Wednesday, September 30, 2009

HGTLT- Phật Giáo Ấn Quang: Tội Bất Dung Tử



Audio

Phật Giáo Ấn Quang: Tội Bất Dung Tử



Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


« Tội bất dung tử », đó là lời của cổ nhân đã dạy, thì quả đúng, chẳng hề sai, đối với những tên mà đôi tay đã nhuộm đầy máu của đồng bào vô tội, thì bất kể là ai, và cho dù có bị xử chết, cũng không hề xóa hết được những tội ác mà chúng đã gây ra.


Lịch sử đã chứng minh: Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, đã cho mọi người trên quả địa cầu này thấy một cách rất rõ ràng: đã có biết bao nhiêu tên tội phạm, đã từng giết nhiều người vô tội, dù cho có bị bêu đầu, treo cổ, nhưng mãi mãi vẫn còn bị người đời nguyền rủa.


Riêng tại Việt Nam, kể từ khi tôi đã đủ trí nhớ, vào một thuở thanh bình, của những năm đầu tiên của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Thời kỳ ấy, đối với tôi là những tháng năm êm đềm nhất, tôi đã được sống giữa những tiếng cười, câu hát vang vọng giữa ngàn dâu. Thế nhưng, kể từ khi cái « Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam » đã ra đời vào ngày 20-12-1960. Và đó, cũng là lúc những người dân hiền hòa của quê hương tôi, đã phải sống và chứng kiến với những cảnh lữa khói ngút Trời, những tiếng khóc thay cho tiếng cười. Riêng tôi, không bao giờ quên được trong một lần chạy giặc, vào mùa hè 1972, lúc đó quận Tiên Phước đã bị Việt cộng đánh chiếm và kiểm soát hoàn toàn, nên mọi người phải cùng nhau chạy xuống thị xã Tam Kỳ, có người đã chạy ra Đà Nẵng, thì tại Núi Sấu, thuộc xã Phước Tiên, quận Tiên Phước, Quảng Nam; tôi đã nhìn thấy một người lính Nghĩa Quân, là một người chồng đang quỳ bên thân xác của người vợ đã bị trọng hương sắp chết, người vợ trẻ đã thì thào nói với chồng:


« Anh hãy mau mau bồng con chạy trốn đi, vì em biết rằng mình không sống được nữa, nếu anh cứ bịn rịn, thì cả vợ chồng và con cái phải đều chết hết, anh phải sống vì hai đứa con của mình ».


Trước cảnh tượng thương tâm ấy, thì những người cùng chạy giặc, cũng đều thúc hối anh phải nghe theo lời của vợ, vì anh và mọi người không ai có thể làm gì được khi chị ấy đã sắp chết. Vì thế, người lính Nghĩa Quân đã phải quỳ xuống đất bên xác vợ, và đã chắp hai tay mà cứ cắm đầu, cúi cổ lạy người vợ trẻ, lúc đó đã hôn mê, rồi anh được bà con dìu anh đứng dậy và đã tay bế, tay dắt hai đứa con thơ, đứa lớn là một bé trai chừng bốn tuổi, còn đứa nhỏ là một bé gái chưa biết đi. Anh đã bước đi trong nước mắt của anh hòa cùng tiếng khóc cảm thương của đồng bào. Tôi không biết, rồi sau đó, anh có còn tìm lại được nắm xương tàn của người vợ trẻ hay không, tôi cũng không biết giờ này anh đang ở nơi đâu? song hình ảnh ấy, nó đã khắc sâu trong tôi cho đến bây giờ, và mãi mãi.

Vậy, « Đoạn trường ai có qua cầu mới hay », nên tôi thiết tha xin những ai chưa hề nếm trải những đau thương, chưa hề là nạn nhân của những thảm cảnh tử biệt, sinh ly, và không chứng kiến với những màn đánh, giết người, dập đầu, treo cổ, còn ác độc hơn cả loài lang sói, thì xin hãy lặng thinh, trước những đớn đau của những người khác, hãy để cho những người đã từng sống từng đau khổ, họ được nói lên những điều mà nhiều người chưa biết.


Và chính tôi, tôi là một phụ nữ yếu đuối, song đã từng nếm trải hết những mùi tân khổ, đã sống qua những tháng năm dài trong đớn đau và đầy nước mắt. Chính vì thế, nên tôi đã thấu hiểu được những nỗi đau của những người đồng cảnh ngộ, thì giờ đây, tôi phải được nói, nói lên tất cả những tang thương của những đồng bào ruột thịt của tôi, tôi phải nói thay cho những người đã chết một cách tức tưởi, và những người còn sống với vô số những oan khiên, nhưng họ không thể cầm bút để viết lên được những nỗi đớn đau của chính mình. Tôi xin thành tâm để được nói, xin mọi người, trong đó có những người thân của tôi, nếu không muốn nói, thì cứ xem tôi là người xa lạ, chứ đừng nên trách móc gì tôi.


Tại sao tôi đã gọi: Tội ác của Võ Văn Ái: « Tổng thư ký Ban chấp hành Trung ương Phật giáo Việt kiều Hải ngoại » và Thích Nhất Hạnh, qua ngụy thư « Hoa Sen Trong Biển Lửa? »


Tôi xin thưa: Như mọi người đã thấy, tất cả các tòa án ở những quốc gia dân chủ- văn minh trên thế giới, một khi đã đem một phạm nhân ra để xét xử, họ đều phải truy nguyên từ nguồn gốc của tội ác, cùng mức độ gây ra trọng tội. Nhưng, tại Việt Nam, đã mấy chục năm qua, nhưng những kẻ đã từng xuống tay sát hại dân lánh, từng dập đầu, treo cổ trẻ thơ, từng đốt nhà hàng loạt, mà vẫn không hề đối đầu với luật pháp, và những nạn nhân có đi đến kêu cầu công lý, thì cũng chỉ được nghe những lời « chia xẻ » mà thôi.


Cũng vậy, ta thử truy nguyên về những tội ác của Phật giáo Án Quang đã gây ra, đã giáng xuống cho hàng vạn người dân lành vô tội không phân biệt nam, phụ, lão ấu!!!


Ở đây, tôi sẽ bắt đầu từ cuốn ngụy thư « Hoa Sen Trong Biển Lửa », vì đó là thời gian tôi đã trưởng thành. Với cuốn « sách » này đã có bàn tay của Võ Văn Ái, lúc đó là đệ tử của Thích Nhất Hạnh, Y đã viết lời « Tựa », trong lúc giữ chức: « Tổng thư ký Ban chấp hành Trung ương Phật giáo Việt kiều Hải ngoại, tức là một đảng bộ của « Phật giáo Xã hội đảng » đã được thành lập tại hải ngoại và đã «đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu » với « Trung ương Phật giáo Xã hội đảng » ở trong nước. Một cuốn sách đã được viết ra với tất cả những điều láo khoét, từ chiếc xe bò với người thiếu phụ cùng đứa con thơ và bà mẹ già, cho đến chuyện máy bay của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã bắn giết, đốt nhà của đồng bào, tất cả đều hoàn toàn là bịa đặt.


Nhưng, cuốn ngụy thư này, lúc đó đã được thầy trò của Thích Nhất Hạnh là những tên phản chiến, đã đem dịch ra nhiều ngoại ngữ, và đem phổ biến khắp nơi, để rồi giới chính khách ngoại quốc, cũng như ngoại nhân vì không biết gì về cuộc chiến tại Việt Nam, nên tất cả họ chỉ biết những điều qua cái lời « TỰA » của Võ Văn Ái và của Thích Nhất Hạnh. Chính vì thế, mà họ đã đứng về phe phản chiến, họ đã mất đi thiện cảm với Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa và cả những người chiến sĩ đang chiến đấu để bảo vệ Miền Nam Tự Do, trong khi cộng sản Bắc Việt đã ồ ạt xua quân vào miền Nam và giữa lúc những người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang nằm sương gối súng ở những nơi rừng sâu, núi thẳm; có những lúc đơn vị của họ đã bị rơi vào vòng vây của địch, họ đã phải chịu đói, khát, có khi giữa sự sống -chết họ đã phải mở đường máu để vượt khỏi vòng vây; và vì thế đã có không biết bao nhiêu người chiến sĩ đã phải vĩnh viễn bỏ mình nơi chiến địa!!!


Và đó, chính cuốn ngụy thư « Hoa Sen Trong Biển Lửa » đã được phát hành rộng rãi tại hải ngoại, là một nhát dao chí mạng mà Võ Văn Ái và Thích Nhất Hạnh, đã đâm đằng sau lưng của tất cả quân -dân Miền Nam Tự Do. Còn hiện nay, về câu chuyện của « Tăng thân Bát Nhã », thì tôi muốn nói rằng: một lần nữa Thích Nhất Hạnh hãy dừng ngay những việc làm bất nhân thất đức, là đừng lấy những « tăng thân » để làm « phương tiện cho cứu cánh … ».


Trở lại với thời kỳ trước 30-4-1975, thì tại quốc nội, từ những tên cầm đầu của « Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất » tức Ấn Quang như: Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Quảng Độ, Thích Thiện Minh, Thích Đức Nhuận, Thích Thiện Hoa v…v… tất cả cũng đã đều liên thủ với Việt cộng kể từ những năm đầu của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, cho đến sau này, Phật giáo Ấn Quang đã gây ra vô số tội ác, mà cho dù có chết đi rồi, thì vẫn không bao giờ được dung thứ.


Và để chứng minh cho những hành vi làm giặc của Phật giáo Ấn Quang, thì tôi xin trích lại những lời của Thích Quảng Độ đã viết trong cuốn ngụy thư thứ thứ hai: « Nhận định những sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt Nam Thống nhất», cũng do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và phát hành, trong đó có những điều nó chẳng hề có liên quan gì đến cái tựa đề của cuốn sách như sau:


« Chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các tôn giáo khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đình Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11-1963, chế độ ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ ».


Và rồi đến ngụy thư thứ ba lại cũng do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và đã đăng trên báo « Quê Mẹ » số 113, trang 06, tháng 06 năm 1995, với cái tựa đề:


« Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên », của Thích Đức Nhuận « nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất » tức Ấn Quang.

http://www.quangduc.com/tacgia/htducnhuan.jpg
Thích Đức Nhuận, sinh 14 tháng chạp năm Quý Hợi ( thứ bảy, ngày 19 tháng giêng năm 1924) viên tịch tại Chùa Giác Minh, Sàigòn,, lúc 16.53 phút, thứ hai, 21 tháng giêng năm 2002 (nhằm ngày mùng 9 tháng chạp năm Tân Tỵ). Thọ thế 79 tuổi đời, 59 tuổi đạo.

Mở đầu Thích Đức Nhuận đã viết:


« Tôi viết những dòng chữ dưới đây thân gửi những tâm hồn luôn luôn thao thức đến tiền đồ Dân tộc và Đạo pháp, dù bạn hiện ở trong nước hay ở ngoài nước, xin hãy hướng lên Đức Phật từ bi cao cả nguyện cầu cho Tổ quốc và đồng bào thân yêu của chúng ta: sớm chấm dứt mọi hận thù, biết tha thứ và yêu thương nhau để cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước Việt Nam Quang Vinh ». (sao nghe nó sặc mùi cộng sản, lúc nào và cái gì cũng dùng hai chữ « quang vinh ».)


Những lời nói trên của Thích Đức Nhuận, cũng do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và phổ biến, từ tháng 6 năm 1995; đây đích thực là lời kêu gọi mọi người hãy xóa bỏ hận thù mà Hòa hợp- Hòa giải vô điều kiện với Việt cộng, mời quý độc giả hãy đọc thêm một lần nữa: « …dù bạn hiện ở trong nước hay ngoài nước, hãy sớm chấm dứt mọi hận thù, biết tha thứ và yêu thương nhau để cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước Việt Nam Quang Vinh ».


Đến trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:


« Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập».


Nên ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được bầu lên ngôi «Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản ».


Qua những lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết. Thì rõ ràng là Thích Đức Nhuận đã công khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói: « Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ… » là để đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng hơn cả là: « đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ». Như thế, đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi người hiểu được rằng: Phật giáo Án Quang « phát khởi cuộc vận động chống chế độ và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ». Nghĩa là gồm cả cộng sản Bắc Việt.


Tôi cũng biết trước, sẽ có những tên ngu đần, láo khoét, gian manh, lừa bịp chúng sẽ biện minh một cách ngu xuẩn rằng: « Từ Bắc chí Nam là gồm những người Bắc di cư và đồng bào miền Nam». Nên biết, sau ngày 30-4-1975, khi người Việt Nam vượt biển đến HongKong; thì chính Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã xếp những đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam và đồng bào miền Nam là một, vì tất cả đều là những công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, và họ đã ở chung một trại; còn những người vượt biển từ miền Bắc họ phải ở riêng một trại khác. Trừ một vài trường hợp đặc biệt mà thôi.


Trên đây, là những điều mà tôi muốn phân tích cho lũ lưu manh, để chúng đừng có ngu đần mà có thể ngụy biện cho những lời của Thích Đức Nhuận đã được Võ Văn Ái giới thiệu trên báo « Quê Mẹ ». Chúng ta phải biết, vào thời điểm 1963, mà Thích Đức Nhuận đã nói: Phật giáo Việt Nam (chứ không phải là GHPGVNTN) đã phát khởi cuộc vận động chống chế độ… và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ », là Thích Đức Nhuận đã nói đến địa dư của cả nước. Vậy, ta hãy nghe Thích Đức Nhuận nói thêm một lần nữa: « Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm… và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ », thì ta phải biết trong đó có cả cộng sản Bắc Việt. Điều này, tôi chắc chắn, cho dù có đến cả ngàn « ông » Luật Sai Đinh Thạch Bích, cũng không làm sao có thể biện minh nổi cho những lời của Thích Đức Nhuận đã được Võ Văn Ái giới thiệu trên báo Quê Mẹ.

Phật giáo Ấn Quang: Tội Bất Khả Nguyên.


Tội bất khả nguyên: Nghĩa là tội không đáng hay không thể nguyên lượng được. Bởi những tội ác của Ấn Quang quá lớn, trong đó có những tên đã cầm gạch, đá, gậy gộc và cầm đao, cầm súng để sát hại dân lành. Ngoài ra còn có những tên « cư sĩ » như: Lê Văn Hảo, Nguyễn Đan Quế, (tôi sẽ có bài viết những việc làm của Nguyễn Đan Quế lúc có mặt tại Pháp) ) Đoàn Viết Hoạt v…v… Riêng Lê Văn Hảo đã từng ở trong cái « Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam » của Võ Văn Ái, cũng đã từng đi trong « phái đoàn » của Võ Văn Ái đến Trụ sở của Liên Hiệp Quốc tại Thụy Sĩ để « tranh đấu ». Tôi vẫn còn lưu giữ những số báo Quê Mẹ, trong đó, có bài « tường trình » về chuyện đi « tranh đấu » của Lê Văn Hảo và Võ Văn Ái. Vì vậy, Võ Văn Ái cũng là một trong những tên đã nhúng tay vào tội ác. Tội ác không phải chỉ có riêng cho những tên đao phủ, mà kể cả những kẻ đã đứng đằng sau của những tên đao phủ, và Võ Văn Ái đã từng đứng đằng sau của những tên đao phủ ấy, Võ Văn Ái đã đâm sau lưng các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong lúc họ đang đem máu xương để bảo vệ đồng bào và Miền Nam Tự Do. Nên nhớ, Võ Văn Ái chưa hề và không hề làm một việc nhỏ nào để góp phần vào công cuộc « Bảo Quốc An Dân » suốt trong cả chiều dài của cuộc chiến Quốc-Cộng tại Việt Nam, mà Võ Văn Ái đã tìm cách để ra hải ngoại từ thời Đệ Nhất VNCH, để chỉ cùng Thích Nhất Hạnh thành lập ra tổ chức « Phật giáo Việt kiều hải ngoại », mà Võ Văn Ái đã giữ chức « Tổng thư ký Ban chấp hành Trung ương Phật giáo Việt kiều hải ngoại » và để viết cuốn ngụy thư « Hoa Sen Trong Biển Lửa » để hô hào phản chiến, đòi Mỹ rút quân và không ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, để rồi kết quả là Miền Nam Tự Do đã rơi vào tay của cộng sản Hà Nội. Như thế, không phải là một tội ác là cái gì nữa chứ???


Ngoài ra, ta cũng phải biết, trong suốt chiều dài của cuộc chiến Quốc – Cộng, thì tất cả những tên thầy chùa, những tên « cư sĩ » ở trong và ngoài nước, một lần nữa tôi nhắc lại: chúng đều « đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ». Cả lũ Ấn Quang đã từng liên thủ với cộng sản Hà Nội, để đánh đổ cả hai Nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, cho đến trước những ngày 30-4-1975, bọn Ấn Quang đã đưa cả đoàn xe ra tận núi rừng để đón rước cộng quân vào các thành phố của Miền Nam, rồi chúng cũng đã tổ chức « Lễ mừng chiến thắng của cách mạng » ngay tại chùa, đồng thời cũng đã tổ chức « Lễ mừng sinh nhật tên đại việt-gian Hồ Chí Minh » cũng ngay tại các chùa. Để rồi sau đó, có một số vị là Dân-Quân-Cán-Chính của Việt Nam Cộng Hòa, họ đã bị Phật giáo Ấn Quang giết chết, trước khi Việt cộng tiếp thu chính quyền của miền Nam, mà tôi đã viết qua bài: 30-4-1975: Máu và Nước Mắt. Và người dân của miền Nam họ cũng đã bị đày đọa ở trong và ngoài nhà tù của cộng sản cho đến cùng cực của nỗi đớn đau.


Chính vì thế, nên đã có không biết bao nhiêu vị đã bỏ mình trong các nhà tù « cải tạo » của Việt cộng, có nhiều vị khi ra khỏi nhà tù đã trở thành những tấm thân tàn phế!


Rồi đến thảm cảnh vượt biên, vượt biển cũng đã có không biết bao nhiêu người, kể cả trẻ thơ đã chết trên con đường vượt thoát nhà tù Việt cộng. Họ đã chết ở những nơi nào? nắm xương tàn của họ đã vương vãi đâu đó trên bìa rừng của biên giới Thái- Miên, hoặc đã làm mồi cho cá dưới đáy biển, và đau thương nhất vẫn là những cái chết hãi hùng của những em bé gái, các em đã chết bởi những bàn tay của hải tặc, rồi thân xác của các em đã bị ném xuống biển khơi. Những thảm cảnh, bi thương ấy, thử hỏi giấy mực nào, ngôn từ nào của nhân loại để kể cho hết tội của Phật giáo Ấn Quang. Chúng ta phải biết rằng, bọn việt gian cộng sản giết hại dân lành là việc làm bình thường của chúng, kể từ những cuộc « cách mạng » có máu đổ đầu rơi, từ « Cải cách ruộng đất » đến « Nhân Văn Giai Phẩm » v …v…, cả thế giới này đều biết. Nhưng, Phật giáo Ấn Quang đã nhân danh là « tôn giáo » mà đã xuống tay một cách tàn ác, dã man để giết hại những người dân lương thiện, trong đó có một thiếu niên Lê Quang San đã bị «Quân Đoàn Vạn Hạnh » đánh đập đến mềm xương, rồi bắn em gục chết ngay trước cổng chùa Pháp Lâm, tức chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Quảng Nam-Đà Nẵng, tức Ấn Quang, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng.


Chính vì thế, nên giờ đây, tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính, họ phải nói, phải viết lại tất cả những gì mà họ đã chứng kiến, và đó là tiếng nói của lương tri của một con người. Những điều này hoàn toàn không có một chút gì gọi là đánh phá tôn giáo hay Phật giáo, vì chẳng có ai động tới « Phật- pháp » cả, mà chỉ vì Phật giáo Ấn Quang đã từng liên thủ với cộng sản Hà Nội trong suốt mấy chục năm qua, để rồi đã đưa đến những thảm cảnh, những cái chết vô cùng đau thương của người dân Việt. Như vậy, còn gì để nói, để trách tôi và khuyên tôi nên thế này, thế khác? vì tôi chỉ là một phụ nữ yếu đuối, và chỉ là một người chỉ biết cầm bút để viết lên những gì mà mình đã chứng kiến. Tôi đã ghi rõ họ, tên, chánh trú quán của từng nạn nhân đã chết thảm dưới bàn tay của Phật giáo Ấn Quang, chứ tôi không hề thêm bớt một điều gì cả.


Vậy, cũng nhân đây, tôi muốn nói với cả lũ gian manh kia, là ta đây, chưa bao giờ và không bao giờ biết sợ những cái thứ nhảm nhí như: Thư, ếm, bùa, ngải, đặc biệt là những trò giả phù thủy, với những tiếng kêu réo « gọi hồn », mỗi lần kêu tên người ta ra mà rủa sả và « nộp hồn » nghe giống như những tiếng tru của những con Chó Sói đang ngửa mõm để sủa trăng. Nói thật nhé, ta đây, đã từng đi đến từng chiếc giường bố của nhà binh, để vuốt mặt cho rất nhiều vị là những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bị tử trận, khi họ đã được trực thăng đưa thân xác của họ trở về đơn vị. Nói tóm lại, là ta không biết sợ ma, và không bao giờ tin, và không bao giờ sợ những tên phù thủy bịp.


Và để trả lời một lần cho rõ là tại sao tôi đã viết là TỘI ÁC ở trong một bài trước:

Vì chính những tội ác mà bè lũ Ấn Quang, trong đó có những tên « cư sĩ » như Lê Văn Hảo,Võ Văn Ái, Nguyễn Đan Quế v…v..; đã gây ra, trên khắp nẻo đường của đất nước, mà cho dù có lấy hết nước của đại dương cũng không bao giờ rửa cho hết tội. Vì thế, nên tôi mới cả quyết: Phật Giáo Ấn Quang: Tội Bất Dung Tử.


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Nguyễn Đan Quế-(còn gọi là Nguyễn Châu; sinh năm 1942)NDQue.jpg image by delta38_1


Tiến sĩ Lê Văn Hảo.



The Path of a Patriotic Intellectual

by Le Van Hao


Hue-Paris-Saigon (1953-1965)

Born to a wealthy bourgeois family, I have only vague
memories of the August Revolution (1945) in my native Hue:
a sea of red flags, the glittering golden star over demonstrating
crowds of both sexes and all ages. I recall, with deep emotion,
the little pioneer I was then, marching joyfully in time to the
drum.



.

No comments: