phái đoàn.

Ngày 6/12/89, Hội đồng Giám mục họp và bầu ban thường vụ mới : Đức cha Nguyễn Minh Nhật giữ chức vụ chủ tịch, Đức cha Lê Phong Thuận làm tổng thư ký.

Ngày 1/2/90, Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn qua đời tại Hà Nộị

Đức Giáo Hoàng cử Đức Cha Etchegaray, Đức ông Celli và Đức ông Nguyễn Văn Phương sang dự lễ an táng và thương thảo với CS về việc bổ nhiệm GM cho 5 giáo phận trống khuyết, truyền chức linh mục, tự do làm việc mục vu.... Kết quả không như ý muốn của phái đoàn.

Một sự kiện khác là CS ra lịnh bắt giữ linh mục Chân Tín và giáo sư Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục) ngày 16/5/90. Linh mục Chân Tín bị bắt và bị lưu đày ở Minh Hải vì tập hồ sơ có tên "Nói cho con người" gồm một số bài tham luận, văn kiện gởi cho các cơ quan CSVN, cũng như các vị bề trên của Tòa thánh; đặc biệt là 4 bài giảng vào mùa chay năm 1990, trong đó ông kêu gọi lãnh đạo CSVN nên "sám hối" tội lỗi của ho.. Giáo sư Lan bị quản thúc ở Saigon vì tập nhật ký 1989-1990 tố cáo chính sách vi phạm nhân quyền của chế đô.. Trước năm 1975, 2 vị này từng có những hoạt động thân Cộng ở miền Nam.

"Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" họp đại hội lần II ngày 16/10/90 để củng cố tình "đoàn kết" với không khí tẻ nhạt, chỉ có 300 người tham dự; trong số này chỉ có 13 linh mục (so với đại hội năm 1983 là 142 linh mục) và linh mục Võ Thành Trinh được bầu làm chủ ti.ch.

Trong tháng 12/91, tập thể giáo dân An Thượng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã viết liên tiếp nhiều dơn khiếu nại gởi các cấp nhà nước CS ở tỉnh để phản đối hành động cướp đất nhà thờ thuộc giáo xứ An Thươ.ng. UBND phường đã ngang nhiên bán khu đất này cho Ngân hàng Công thương để lấy tiền mặt. Bất chấp lời khẩn cầu của giáo dân, Ngân hàng Công thương đã đem vật liệu đến tiến hành xây dư.ng.

Đến tháng 1/92, Đức Ông Celli và Đức Ông Thượng lại sang VN thương thảo lần thứ hai, về các vấn đề bổ nhiệm Giám Mục, chủng viện, phong chức, giáo sư ở miền Nam và từ nước ngoài về bổ sung cho các chủng viện, nhìn nhận những linh mục được chịu chức "chui", trợ giúp nhân đạo,... Vấn đề giải quyết cũng còn nhiều trắc trở. Lần này, CS từ chối không cho Đức Ông Trần Ngọc Thụ (Bí thư của DGH) đi trong phái đoàn và chỉ cho phái đoàn lưu lại VN có 5 ngàỵ

Nhằm ngăn chặn các linh mục quốc doanh đang tìm cách phá đạo, ngày 20/5/92, Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh gởi thơ nhắc nhở các linh mục, tu sĩ về thông tư năm 1982 là không được gia nhập các tổ chức chính tri.. Ban Tôn Giáo CS phản đối rằng, "quyết định như vậy là trái với Hiến pháp VN và quyền công dân về nhân quyền, và cũng trái với thỏa thuận chung là những vấn đề Vatican định thực hiện ở VN cần trao đổi thống nhất với chính phủ VN trước".

Tháng 12/92, dù đang bị giam giữ ở Minh Hải, linh mục Chân Tín phổ biến 2 lá thư ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo và khi phân tích nội dung lá thư trên của Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh, ông tố cáo bản chất công cụ của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu n+ớc (UBDKCGYN). Ông đã dùng những từ ngữ rất rõ nghĩa để chỉ "chế độ độc tài đảng trị chống con người và tôn giáo", "đảng phái vô nhân đạo", "một chế độ vô nhân đạo"...

Đâù tháng 2/93, Đức Ông Celli và Đức Ông Phương đến VN lần thứ ba (lẽ ra là vào tháng 11/92, nhưng CS hoãn lại chỉ vì muốn đào xong một cái hồ nước làm tăng "vẻ đẹp" trong khu vực Tòa Khâm Sứ cũ). Lần này phái đoàn thảo luận về sự trở về VN của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, bổ nhiệm GM cho 4 địa phận Saigon, vấn đề tự do hội họp và hoạt động của Hội đồng GMVN, mở thêm Đại chủng viện, cho các linh mục đi tù "cải tạo" về được làm mục vụ, các dòng tu được thu nhận ơn kêu gọi của giáo dân (đã được HDGMVN nêu lên trong bản kiến nghị ngày 18/10/92), vấn đề thiết lập quan hệ giữa VN và Vatican, vấn đề linh mục không được gia nhập UBDKCGYN. Cũng trong thời gian này, theo tờ Eglise d'Asie xuất bản tại Pháp số ra ngày 16/5/93, thì công an đã mở thêm chiến dịch lùng soát 4 giáo phận, phân tán một cuộc họp bình thường của 27 giáo dân, bắt mỗi người phải nộp phạt 10,000 đồng nhưng không ghi số tiền này vào biên bản.

Với kết quả vẫn ở trong tình trạng cầm chừng, trong phiên họp của HDGMVN từ ngày 12-19/10/92 để bầu ban thường vụ, các GM đã gởi kiến nghị cho ông Võ Văn Kiệt và Ban Tôn Giáo CS, yêu cầu tôn trọng tự do sinh hoạt của HDGMVN, được quyền đào tạo thêm chủng sinh, quyền điều động nhân sự và yêu cầu trả lại những tài sản của giáo hội đang bị cưỡng đoạt.

Trước sự im lặng của CS, Ban Thường vụ HDGMVN sau 3 ngày họp đã gởi kiến nghị lên Ban Tôn Giáo CS ngày 19/3/93 yêu cầu : Tăng số người đi du học, chiêu sinh và giáo sư Đại chủng viện. Xin mở các tu sở chuẩn bị ứng sinh, mở lại Đại chủng viện Huế, các chủng sinh mãn khóa đương nhiên được chịu chức. Tổ chức hàng năm các khoá bồi dưỡng cho các tu sĩ nam nữ.

Trước tình hình sôi động dữ dội với cuộc đấu tranh cho tự do tín ngưỡng của đồng bào Phật giáo, nhất là biến cố hơn 40,000 Phật tử biểu tình ở Huế, CS vừa tiếp tục gia tăng việc đàn áp Phật giáo, vừa mưu kế gây mâu thuẫn giữa các tôn giáo bằng một hành động tạo vẻ hòa hoãn với CG. Ngày 12/5/93, linh mục Chân Tín được tự dọ Ngày 18/5/93, linh mục Trần Đình Thủ trong vụ án dòng Đồng Công được cho về nhà nhưng bị quản thúc. Ngày 19/11/93, 4 tu sĩ dòng Dồng Công được phóng thích. Tuy nhiên, với sự ám ảnh thường xuyên về "diễn tiến hòa bình", theo tờ Eglise d'Asie, Bộ Nội Vụ CS đã hủy bỏ vào phút chót một buổi hội thảo của đại diện các nhà báo Thiên Chúa Giáo dự định tổ chức vào đầu tháng 6/93 tại Saigon, với lý do "thời điểm không thuận tiện". Buổi hội thảo có chủ đề "Sự đóng góp của các tôn giáo vào sự phát triển VN", theo lời mời của tạp chí Công giáo và Dân tộc (cơ quan ngôn luận của UBDKCGYN) và đã được ông Võ Văn Kiệt chấp thuận.

Ngày 23/7/93, TT Võ Văn Kiệt ra chỉ thị "nhà nước cho phép hành đạo, phù hợp với pháp luật của nhà nước, song nghiêm cấm các hoạt dộng lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống chính quyền, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc". Song song, CS công khai chứng tỏ việc tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho GHCGVN như sửa chữa nhà thờ, in ấn sách đạo, cho đào tạo giáo sĩ nhưng bên trong, CS yêu cầu GHCGVN phải báo cáo trước chương trình hoạt động tôn giáo và nắm vững quy định về hoạt động đối ngoại của tôn giáọ Thêm vào đó, CS kiện toàn các Ban tôn giáo của họ ở địa phương, tăng cường tuyên truyền chính sách tôn giáo qua các phương tiện truyền thông ở trong và ngoài nước.

Những bước "trá hòa" của CS chỉ làm cho sinh hoạt đòi hỏi tự do tín ngưỡng của giáo dân càng mạnh mẽ hơn. Ngày 12/8/93, trong khi 40,000 tín hữu hành hương tại nhà thờ La Vang (tỉnh Quảng Trị) thì hàng ngàn truyền đơn của Phong Trào Đòi Tự Do Cho Công Giáo đã phổ biến trong dịp nàỵ Nội dung bản truyền đơn hoàn toàn ủng hộ các đòi hỏi chính đáng được ghi trong bản kiến nghị của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HDGMVN) gởi cho nhà nước CS ngày 19/3/93.

Để gia tăng áp suất các đòi hỏi tự do tín ngưỡng, ngày 20/10/93, HDGMVN lại gởi kiến nghị cho ông Võ Văn Kiệt, yêu cầu :


- Về mục vụ : không phải xin phép đi làm mục vụ trong địa hạt của mình, tự do phân bổ linh mục, có nhà in riêng, xuất bản một tập san, được mở trường để giáo dục thanh thiếu niên.

- Về nhân sự : các dòng tu được nhận ứng sinh và GM được nhận dòng tu đến làm việc, linh mục "cải tạo" sớm được thi hành chức vụ, không làm khó dễ những người xin học đạo, tự do lựa chọn ứng sinh, sớm giải quyết trường hợp Đức Cha Nguyễn Văn Thuận.

- Về cơ sở : sớm mở Đại chủng viện Huế, mở thêm Đại chủng viện Xuân Lộc (gồm 3 địa phận Đà Lạt, Xuân Lộc, Phan Thiết), Đại chủng viện Thái Bình (gồm Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng), trả lại Hoc. viện Đà Lạt để mở phân khoa Thần Học, tu sở chuẩn bị ứng sinh 3 năm cho mỗi địa phận, trả lại các cơ sở của GHCGVN, dễ dàng xây nhà thờ nhà nguyện ở vùng kinh tế mớị

Vấn đề trở về VN của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, TGM phó địa phận Saigon, đã dược ngã ngũ. CS lập lại nội dung bản thông cáo của UBNDTPHCM (ngày 15/9/93), vu cáo Đức Cha Thuận là "từng tham gia vào việc chia rẽ, đàn áp tôn giáo, có nợ máu với nhân dân" để dứt khoát với Vatican về việc đưa Đức Cha cai quản địa phận Saigon, thay thế Đức Cha Bình đang bịnh nặng, vì lo sợ Đức Cha Thuận có thể lôi kéo giáo dân Saigon nổi dậy chống chế độ CS đã từng đồng ý với Vatican về việc bổ nhiệm GM Huỳnh Văn Nghi (địa phận Phan Thiết) kế vị Đức Cha Bình, nhưng lại cho rằng Vatican đã "đơn phương bổ nhiệm GM Huỳnh Văn Nghi là Giám quản Tông tòa Giáo phận HCM", nên không đồng ý. Lý do rất giản dị vì CS thấy sức khoẻ của Đức Cha Bình đã hồi phục phần nào nên muốn duy trì chức vụ lãnh đạo giáo phận Saigon của ông để dễ bề thao túng. Tuy nhiên, Đức Cha Nghi vẫn thực hiện chức vụ mà Tòa Thánh bổ nhiệm.

Ngày 23/10/93, Đức Cha Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt Nam, đã hủy bỏ buổi lễ phong chức cho 11 vị linh mục để phản đối hành động của CS không chấp nhận chức vụ mới của Đức Cha Nghi và không để ngài làm chủ tế ngày phong chức kể trên, dự trù vào ngày 24/10/93.

Đầu tháng 11/93, một Ủy ban Hợp tác Các Tôn giáo tại VN đã triệu tập một buổi họp bí mật, dưa ra một bản tuyên cáo như hình thức truyền đơn truyền đi rộng rãi khắp nơi trong nước, nội dung ủng hộ các đề nghị của HDGMVN và yêu cầu phóng thích Hòa Thượng Thích Huyền Quang và các vị cao tăng khác.

Phái đoàn Tòa Thánh do Đức Ông Celli và Đức Ông Phương lại đến VN lần thứ tư, từ 3-13/3/1994. Kết quả lần thảo luận này đã được Đức Ông Celli cho biết trong cuộc phỏng vấn trên đài Vatican. Ông nói "...Tôi thấy rằng con đường phải đi vẫn còn dài trước khi có thể nói là tôn giáo VN được hưởng tự do hoàn toàn về tôn giáọ Về vấn đề này, tôi cũng muốn minh định rằng tự do tôn giáo không phải chỉ là tự do làm việc thờ phươ.ng. GHCGVN không bị chối bỏ quyền nàỵ Tự do tôn giáo bao gồm một thực tế rộng lớn hơn, ví dụ như tự do thành lập các hội đoàn công giáo, tự do các cơ sở giáo dục, từ thiện...". Ông còn cho biết vì không còn cách nào khác hơn nên phải đồng ý việc "Vatican sẽ thương thảo với nhà nước CS trước khi có quyết định bổ nhiệm các GM tại VN".

Chỉ một tuần sau, ngày 20/3/94, Ban Tư tưởng Văn hóa của Đảng CSVN đã phổ biến "tài liệu lưu hành nội bộ" có nhan đề "Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối". Sau khi liệt kê những hoạt động "cực kỳ phản động" của tổ chức Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, tài liệu này tố giác Ủy ban Công giáo Chống đói, Vì Phát triển (CCFD), có trụ sở tại Pháp, là đã "gởi tài liệu về dân chủ, nhân quyền Tây phương vào VN, đào tạo một số hạt nhân tổ chức nhân quyền quốc tế tại VN. CCFD chú ý tác động vào một số trí thức trẻ, nhất là những người được đào tạo ở nước ngoài...", và ngấm ngầm vận động giáo dân xóa bỏ Ủy ban Đoàn kết Công giáo nhà nước. Được biết, tổ chức công giáo CCFD tài trợ rất nhiều sinh hoạt tại VN từ nhiều năm quạ

Trong Đại hội Mặt Trận Tổ Quốc vào tháng 8/94, Đỗ Mười lớn tiếng cảnh giác "những lạm dụng tôn giáo phá hoại tình đoàn kết dân tộc" sẽ bị trừng trị thích đáng. Một tháng sau, Hội đồng GM Hoa Kỳ, ngày 15/9/94, kêu gọi CS phải gia tăng tự do tôn giáo tại VN.

Ngày 24/11/94, Đức Giáo Hoàng quyết định bổ nhiệm Đức Cha Thuận là Phó Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh Công lý và Hòa bình. Kế đó, ngày 26/11/94, Đức Cha Phạm Đình Tụng được phong Hồng Y, sau khi ông được bổ nhiệm chức Tổng GM Hà Nội từ ngày 23/4/94.

Ngày 26/3/95, phái đoàn Tòa Thánh do Đức Ông Celli và Đức Ông Phương đến VN lần thứ 5, tiếp tục bàn thảo với Ban Tôn Giáo CS về : việc bô nhiệm các GM cho các giáo phận còn bị bỏ trống, hoặc có GM cao tuổi; đặc biệt là ở Hưng Hóa, Saigon, Phú Cường, Bùi Chu, Quy Nhơn và Long Xuyên; vấn đề yêu cầu CS trả lại các tài sản của GHCG và các vấn đề tự do tôn giáọ Tuy nhiên, Ban Tôn Giáo của CS đã né tránh không muốn đề cập đến việc để Đức Cha Huỳnh Văn Nghi về Saigon giữ chức vụ Chánh Quản Tông Tòa như Tòa Thánh đã bổ nhiệm. Hơn thế, Ban Tôn Giáo còn đơn phương hủy bỏ việc phái đoàn Tòa Thánh đi Saigon để gặp gỡ các
GMVN, với lý do là Saigon đang quá bận bịu chuẩn bị kỷ niệm 20 năm cưỡng chiếm miền Nam. Vì thế phái đoàn đã từ Đà Nẵng trở lại Hà Nộị Các GMVN dã gởi thư cho ông VVK yêu cầu để Đức Cha Huỳnh Văn Nghi về làm việc tại Saigon.

Ngày 6/5/95, CS tuyên bố bác bỏ sự bổ nhiệm 4 GMVN của Tòa Thánh, vì cho rằng đây là việc của HDGMVN, Tòa Thánh không cần can thiệp vàọ Ngoài ra, CS còn ngang nhiên đòi Vatican phải giải tán Văn phòng Phối kết Tông đồ Mục vụ, trụ sở ở Roma, do Đức Ông Hoài điều hành, và phải thay đổi đường lối của 2 chương trình Việt ngữ của đài Vatican và đài Veritas (phát từ Phi Luật Tân) phát sóng về VN.

4 tháng sau, ngày 1/7/95, Đức Cha Nguyễn Văn Bình từ trần, hưởng thọ 85 tuôị CS cố tình thổi phồng đám tang ông, khi cho phép mỗi quận ở Saigon cử 700 giáo dân đến tham dự (khoảng 12,000 tín đồ) đám tang ngày 5/7/95.


Cố gắng sinh tồn


GHCGVN hiện nay chia làm 3 Giáo tỉnh : Giáo tỉnh Hà Nội (có 10 giáo phận), Giáo tỉnh Huế (có 6 giáo phận) và Giáo tỉnh Saigon (có 9 giáo phận).

Tình trạng sinh hoạt CG trên cả nước rất bi đát, đặc biệt là ở miền Bắc. Như ở địa phận tỉnh Thái Bình chẳng hạn. DGM Nguyễn Văn Sang, Phó chủ tịch HDGMVN, trong cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Trần An Bài nhân dịp ông sang Roma ngày 5/10/92, cho biết giáo dân ở đây có khoảng 120,000 ngườị

Trước khi Đức Cha Sang về Thái Bình 2 năm thì giáo phận này không có GM, sau khi GM Đinh Đức Trụ và Đinh Văn Bình qua đờị Hiện nay có 20 linh mục còn trẻ, 2 linh mục già 95 tuổi và 65 tuổi là các linh mục chính trong địa phận. Trong số các linh mục có 8 linh mục được truyền chức nhưng CS không chấp thuận. Về số nữ tu rất khiêm tốn, có khoảng 20 nữ tu già tuổi từ 65-90, trình độ rất thấp và đời sống cực kỳ khổ sở. Nhiều người không biết chữ. Đức Cha Sang muốn gầy dựng một cộng đồng khoảng 100 nữ tu và cho các em vào học nhưng CS không đồng ý. Còn dòng tu chỉ có một số thầy đã có chức Sáu, chức Bốn và khoảng 100 chủng sinh đang sống trong các xứ làm mục vụ mà Đức Cha Sang vẫn phải lo lắng từ tinh thần đến vật chất. Thái Bình nằm sát biển nên bị ảnh hưởng bởi bão táp nhiềụ Hơn 1000 nhà thờ lớn nhỏ (hầu hết đã được xây trên 200 năm)

nhưng trên 800 cái cần phải được sửa chữạ Theo Đức Cha Sang "tình hình giữa nhà nước với tôn giáo rất căng thẳng", nên ông phải tìm cách truyền giáo qua những việc làm bác áị Phần lớn nguồn viện trợ đến từ các tổ chức từ thiện ở ngoại quốc.

2 địa phận Bắc Ninh và Lạng Sơn cũng thê thảm không kém. Địa phận Lạng Sơn chỉ có một linh mục và một GM với số giáo dân là 4000 (năm 1990). Đức Cha Dụ ở Lạng Sơn bị quản thúc từ 30 năm quạ Còn địa phận Bắc Ninh với 10,000 giáo dân, 46 xứ đạo chính, 360 họ đạo mà chỉ có 1 GM và 1 linh mục "rưỡi" (vì chỉ có một linh mục được quyền làm mục vụ, còn linh mục kia bị quản chế). Có xứ đạo ở tỉnh Vĩnh Phú hơn 40 năm mà chưa có một thánh lễ nàọ Việc thiếu linh mục có nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân mà linh mục Nguyễn Trọng Tước kể lại vào tháng 11/94 : tại Tòa Giám Mục ở Vĩnh Phú, một bà trọng tuổi vừa đi xe đò từ xa đến, còn dính bụi bậm trên người, đã vội chạy đến thưa với GM : "Bẩm Đức Cha, ông Trùm họ chúng con mới bị bắt". Nhưng khuôn mặt Đức Cha bình thường, như thể ông đã quen lắm rồi những báo cáo, chịu đựng như thế.

Các giáo phận Huế, Qui Nhơn và Đà Nẵng chịu ảnh hưởng nặng nề về kinh tế sau 1975 nên số giáo dân giảm sút trầm tro.ng. Năm 1973, giáo phận Huế có 92,000 giáo dân thì đến năm 1990 chi còn 43,642.

Không thiếu những bằng chứng về sự tiêu diệt đạo giáọ Ngày 24/11/94, linh mục Nguyễn Văn Lý tại Huế đã gởi Ban Tôn giáo Tuyên ngôn 10 điểm, tố giác hành vi chà đạp tự do tín ngưỡng của chế đô.. Ông cho biết Tiểu chủng viện Hoàn Thiện đã bị CS dùng bạo lực cưỡng chiếm từ tháng 12/75 để làm trường trung học, khiến cho gần 300 chủng sinh phải lang thang tu học tại giạ Hơn 100 chủng sinh bị đuổi khỏi Tiểu chủng viện này và Đại chủng viện Huế từ năm 1979. Hiện chỉ còn 15 chủng sinh sống lang tang ở Huế chờ ngày được vào Đại chủng viên khi được mở cửa lạị

Linh mục Lý còn tố cáo chế độ đã trắng trợn xen vào nội bộ của GHCGVN về các qyền tấn phong, bổ nhiệm, cũng như bức bách trách nhiệm Giám quản Huế của Đức Cha Lê Văn Nẫm. Ngay cả Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Phú Xuân, Kim Long, bị CS "thuê" nhưng không không trả 1 xu nào từ 18 năm qua và cũng không trả tu viện này lạị Linh mục Lý từng bị CS bắt giam 15 năm tại Nam Hà, từ năm 1980, vì hành động đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng của ông.

Tính đến 1995, số giáo dân ở VN có khoảng từ 6-7 triệu trên dân số khoảng 74 triệu, chiếm tỷ lệ từ 8.1-9.46%. Điều quan ngại nhất là số linh mục đến năm 1993 chỉ có khoảng 1900 người mà phần đông là già yếụ Tính đổ đồng thì một linh mục chăm sóc cho 1570 giáo dân trong Nam và 6565 dân tại miền Bắc. Cuối năm 1994 chỉ còn 1800 linh mục.



Đạo Tin Lành trước cơn bão

Đạo Tin Lành cũng không thoát khỏi tình trạng bị bức tử. Sau năm 1975, tất cả giảng đường ở miền Nam đều "được" xung công thành những cơ quan của nhà nước. Các Mục sư chân chính đều lần lượt bị trù dập vì luôn luôn bị nghi ngờ là "nhân viên CIA của đế quốc Mỹ".

Ngay tháng 5/75, công an CSVN đã bắt giam Mục sư Đào Quang Long vì bài giảng đầu tiên tại Hội Thánh Phúc Âm II, với một câu trong kinh thánh :"Khi người ta nói hòa bình và yên ổn thì thình lình tai họa sẽ xảy đến". Công an phiên dịch rằng câu này muốn "tàn quân Mỹ-Ngụy" đánh .la.i CS. Ông bị xử tù 8 năm trong trại giam Phú Yên. Tháng 12/1977, Mục sư Bùi Văn Nhàn thuộc Hội Thánh Phú Long bị bắt giữ về tội "dụ dỗ người vô đạo", vì ông đã treo biểu ngữ trước hội thánh ngày Giáng Sinh, có nội dung trích từ thánh kinh :"Sáng danh Chúa trên các từng trời cao, bình an dưới đất, ân trạch cho loài người". Mục sư Nhàn bị tù 7 năm. Vẫn tìm lý do để diệt trừ đức tin tôn giáo, cũng năm 1977, công an bắt giam Mục sư Trần Tuôn, Chủ nhiệm Hội thánh Phúc âm I, vì tội tụ tập giáo dân tại nhà thờ để cầu nguyện xin Chúa chữa bịnh cho một cụ già trong xã. Mục sư Tuôn bị giam 8 năm ở trại tù Đức Linh, tỉnh Thuận Hảị Xóm đạo Tin Lành Phúc Âm ở Thuận Hải thường xuyên bị công an hạch hỏi từng nhà về số tiền đóng góp của người đồng hương sống ở hải ngoạị CS vu cáo là "tiền dùng nuôi tàn quân ngụy nên không khai báo với nhà nước". Có người vì quá sợ hãi đã quyên sinh.

Các mục sư bị bắt đều không được đem ra xử, và sau đó toàn bộ tài sản của hội thánh đều bị chiếm đoạt. Từ năm 89-91, số Mục sư bị bắt gia tăng. Ngày 4/12/89, Mục sư Võ Xuân bị bắt giam ở tỉnh Thuận Hải vì tội gặp gỡ các tín đồ tại nhà của họ ở tỉnh Bình Tuy, nơi mà cả 3 nhà thờ Tin Lành bị đóng cửa từ lâụ Ông là Tuyên úy Tin Lành từng bị bắt đi "cải tạo" từ tháng 6/75 đến tháng 4/87. Mục sư Trần Xuân Tú bị bắt năm 1985, giam ở Thuận Hải, vì đã tổ chức các buổi học hỏi, bắt triệt hạ thánh giá trong nhà thờ, rồi chiếm luôn gian nhà nguyện nàỵ Tháng 12/89, Mục sư Võ Minh Hùng bị bắt giam tại tỉnh Pleiku vì tội đã tổ chức các buổi học hỏi kinh thánh tại nhà; sau đó ông bị giam tại trại A-20, tỉnh Phú Yên. Đây là lần thứ ba ông bị giam; lần đầu 1 tuần, lần thứ hai 3 tháng. Tháng 11/89, Mục sư Trần Thể Thiên Phước bị bắt giam lần thứ ba lúc trên đường đi thăm các tín đồ và bị kết tội "gây rối loạn". Ông bị đày ải ở trại Tống Lê Chân, tỉnh Sông Bé.

Ngày 22/2/91, Mục sư Đinh Tiện Từ bị bắt khi vừa ra khỏi nhà mộ tín đồ. Công an đã đến nhà ông lục soát kỹ lưỡng với lý do có một lá thơ "tố giác gây rối loạn". Ông bị giam ở T-20 Phan Đăng Lưu Saigon, rồi chuyển sang Chí Hòạ Trường hợp Mục sư Từ khá đặc biệt. Ông là người đứng đầu phong trào đọc kinh tại gia mạnh nhất tại VN và từng ở trong Giáo hội Tin Lành đến năm 1988 được nhà nước công nhận. Sau đó, các mục sư quốc doanh có chức sắc đã trục xuất ông vì cho rằng ông truyền "sai lạc giáo lý". Rồi ông trở lại Giáo hội Tin Lành làm việc lại và được cử giữ chức vụ quan tro.ng. Ông bị bắt lại vì bị vu cáo là "lợi dụng việc xã hội cho mục tiêu chính trị". Trước áp lực về nhân quyền, CS đã phóng thích ông vào ngày 6/4/93.

Mục sư Trần Đình Ái bị bắt ngày 27/2/91 và bị giam ở Chí Hòa Saigon vì tội hoạt động tôn giáo trái phép và chống lại chế đô.. Ông đứng đầu một phong trào học hỏi kinh thánh khác, giữ trách nhiệm nhiều giáo phận Tin Lành ở miền Nam, và có những liên lạc mật thiết với Giáo hội Pentacostal ở ngoại quốc. Đến ngày 6/4/93, ông được phóng thích. Ngày 31/10/91, Mục sư Trần Mai bị bắt vì tội "hoạt động tôn giáo bất hợp pháp" và bị giam tại Phan Đăng Lưụ Ông được phóng thích cùng ngày với Mục sư Áị Trước ngày được thả, Mục sư Mai bị biệt giam vì đã nghiên cứu giáo lý.

Tháng 8/89, Mục sư R'Mah Boi, người gốc thiểu số Jarai, huyện Gia Rai, tỉnh Kontum, đã bị bắt vì tội đã vận động 200 đồng bào thiểu số giúp thu hoạch 2 ruộng lúa để giúp 2 tín đồ già yếu, đã bị công an bắt phạt vì tổ chức học hỏi thánh kinh tại nhà. Mục sư Boi bị giam chung với 2 tín đồ này ở trại A-20, tỉnh Phú Yên. Tháng 6/90, Mục sư Ya Tiêm, thuộc sắc tộ Koho, bị bắt giam ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Ông là mục sư của 14 cộng đồng thiểu số trên miền Cao nguyên.

Chính vì chứng "dị ứng CIA" nên nhà cầm quyền CS nhìn người truyền giáo đạo Tin Lành nào cũng là gián điệp. Ngày 14/4/93, Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, là Mục sư chính của thánh đường Saigon tại Wesminster, tiểu bang California, thuộc Giáo hội Cơ Đốc Cải Cách Mỹ Châu, đã bị trục xuất ngay khi ông và phái đoàn đến phi trường Nội Bài ở Hà Nội, nhưng không được biết lý do cho đến cả hôm naỵ Mục sư Bảo cho biết công tác đến VN của ông hoàn toàn vì lý do nhân đạo, từng ra vào VN 13 lần với nhiều dụng cụ y khoa, thuốc men dể giúp cho các bịnh viện như Chợ Rẫy Saigon, ở tỉnh Đồng Tháp, ở Quảng Nam Đà Nẵng. Ông còn cho biết chỉ một mình ông bị trục xuất, còn những người khác trong phái đoàn thì không, và có thể ông còn có cơ hội đến VN nữa.

Tương tự, Mục sư Nguyễn Quang Minh ở miền Nam california, thuộc Giáo hội Tin Lành Phúc Âm Liên Phái, đã đến VN ngày 19/5/95 và bị bắt giữ ngay khi xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Công an Cục Bảo Vệ Chính Trị 3 của Bộ Nội Vụ CS đã áp giải ông về số 235 đường Nguyễn Văn Cừ để chất vấn chuyến đi của ông. Hành lý của ông bị khám xét kỹ lưỡng và bị tịch thu 18 tài liệu, trong đó có 2 bài do ông viết : "Hướng đạo và Cộng sản" và "Thử bàn một chiến lược chống Cộng cho người Việt hải ngoại". Công an có hỏi lý do và ông trả lời rằng ở Mỹ có tự do ngôn luận và mọi người đều được quyền viết những gì mình nghĩ. Sau đó, công an không cho ông đi Hà Nội như dự định, không trả lời vụ mở phòng tuyên úy như ông đã xin 2 năm trước đó.

Tuy nhiên CS vẫn cho phép một số giáo phái Tin Lành hoạt động ở VN, với sự kiểm soát thường xuyên của Công an Bảo vệ Chính trị, như các tổ chức "The World Church", Giáo hội Quaker...tức là những tổ chức tôn giáo đến VN để làm công tác nhân đạo thuần túy và mang thật nhiều viện trợ vào ! Hiện nay, số tín đồ Tin Lành có khảng 500,000 người, với số Mục sư còn khoảng 200, so với 500 Mục sư trước năm 1975.



Kết luận

Ánh sáng đức tin không vì những chính sách vừa kể trên mà lịm tắt. Trên báo Paris Match, số tháng 5/91, ký giả Pháp Michel Taurac đi thăm VN về đã viết rằng ông đã gặp một linh mục ở Saigon, bị tước đoạt mọi quyền công dân, không nơi cư trú, không việc làm. Ông đã ngủ ngoài đường, che bằng miếng nhựa và đi ăn xin. Ông nói :"Tôi vẫn rao giảng Tin Mừng. Nhờ Chúa giúp tôi, tin chắc rằng chúng tôi sẽ xây dựng lại Giáo hội và thu phục lại con chiên. Mỗi ngày tôi đều cầu nguyện, tôi quỳ gối hướng về Vương Cung Thánh Đường và tượng Đức Me...". Với nụ cười khiêm tốn, vị linh mục này luôn dấu tung tích của người tù với 14 năm trong trại giam, ban đêm bị cùm một chân, chân trái bị cưa cụt.

Còn tại Hà Nội, ký giả Taurac cho biết đã gặp một vị Thầy chức Bốn đang hành nghề xích lô đã nói :"Những người cầm quyền đều muốn các linh muc. già đị Càng già lụ khụ càng tốt và họ muốn các linh mục chết dần đi, người nọ tiếp nối người kiạ Nhưng ai cũng kính phục sức sông kiên cường và mãnh liệt của Giáo hội này cho dù là trên vỉa hè đường hố và trong các trại tù.



Tài liệu tổng hợp hoặc trích từ :


1) Phạm Văn Phổ, "Cuộc tranh đấu âm thầm và liên tục của Giáo hội VN để đòi quyền tự do tôn giáo", Khai Thác Thị Trường, số tháng 7/8/9/1994.

2) Hoàng Diệu Tâm, "Tôn giáo dưới chế độ Việt Cộng : 1975-1995", Kháng Chiến, số 152, tháng 12/1995.

3) Lữ Giang, "Những bí ẩn đằng sau các cuộc thánh chiến tại VN", 1994.

4) Nguyễn Thị Sông Hương, "Phê bình mùa biển động", nxb Đại Nam, 1992.

5) Chính Đạo, "Tôn giáo và chính trị : Phật giáo 1963-1967", nxb Văn Hoá 1994.



Phần 15/62


8.Sự phát triển của PG từ thời Pháp thuộc :


a.Thời Pasquier (1928) :

- Long Xuyên Phật Học cũng do HT Khánh Hòa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn nị

- Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các HT Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v... Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Ti.ch.

- Phật Học Kiêm Tế Hội do HT Thích Thiện Chiếu thành lập năm 1936 ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội này tuyên bố cổ võ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn PG đi theo đường lối của Đảng CS Đông Dương.

- Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do BS Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học, thân phụ HT Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lão học, còn Lê Đình Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. TT Trí Quang sau này cũng xuất thân từ chỗ nàỵ

- Gia Đình Phật Hóa Phổ cũng do BS Lê Đình Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây : Văn Đình Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v... Đây là những thành phần hoạt động tích cực khi phong trào PG miền Trung nổi lên. Võ Đình Cường là người chủ chốt trong vụ nàỵ Năm 1951, một hội nghị Gia Đình Phật Giáo Phổ được tổ chức tại Huế đã quyết định đổi tên thành Gia Đình Phật Tử.

- Hội Chỉnh Lý Tăng Già Bắc Việt do HT Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9/1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.

- Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên Hà Nộị

- Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.

- Phật Học Đường Bao Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 1950 ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam, Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung. HT Tịnh Khiết trụ trì ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.

- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do TT Thích Thiện Hòa và TT Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại cùa Ấn Quang, Saigon.

- Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.

- Hội Lục Hòa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.

- Chùa Ấn Quang được HT Thích Thiện Hòa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (tức Sư Vạn Hạnh), Chợ Lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.


Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc "Cách Mạng Tháng 8" năm 1945, vì một số tăng sĩ quan trọng đã đi theo Mặt Trận Việt Minh. Mãi đến năm 1951, khi Pháp đã chiếm lại phần lớn Đông Dương và VC đã rút lui vào các chiến khu, việc phát triển PG mới bắt đầu mạnh trở lạị

Nhìn Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dướì thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo của Pasquier là có thật.


b. Sự phát triển Phật Giáo dưới thời Đệ I Cộng Hòa :

Từ 1955-1963, sự phát triển của PG rất đáng kể, không thua gì thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sở PG được thành lập dưới thời Pháp thuộc vẫn iếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Diệm đã cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới như :

- Hội Linh Sơn Phật Học được thành lập năm 1955 tại chùa Linh Sơn, Cô Giang, Saigon
- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do TT Thích Độ Lượng và Thích Huyền Minh thành lập năm 1955 tại Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam thành lập năm 1955 tại Đề Thám Saigon.
- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.
- Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập năm 1957 tại đường Phan Đình Phùng saigon.
- Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Long Vân, Gia Đi.nh.
- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Kỳ Viên, Phan Đình Phùng Saigon.
- Hội Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1957 tại Âm Bồ Đề, Châu Đốc.
- Hội Phật Giáo tại Trung Phần thành lập năm 1957 tại chùa Từ Đàm, Huế.
- Hội Phật Tử Việt Nam thành lập năm 1958 tại chùa Đại Giác, Saigon.
- Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam thành lập năm 1958 tại Gia Đi.nh.
- Hội Phật Giáo Quan Âm Phổ Tế thành lập năm 1959 tại Phan Thanh Giản Saigon.
- Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu thành lập năm 1959 tại Saigon.
- Hội Từ Thiện PGVN thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh Bình thành lập năm 1960 tại chùa Ông Mẹt, Vĩnh Bình.
- Hội Tứ Giáo Phật Học VN thành lập năm tại chùa Tam Bửu Biên Hòa năm 1961.
- Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.
- Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông thành lập năm 1962 tại Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thành lập năm 1963 tại Saigon.

Những thành quả mà PG đã đạt được dưới thời Đệ I Cộng Hòa đã dược Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), trang 304-307 như sau :

- Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang.

- Nhiều tu viện, chùa và Phật Hoc. Đường đã được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở Bình Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Hòa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Từ Nghiêm ở Saigon, v.v...

- Mở nhiều khoá huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khoá Tu Nghiệp Trụ Trì và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già VN cũng đã thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam VN.

- Các đại hội của Phật Giáo được mở liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội VN kỳ 2 năm 1956, kỳ 3 năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ở chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ 3 năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ 3 năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...

- Các tạp chí Phật Giáo đua nhau ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hoá, Từ Quang, v.v...


Trong cuốn "Phật Giáo tại Việt Nam", ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền nam là 2206 cáị Dướt thời ông Diệm số chùa lên đến 4776 cái, tức là tăng 2570 cái; trải ra cho 43 tỉnh miền Nam, thì mỗi tỉnh tối thiểu có 59 ngôi chùa mới; chùa cũ và mới cộng lại sẽ cho thấy mỗi tỉnh có trung bình 111 ngôi chùạ Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare", Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Diệm đã đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đã được trùng tụ Riêng chùa Xá Lợi, ông Diệm đã góp vào 2 triệu đồng và sau đó còn cho xử dụng 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.

Sự kiện mà một tỉnh có tối thiểu 59 ngôi chùa mới và tối đa 111 ngôi chùa chen chúc nhau từ thôn xã này đến làng kia, đó là một biểu tượng của sự tự do tôn giáo phát triển cực mạnh và sung mãn vô song. Việc bảo trợ và yểm trợ xây cất chùa chiền là dấu hiệu của một lòng sùng mộ thành tín đối với tôn giáo của nhà cầm quyền biết tôn trọng tôn giáo của các tôn giáo bạn.

Có một điều ít ai để ý là chính TT Diệm là người đầu tiên và duy nhất đã đem lại cho Phật Giáo một màu sắc dặc biệt mà trước đây tôn giáo này không hề có. Ngay từ những năm đầu của chế độ, ông đã lo việc thôi thúc các cơ quan liên hệ phải tìm cách để yểm trợ và tiếp tay với công việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản và Rước Ngọc Xá Lợi năm 1956 (17/5/1956) qua các đường phố thật hết sức trọng thể. Số người tham dự đại lễ tại Saigon có tới vài vạn ngườị Rồi mỗi năm cứ thế tiếp đến 1960, Lễ Phật Đản có tổ chức rước đuốc, xe hoa trên nhiều đường phố. Năm 1961 Đại Lễ Phật Đản được tổ chức ngay tại vận động trường Quân Độị Năm 1962, LPD được tổ chức tại chùa Xá Lợị Tiếp đến là ngày 8/5/1963 tại Saigon, Đại Lễ Phật Đản được tổ chức một cách hết sức trọng thể, đông người tham dự, tuy bầu không khí hơi căng thẳng.


c. Sự phát triển của Phật Giáo thời Đệ II Cộng Hòa :

Sau 1/11/1963, sau khi hạ TT Diệm xong, "làm chủ" đất nước, nhóm PG cực đoan thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền mới phải tuân theo ý muốn của ho..

Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, không coi thể thống quốc gia ra gì, GHPGVNTN mới thành lập đã làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đã đệ trình, gây nên những rối loạn pháp lý mà chỉ vài năm sau đó, Giáo Hội Ấn Quang đã là nạn nhân của những đòi hỏi phi lý đó. Sau đây là những tổ chức PG được thành lập dưới thời "độc tài quân phiệt" Đệ II Cộng Hòa :

- Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13/3/1964, có quyền cấp Cử nhân Phật học, Cao học Phật giáo và Tiến sĩ Phật học.

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4/1/1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14/5/1964.

- Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964 tại Gia Đi.nh.

- Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, Bình Hòa Tự, Long Quang Tự, Chơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12/1964, tách khỏi GHPGVNTN.

- Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.

- Phật Hội Lục Phương Tông do 2 cư sĩ Võ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.

- Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do TT Thích Tọa Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.

- Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội do TT Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.

- Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do 2 TT Thích Tâm Châu và Suk Kyung San thành lập tại Saigon năm 1967.

- Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Đi.nh.

Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn : khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam VN.

Ngày 24/4/1964, khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự trên cơ sở đất rộng 45,000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là biếu luôn.

Trong cuốn Bạch Thư 31/12/1993, HT Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đã cúng 10 triệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệụ Số tiền này được giao cho các TT Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các TT này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùạ Chi phí xây cất VNQT lúc đó được ước lượng khoảng từ 60-70 triệu đồng VN.

Nhưng vì sự lộng hành của TT Trí Quang trên chính trường miền Nam từ 1964-1966, khối PGAQ bị tan vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi GHPGAQ. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do TT Trí Quang và nhóm PG miền Trung gây rạ



9. Nghĩ sao về 5 điều đòi hỏi của Phật giáo ?

Như thế trong 5 điều đòi hỏi của PG :

ạ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.
b. Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ Số 10.
c. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.
d. Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạọ
ẹ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.

Thì yêu cầu "cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo" không đúng với thực tế. Sử gia PG Lý Khôi Việt lại đi viết :"Chính trị VN suốt 100 năm nay, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ý nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ý nói Công giáo)".

Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đã thưà biết rõ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đã tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lý do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rõ để quay lại khúc phim lịch sử này ("Theo Đỗ Mậu" trong VNMLQHT thì TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm vì chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, còn ông chống độc tài quân phiệt vì chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG thì Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đã chấp nhận một cách nhanh chóng, vì những đòi hỏi đó phù hợp với tình trạng thực tế lúc đó của thời cuộc.

10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :

TT Thích Tâm Châu đã lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đã xử dụng Cảnh sát Dã chiến để ngăn chặn các cuộc biểu tình và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.

Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đòi hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư ký) và Đức Nghiệp (Phó thư ký). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.

Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Võ Đình Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơị Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật nàỵ Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đã thường dùng các phương thức sau đây : biểu tình bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêụ

Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi vì HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơị Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. Vì TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đã họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đã ký kết một thông cá chung gồm những diểm sau đây :

- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế : Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.

- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.

- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.

- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.

- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đình nạn nhân.


Thông cáo chung vừa được ký xong thì Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi ký tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nhìn thấy chữ ký của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầụ Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào :"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".

Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.

Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu tình và bị cảnh sát dàn chàọ Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợị Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay lòng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều thì ông Diệm càng bị mắc bẫỵ Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở đầụ 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máụ



11. Trò ảo thuật của TT Trí Quang :

Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày thì nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau :

"Để tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường ho.. Các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và đợi li.nh. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mớị Hãy theo dõi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".

Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đã ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện nàỵ

Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đình Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lý do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đỗ chính phủ. Lý do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung", do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu như trước.

Rất bực mình trước thủ đoạn này ông Nhu tìm cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu tình trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính tri.. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung Còn, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cô.ng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Hòa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lãnh tụ PG chống đốị Nhưng ông không đề phòng nổi mạng lưới mà cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.


12. Sự can thiệp của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đã quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sư..

ạ Âm mưu của Hà Nội : Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đã hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn "giải phóng miền Nam". Sau đó, Đại hộ 3 ra Nghị Quyết tuyên bố

"Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam".

Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nhìn được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ ti.ch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau :"Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐ, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ".

Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước tình thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam N để chống lại sự xâm lăng của CS.


b. Đòi thiết lập các căn cứ quân sự :

Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng tình hình NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS". TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.

Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dư.. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lý do hòa hoãn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".

Phó TT Johnson tỏ ra không bằng lòng về sự từ chối nàỵ

Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đã gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau :"Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đã nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược".

PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 thì 2 ngày sau TT Diệm đã gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng". ("Hồ sơ mật Dinh Độc lập", Nguyễn Tiến Hưng).

Qua văn thư này, rõ ràng TT Diệm đã gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài lòng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. Tình hình quân sự ngày càng xấu đị

Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho tình hình quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự

c. Cái bẫy sập được đưa ra ;

Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lãnh sự tự liên lạc lấỵ Ông có cho công an theo dõị Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên tình báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.

Để có lý do hành động, TT Kennedy đã gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngaọi giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc trình khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữạ


d. Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :

Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu thì được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge trình ủy nhiệm thư lên ông Diệm.

Khi Lodge đến thì TT Diệm đã biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đã vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.

Sau khi trìh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đã từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức tình báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lãnh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đã móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh.

Trong cuốn "Our Endless War Inside VN", Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc nàỵ Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.

Trong khi Conein và các tướng lãnh VN hoạch định kế hoạch thì Lodge giả làm áp lực đòi ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vơ.. Ông cho biết nếu không làm thế thì Mỹ sẽ ngưng viện trơ.. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo đô.ng.

Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu "giải độc".Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CSA "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôị Tôi đã đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đã thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp..."


ẹ Một trò chơi nguy hiểm ?

Trước tình thế này, ông Ngô Đình Nhu đã tìm cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến để nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề nghị mở cuộc tiếp xúc giữ 2 bên. Bắc Việt chấp nhận ngaỵ Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác nhận điều nàỵ Trong cuộc gặp gỡ, 2 bên đồng ý tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong hòa
bình. Sau cuộc tiếp xúc đó, ông Nhu cố ý tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho
Washington.


Song song với sự tiết lộ của ông Nhu, TT De Gaulle lên tiếng kêu gọi lại bỏ "ảnh hưởng ngoại quốc" ra khỏi VN, còn HCM lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa thuận.

Thật ra, trong năm 1963, Lodge đã đưa ra một kế hoạch 3 giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhaụ Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Tòa Đại sứ Pháp - Hà Nộị Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông ("War of the Vanquished", Mieczyslaw Maneli). Chuyện này Mỹ biết rõ.. Nhưng hành động độc lập của ông Nhu kỳ này đã làm Washington tức giận hơn. TT kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.

Theo "Việt Nam 30 năm máu lửa" của Cao Thế Dung, nxb Alpha 1991, tr. 597, thì tới nay chưa có một văn kiện hay tài liệu khả tin nào về vụ ông Ngô Đình Nhu toan tính thỏa hiệp với HCM ngoại trừ cuốn "War of the Vainquished" của Mieczlaw Maneli đã kể trên, và một số bài báo chỉ căn cứ trên một số nhân vật và thiếu chứng cớ.


f. Từ chủ động tới công cụ :

Qua các sự kiện của lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy mục tiêu tranh đấu của nhóm PG cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu giả. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự chính là lật đổ ông Diệm, còn vụ Pháp nạn 63 chỉ là một chiêu bàị Chính Hoa Kỳ đã khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Mỹ muốn thay thế ông Diệm từ 1960 vì ông Diệm không đồng ý cho Mỹ đổ quân vào VN và thiết lập các căn cứ quân sư.. Vụ PG là cơ hội tốt để Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập Đông Nam Á. Người ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Mỹ đã cố tình thổi phồng vụ PG như một cái cớ để biện minh cho chủ trương lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh tuy do các tướng VN thực hiện, nhưng Lodge đã ra lịnh cho Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầụ Chính Lodge là người đưa lịnh cho Minh hạ sát TT Diệm và ông Nhụ Sau khi đảo chánh xong, các tướng lãnh VN đều được lãnh tiền thù laọ

Về phía VC, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế nhìn nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống ông Diệm này, vì phong trào bị đẩy lên quá nhanh họ không đi theo kịp nên đã bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Mỹ mà VC không đoán trước được. Bản kiểm điểm đã viết như sau :

"Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt từ ngày 5/8/63 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đã tiến hành mít-tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn dại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do "lãnh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp phong trào" nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu PG lái di lệch hướng.

Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của MỹĐiệm.

Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa "phong trào PG" ở Huế đã mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đã đẩy chế độ MỹĐiệm từ trạng thái không ổn định đi đến tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh lũy cuối cùng" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).

Về phía PG, TT Trí Quang và các lãnh tụ PG khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đã đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn VC. Sau này khi Mỹ hết xử dụng lá bài PG, họ đã bật đèn xanh cho Tướng Kỳ dẹp bỏ. TT Trí Quang trong khi đó vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ PG như trước, nên đã đánh điện kêu cứụ

Sau khi chính phủ Diệm bị lật đổ, các lãnh tụ PG chùa Từ Đàm tin rằng sự "nổi dậy của PG" đã làm cho chính phủ Diệm bị sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn tiếp theo gây đau thương cho chúng tăng và cho cả đất nước miền Nam tự dọ


Đòi nợ máu, diệt Công giáo, ngụy hòa và cướp chính quyền


3 năm sau khi chế độ NĐ sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là "3 năm xáo trộn", 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không còn chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai thì bắt, muốn phá chỗ nào thì phá, muốn đốt nơi nào thì đốt, muốn giết ai thì cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của ho..

Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ "lật đổ" được NĐ, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lạị Say men chiến thắng, họ đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đòi một "quy chế đặc biệt" cho PG, rồi đòi "diệt dư đảng Cần Lao TCG", đòi đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đòi hỏi phiêu lưu này không được thỏa mãn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.



1. Một biến cố bất ngờ :

Sau khi tiếng reo hò ngày 1/11/63 chưa dứt thì một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc "chỉnh lý" này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậỵ

Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh : "Từ 3 tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp".

Các nhà bình luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy vì các lý do :

- Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.

- Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lãnh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Lodge đã gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng khi họ đã củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ý D'Orlandi đã lưu ý 2 tướng Đôn và Kim (vẫn còn giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp :

"Sau hết, tại nước này hiện nay, it khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan tro.ng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp.

"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...

"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN".


Vào tháng 3/64, TT Johnson đã chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ý tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ý kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.

Quan điểm của Lodge rất quan tro.ng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.

Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.



* Tiễn đưa "ân nhân" :

Khi biến cố "chỉnh lý" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đã nói với các ký giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đã nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong thì bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đã làm nhóm PG đấu tranh khó chịụ

Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ


2. Đòi nợ máu :

Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đã nhận xét :

"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đã hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".

Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đòi nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :

- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Tháị

- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.

- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...


Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh còn do dư.. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân thì có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đã chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đã không dám đáp ứng đòi hỏi củ TT Trí Quang.

Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đã làm cuộc "chỉnh lý". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.

Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy thì còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đã ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 ngườị Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ



ạ Vụ Phan Quang Đông :

Ngày 26/3/64, Tòa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.

Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và tình báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên tình báo của Pháp, nên PQD đã bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm thì Nguyễn Phương đã nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đình Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư vì đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc trình cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc trình được Đỗ Mậu trình lên TT Diệm và sau đó vụ này không còn nhắc tới nữa.

Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của hình luật để xử tử hình PQD và Ngô Đình Cẩn thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử hình ngày 28/3/64.

No comments: