Thursday, August 19, 2010

bản cáo trạng của Phản Chiến Võ Văn Ái dành cho VNCH sau 35 năm




























LTS... Đây là bản cáo trạng của Phản Chiến Võ Văn Ái dành cho VNCH sau 35 năm Võ Văn Ái thành công việc bức tử Miền Nam Việt Nam qua các vận động Quốc hội Hoa Kỳ ngừng viên trợ cho VNCH trước năm 1975.

phần Audio của Phản Chiến Võ Văn Ái phát trên radio nhục mạ VNCH và kết luận quả quyết rằng chỉ có Phật giáo mới có thể giải trừ quốc nạn mà pháp nạn mà thôi, không có ai làm khác được ( Phản Chiến Võ Văn Ái thách đố Lực lượng hàng hải và hạm đội USS của Hoa Kỳ dù có cố găng bảo vệ Biển Đông cũng hoàn toàn thất bại) Những có quan đã viện trợ nuôi Phản Chiến Võ Văn Ái bao nhiêu năm nay xin đọc bài này.

Chúng tôi chuyển phần âm thanh thành bài viết để mọi người Phật giáo hay tất cả những người Việt Nam tìm hiều hư thực về những lời thách thức của Phản Chiến Võ Văn Ái đại diện cho Văn phòng II Viện Hóa Đạo đưa ra lời thách dố với những ai vạch trân tội ác PG Ấn Quang giết người năm Mậu Thân và vạch trần âm mưu “ hòa hợp hòa giải kiều đầu hàng qua lời kêu gọi nằm nhà biều tình tại gia của Rậm râu, sâu máu Quảng Độ. Đây là tư cách hung hăng, gian xảo, lật lọng lịch sử được truyền lại nhiều đời trong PG Ấn Quang được thi hành qua Phản Chiến Võ Văn Ái , văn phòng II Viện Hóa Đạo và Lực Lượng Chấn Hưng Phật Giáo Tuệ Kiếm, Bảo Kiếm Quốc, Quan 5 thờ cộng Trần Văn Thưởng. và các chùa dưới ông dù GHPGVNTN Chúng tôi ngạc nhiên là những người tham dự buổi nói chuyện của Phản Chiến Võ Văn Ái không phản đối, họ đã vỗ tay hoan hô . Nếu họ đồng ý và vỗ tay hoan hô như trong đoạn âm thanh ghi lại thì hành động đó nói lên họ là chính là việt gian tòng phạm với tội ác của PG Ấn Quang và trước những hành động gian xảo, tráo trở của tên Phản Chiến Võ Văn Ái cố tình xóa tất cả tội ác của PG Ấn Quang đối với đồng bào Huế, và các nạn nhân của PG Ấn Quang trong suốt chiều dài của Biến Động Miền Trung và trên toàn lãnh thổ Việt Nam do PG Ấn Quang gây ra. Chúng ta chưa hề nghe PG Ấn Quang nhìn nhận tội ác, sám hội tội ác, chưa hề xin lỗi các nạn nhân và nhân dân Việt Nam thay vào đó họ đã hoan hô Phản Chiến Võ Văn Ái, họ tung ra những cây viết chửi bới, nhục mạ VNCH. Nhiều văn kiện từ chính quyền VNCH, tài liệu Cộng Sản, tài liệu PGẤn Quang, tài liệu Hoa Kỳ cho thấy giới sư tăng của PG Ấn Quang từ Đôn Hậu, Huyền quang, Quảng Độ và nhiều nhiều nữa đã tiếp tay với Cộng Sản , tay họ dính vào máu nhân dân Huế và nhân dân Miền Nam Việt Nam. Chính Phản Chiến Võ Văn Ái là người đã yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho VNCH đang bảo vệ Miền Nam. Văn kiện Phản Chiến Võ Văn Ái bức tử VNCH được Tin Paris tố giác từ tài liệu CIA


Audio lưu trữ

http://blip.tv/file/get/Kynguyen2000-VoVanAiBangCaoTrangDanhChoVNCHSau35Nam417.wmv


Trích từ Audio của Quê Mẹ…

Những âm mưu đánh phá qua một số bài viết gần đây trong bài tham luận của Võ Văn Ái tại đại hội khoán đại IV của GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ vừa qua ở chùa Điều Ngự , California. Đề tài tham luận là Nhân Quyền- Tôn Giáo và Hướng GHPGVNTN “giải trừ quốc nạn” và “ pháp nạn”.

Võ Văn Ái nói:

Tôi xin đi qua một cái hiện trạng mà chúng ta đang vấp phải hiện nay là sự đánh phá Phật giáo (PG Ấn Quang), đánh phá hàng lãnh đạo. Đặc biệt họ nhắm vào Đại lão hòa thượng thích Quảng Độ ( Rậm Râu Quảng Độ) vì ngài hiện nay là người lãnh đạo tối cao. Thì muốn đánh xập một tổ chức, thì đánh cũng như người ta nói muốn giết rắn thì phải chặt đầu rắn. Dĩ nhiên là phải đánh vào cái vị lãnh đạo tối cao mà chúng ta thấy ít nhất trong sáu (6) tháng qua, sự đánh vào đại lão hòa thượng thích Quảng Độ rất là dữ dội. Thì hiển nhiên thưa với quí vị chúng ta dọc cái internet, đọc email bài đó thì chúng ta không có để ý là bởi vì cái ngôn ngữ vừa thô bỉ, vừa hạ cấp thi chúng ta không cần thiết phải mất thì giờ để đọc. Chúng ta cũng không tin vào lời đánh phá đó. Nhưng mà thưa rằng, ngoài phật tử chúng ta còn có khối quần chúng rất lớn. Mà quần chúng 1- dễ tin, 2- không biết nhiều đến Phật giáo thành họ cứ đọc hoài những cái chuyện đó rồi một hồi họ tin. Họ tưởng đâu rằng là giáo hội chúng ta là như vậy. Thành ra tôi nhớ tới một câu nói bất hủ của ông Gerbel (?) , cũng như ông Hitler, ông Hitler viết trong cuốn Cuộc Tranh Đấu Của Tôi . ông nói: lời dối gạt nói 10 lần vẫn là lời nói dối, nhưng nếu nó được lập lại 1000 lần thí nó thành ra sự thật. Đó là trong cuốn của ông Hitler. Và đặt biệt là cái ông giữ bộ phận tuyên truyền của Đức Quốc Xã là ông Gerbel (? ) Thì có một câu rất bất hủ. Câu bất hủ đó đã thành công để cho Đức Quốc Xã phát triển rất mạnh mẽ tại Châu Âu. Nếu không nhờ quân đội đồng minh đánh tan thì cái chủ nghĩa Phát xít giữa trục Đức – Nhật-Ý sẽ hoành hành làm cho thế giới của chúng ta tan tác. Cái câu của ông Gerbel (?) Ông nói rằng: Nếu chúng ta lập đi lập lại mãi mãi một lời nói láo thì nó sẽ thành ra chân lý. Thành ra một sự thật. Bằng cớ là chúng ta đã thấy từ sáu (6) tháng qua đã có một số bài viết tập trung vào mạ lỵ đại lão hòa thượng thích Quảng Độ làm có một số người nghe. Câu nói của Gerbel (?) là câu làm cho chúng ta phải đáng lưu tâm. Và lưu tâm như vậy chúng ta phải có một thái độ, chúng ta phải có một đối sách, chúng ta phải có những bài viết. Không phải là để chửi bới họ, nhưng mà trình bày sự thật ra như là sự thật. Mà nếu không thì rất nguy hiểm. Chúng tôi thấy rằng sự đánh phá Phật giáo ( PG Ấn Quang ) trong sáu (6) tháng vừa qua và trước đây cũng có rất nhiều. Nhưng mà trong (6) tháng vừa qua thì rất là kịch liệt. Họ đánh vào hai phương diện:

1- Mậu Thân, một cuốn sách của ông Liên Thành đã tố cáo rằng tất cả chư đại tăng (PG Ấn Quang ) của chúng ta đều là Cộng Sản nằm vùng hết. Đưa Cộng Sản vào thành phố Huế, giết dân Huế.

2- Sự mất nước vào ngày 30-4 đó là cái lỗi của Phật giáo. Phật giáo đi đêm với Cộng Sản. Phật giáo giúp Cộng Sản. Nếu không có Phật giáo thì Cộng Sản không có thể chiếm Miền Nam được.

Đó là những bài viết hết sức là độc hại. Độc hại không phải đối với người phật tử vì người phật tử dư biết chuyện đó là không thật. Nhưng mà nó độc hại là cho những người không phải là Phật giáo, những người thuộc tôn giáo khác những người chống cộng hiện nay. Họ tin vào những cái đó và tự nhiên họ thấy rằng Phật giáo không còn một ý nghĩa dân tộc như là một-hai năm trước đây. Nhìn tất cả cái một –hai năm trước đây thì tất cả lời kêu gọi của HT Quảng Độ ( Rậm Râu Quảng Độ) đều được tôn vinh, Đức cố tăng thống cũng vậy. Cả những văn kiện từ năm 1992 cho tới những năm gần đây có thể nói là tất cả mọi giới trong cộng đồng chúng ta đều hoan nghênh hết. Nhưng mà gần đây, tự nhiên người ta ngờ ngật là vì những bài viết nói rằng đã nói rằng Phật giáo đã đưa Cộng Sản vào Mậu Thân -Huế và vấn đề mất nước. Thì chúng tôi nghĩ rằng : chúng ta thừa bản lĩnh để trả lời. Nhưng mà thưa với quí vị, khi trả lời, chúng ta không nên có thái độ hung hăng hạ cấp thô bỉ như những người đánh phá chúng ta. Chúng ta nên dùng những tư liệu lịch sử chính xác để có thể chứng minh cho họ thấy rằng họ nói sai. Và tôi nói với quí vị thì chúng nói với sự thật. không phải là tôi là người đem lại sự thật. Mà chúng tôi có những tư liệu lịch sử rất là quan trọng. Thì xin thưa với quí vị cố gắng hãy đọc những hồ sơ giải mật của CIA, của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Bởi vì theo trong truyền thống lịch sử thì những tư liệu sau 50 năm thì mới được quyền công bố. Thì bây giờ đây đã có hai nơi Hoa Kỳ là Bộ Ngoại Giao và CIA đã công bố hai lần hồ sơ giải mật. Thì bây giờ chúng ta chỉ cần lấy những tư liệu trong những hồ sơ giải mật đó, chúng ta có thể đánh phá tan tành những luận điểm cho rằng Phật giáo (PG Ấn Quang ) là Cộng Sản.

Tôi xin trích đưa ra một vài cái để quí vị có được một số lập luận để chống lại những cái điều đó. Thưa với quí vị , việc nói rằng Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản là do Phật giáo ( PG Ấn Quang ) là điều hết sức sai lầm. Nếu chúng ta chỉ đọc những tư liệu của Bộ Ngoại Giao và CIA giải mật thì chúng ta biết rằng “ chính Mỹ bỏ Miền Nam chứ không phải ai hết cả.

Bằng cớ là chúng ta thấy rằng năm 1975, nếu chúng ta đọc những tư liệu ông Kissinger đến Sài gòn ép ông Thiệu phải ký kết Hiệp Định Paris, mà chính ông Thiệu đã phải khóc trước mặt Kissinger và cũng phải chịu ký như thường. Và chúng ta thấy một điều rất rõ ràng là Hoa Kỳ đã thúc ép ông Thiệu phải tù chức để giao cho ông Dương Văn Minh thành lập cái chính phủ liên hiệp để mà đầu hàng Cộng Sản, chó không phải để một chính phủ bảo vệ Miền Nam đâu. Và ngay cả khi ông Dương Văn Minh lập một chính phú thì Hoa Kỳ cũng ép buột phải cho danh sách của nội các đó để dưa cho Hà nội ( việt gian Cộng Sản Hà nội) xem. Hà Nội yêu cầu cho xem nội các đó gồm có những ai. Thì mình thấy Hoa Kỳ đẩy Miền Nam vào tay Cộng Sản chứ không có ai khác hết. Đặc biệt không phải là Phật giáo. Mà điều đó không phải là chỉ năm 1975, mà chúng ta có những chứng cớ, có những cuốn sách viết rõ về cái điều đó. Ngay từ năm 1972, bây giờ hồ sơ giải mật cho chúng ta thấy cái cuộc nói chuyện giữa ông Kissinger với ông Chu Ân Lai hai tiếng đồng hồ. Đọc hai tiếng đồng hồ đó thì rõ ràng là ông Kissinger giao Miền Nam cho Chu Ân Lai. Tức là giao cho Trung Cộng. Kể từ cuộc nói chuyện của ông Chu Ân Lai đó thì ông Lê Đức Thọ tại Paris nhất quyết cứ ngồi thương thuyết và không chấp nhận bất cứ lời nào của Hoa Kỳ hết. Nhưng mà kể từ khi ông Kissinger giao Miền Nam cho ông Chu Ân Lai thì tức khắc một tuần sau ông Lê Đức Thọ chấp nhận tất cả những yêu sách của Hoa Kỳ . Điều đó chứng tỏ rằng đẩy Miền Nam vào tay Cộng Sản là Hoa Kỳ chứ không phải là ai hết. Đặc biệt không thề nào là Phật giáo (PG Ấn Quang ) Phật giáo chư tăng của chúng ta là những vị bất bạo động, ngài đầy lòng từ bi, trong tay không có một tất sắt thì làm sao mà có thể đầy Miền Nam vào tay Cộng Sản hay là biến Miền Nam trở thành Cộng Sản được ? Điều đó là điều vô lý, bởi vì chính trị nằm trong tay một chính quyền rất lớn của Miền Nam của VNCH chứ đâu có phải nằm trong tay của Phật giáo đâu? Kề cả những cuộc tranh đấu của Miền Trung năm 1966 cũng vậy. Làm gì có chuyện Phật giáo đưa Cộng Sản vào Miền Nam đâu?

Và chúng ta thấy một điều rất rõ là chính các tướng lãnh, những nhà lãnh đạo của VNCH kèn cựa nhau mà không thành công trong vấn đề chống cộng, không có một chút Phật giáo nào cả. Tôi xin đưa một cái ví dụ rất rõ là ngày 18 tháng 2 năm 1968 sự kèn cựa giữa ông Kỳ và ông Thiệu đã thành lập Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc thì tức khắc qua tháng ba (3) ông Thiệu lập ngay 1 cái lực lượng gọi là Tự do Dân Chủ để chống lại cái Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc của ông Kỳ. ( *** Phản Chiến Võ Văn Ái lưu manh luồn lách, xóa luôn cuộc thảm sát Tết Mậu thân 1968 mà tài liệu lịch sử còn đó , luôn cả tài liệu Biến Đông Miền Trung do ông Liên Thành viết mà những người ngồi nghe không hề tức giận hay pahrn đối)

Tức là các ông lãnh đạo trên họ đánh nhau, chứ họ không có thương dân gì hết cả. Và đến nỗi Hoa Kỳ thấy rằng không được hai ông lãnh đạo quốc gia mà cứ đánh nhau như vậy thì khó mà chống cộng lắm. Hoa Kỳ mới áp lực tất cả những cái đó, hai cái mạt trận và hai cái lực lượng đó phải ngồi lại với nhau làm thành một cái gọi là cái liên minh. Và cái liên minh đó đã ra đời ngày 04-07-1968 gồm có ông Thiệu, ông Kỳ và ông Trần Quốc Bữu là cái công đoàn của Miền Nam. Đó! Ba cái công đoàn họp lại với nhau thành cái liên minh. Mà liên minh đó đề mà chống cộng. Rốt cuộc cái liên minh đó cũng không thể thi hành được cái công cuộc chống cộng, đến nỗi mà nó hoàn toàn thất bại. và sang ngày 04-12-1969 Hoa Kỳ phải giải tán cái liên minh đó. Tức là giải tán cái Mặt Trân Cứu Nguy Dân Tộc, giải tán cái lục lượng tự do dân chủ, giải tán cái lực lượng của ông Trần Quốc Bữu là công đoàn để hình thành một cái gì mới và Hoa Kỳ thấy rằng phải xử dụng Liên Đoàn Công Nông , tức là thợ thuyền của ông Trần Quốc Bữu và Phật giáo. Nhưng mà cái khổ thay là những ý kiến của Phật giáo trong việc cứu nguy dân tộc thì Hoa Kỳ đâu có chấp nhận! Hoa Kỳ chỉ xử dụng cuộc chiến tranh, và xử dụng qua những vị tướng lãnh. Nếu quí vị đọc hồ sơ giải mật, hồ sơ CIA thì thấy tất cả những cái bộ não lớn nhất của VNCH đánh nhau, tranh giành nhau chức tước chứ không có sự nào gọi là thương dân tộc, mang lại hòa bình cho dân tộc như Phật giáo. Những chứng cớ đó quí vị có thể đưa ra để đánh tan những bài viết đang mạ lỵ Phật giáo gần đây.

Và trong kết luận của năm 1972 giữa ông Ford (?) và ông Colby là hai ông điều khiển tối cao của CIA của Miền Viễn Đông và tại Việt Nam thì cuộc tranh luận của hai ông đó cho thấy : sau 18 năm Hoa Kỳ can thiệp vào Miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không có một chính sách, vẫn lúng túng trong chính sách về Việt Nam. Thì bây giờ đây một nước đang viện trợ chúng ta hàng tỷ đô la mà không có một chính sách để đem lại hòa bình, đem lại đời sống phi Cộng Sản thì làm sao một tổ chức Phật giáo không có một tất sắt trong tay mà có thể đưa Miền Nam vào tay Cộng Sản được ? và chúng ta đã thấy rất rõ ràng là trong khi Cộng Sản đã đưa 5 sư đoàn bỏ ngỏ tất cả Miền Bắc để đánh, trong khi đó Hoa Kỳ không viện trợ súng đạn như là Quốc Hội Hoa Kỳ đã hứa viện trợ 700 triệu. Đó là những lý do làm Miền Nam vào tay Cộng Sản chứ không phải là Phật giáo. Tại sao bây giờ có những ngòi bút có thể tán tận lương tâm để nói rằng Phật giáo đưa Cộng Sản vào Huế để thảm sát dân lành! Rồi đưa Miền Nam vào tay Cộng Sản vào ngày 30-4. Chúng ta phải có một sự trả lời rất là đặc biệt với những tư liệu chính sác chứ không cần phải phản biện bằng những lời văn thông bỉ hay là chửi bới như họ đã đánh chúng ta . Mà cái sự kiện sáu (6) tháng qua nó đang đánh vào Phật giáo như vậy là bởi vì chúng ta đang có hai kẻ thù. Trước đây thì Cộng Sản đánh vào GHPGVNTN muốn tiêu diệt GHPGVNTN và thông qua những bọn tay chân nằm vùng của nó đánh chúng ta. Nhưng mà kể từ ngày 29-03 khi đại lão hòa thượng tung ra cái lời kêu gọi “Tháng 5 bất tuân dân sự, biểu tình tại gia” thì chúng ta có thêm một kẻ thù mới là Trung. Mà Trung Cộng thì dữ dội lắm. Trung Cộng có mặt khắp nơi tại Los Angeles, tại khắp cả các nơi và nó chi tiền cho những người viết thuê chửi mướn để đánh phá cái uy tín của đại lão hòa thượng thích Quảng Độ ( Râm râu Quảng Độ) đánh phá cái GHPGVNTN . Thì chúng ta phải thấy rằng chúng ta đang đối diện hai kẻ thù: 1- kẻ thù Cộng Sản Hà nội nhưng mà cái đó không nguy hiểm cho bằng Bắc kinh, Trung Cộng. Họ có tiền bạc, họ bây giờ sắp đứng vào hàng thứ 2, thứ 3 giàu mạnh cường thịnh trong thế giới và họ có dư tiền để xử dụng những tên viết thuê chửi mướn để đánh phá giáo hội chúng ta. Như vậy chúng ta không có thể nào mà cứ tiếp tục im lặng để cho những bài viết đó hoành hành trong dư luận của hải ngoại ngoài này mà chúng ta phải lấy lại quần chúng bằng cách cho tháy rằng những cái luận điểm, những cái lập luận là sai hoàn toàn. Bởi vì chúng tôi nắm trong tay tất cả những tư liệu có thể nói rằng rất là chính xác. Bởi vì những cái tư liệu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tức là “ bộ máy điều hành chiến tranh và chính trị Việt Nam” thì không thể nào là cái lời muốn nói trắng , nói đen sao cũng được. Đó là cái sự thật. Thành ra chúng ta, có nguồn tư liệu đó để mà phản biện trở lại tât cả những sự mạ lỵ vô cớ trong thời gian vừa qua . Và chúng ta thấy cái điều rất rõ là Hoa Kỳ đã thấy lực lượng Phật giáo và trong những bài viết , những tư liệu cho thấy họ đã đánh giá cái sức mạnh của Phật giáo. Tôi chỉ xin đơn cử một đoạn viết về Phật giáo Việt Nam của bà cựu Bộ Trưởng Hoa Kỳ là bà Madeleine Albright, bà Ngoại trưởng có viết cuốn sách The Mighty and the Almighty, Reflections on America, God and World Affairs,” (Những Kẻ mạnh và đấng Tối cao,) xuất bản năm 2006, trong đó bà viết một đoạn rất quý để chúng ta thấy lại cái sự thật của Phật giáo Việt Nam. Tôi xin dịch cái bài của bà viết như thế này. Bà phê bình là Hoa Kỳ thường xem nhẹ vai trò tôn giáo nên đã mất một cái sai lầm trọng đại trong quá khứ: chiến tranh Việt Nam vốn là cuộc chiến tranh giữa một ý thức hệ chính trị với chủ nghĩa quốc gia , nhưng trong đó còn có vai trò tôn giáo. Ngay lúc khởi đầu mục tiêu chống cộng đã bị suy yếu phá hoại vì chính quyền Sài gòn đàn áp Phật giáo mà Phật giáo là cơ sở không Cộng Sản lớn nhất tại Việt Nam. Sự kiện đó đã khiến chúng ta không thu phục được trái tim và lòng người dân Việt khiến cho sau này khi Hoa Kỳ rút đi đã gây cho thảm họa cho hàng triệu người vượt biển và sọ người chồng chất thành núi. Đấy là một người ngoại quốc, một bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đánh giá Phật giáo như vậy . Thì chúng ta mới thấy rằng Phật giáo là cái lực lượng dân tộc và chúngta đang thừa kế lực lượng dân tộc đó. Chúng ta phải không những phản biện trên bài viết, trên hội luận, mà chúng ta phải phản biện trong hành động, và chỉ có hành động chúng ta mói có thể chứng minh cho dân tộc chúng ta thấy rằng chỉ có Phật giáo mới có thể giải trừ quốc nạn mà pháp nạn mà thôi, không có ai làm khác được .. ( tiếp sau là tiếng vỗ tay của chùa Điều Ngự)

** chú ý đoạn Phản Chiến Võ Văn Ái đọc diễn văn khác với đoạn văn Phản Chiến Võ Văn Ái viết trên Quê Mẹ trả lởi phỏng vấn với VOA http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=1327 . Vì không có bản tiếng Anh của bà Albright nên không thể so sánh sự chính xác của lời dịch từ “láo sư” Phản Chiến Võ Văn Ái.

Bà cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright viết về sự sai lầm của Hoa Kỳ tại Việt Nam do xem nhẹ vai trò tôn giáo. Bà viết : “Ngay lúc khởi đầu mục tiêu chống Cộng đã bị suy yếu vì chính quyền Saigon đàn áp Phật giáo, mà Phật giáo là cơ sở không cộng sản lớn nhất tại Việt Nam (…) Chúng ta không thu phục được trái tim và lòng người dân Việt. (...) Rồi khi [Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam] bọn phản chiến ăn mừng. Nhưng những kẻ biết suy nghĩ trong họ đã cảnh tỉnh khi thấy các chính quyền tham nhũng thân Tây phương ở Miền Nam và Cam Bốt bị lật đổ, thì một chế độ độc tài toàn trị áp đặt lên Miền Nam và để cho Pol Pot tạo ra những cánh đồng thảm sát. Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam gây ra thảm nạn cho hàng triệĐây là phần Audio của Phản Chiến Võ Văn Ái phát trên radio nhục mạ VNCH và kết luận quả quyết rằng chỉ có Phật giáo mới có thể giải trừ quốc nạn mà pháp nạn mà thôi, không có ai làm khác được ( Phản Chiến Võ Văn Ái thách đố Lực lượng hàng hải và hạm đội USS của Hoa Kỳ dù có cố găng bảo vệ Biển Đông cũng hoàn toàn thất bại) Những có quan đã viện trợ nuôi Phản Chiến Võ Văn Ái bao nhiêu năm nay xin đọc bài này.

Chúng tôi chuyển phần âm thanh thành bài viết để mọi người Phật giáo hay không Phật giáo tìm hiều hư thực về những lời thách thức của Phản Chiến Võ Văn Ái đối với những ai vạch trân tội ác PG Ấn Quang giết người năm Mậu Thân và vạch trần âm mưu “ hòa hợp hòa giải kiều đầu hàng qua lời kêu gọi nằm nhà biều tình tại gia của Rậm râu, sâu máu Quảng Độ. Đây là tư cách hung hăng, và lật lọng lịch sử được truyền lại nhiều đời trong PG Ấn Quang được thi hành qua Phản Chiến Võ Văn Ái , văn phòng II Viện Hóa Đạo và Lực Lượng Chấn Hưng Phật Giáo Tuệ Kiếm, Bảo Kiếm Quốc, Quan 5 thờ cộng Trần Văn Thưởng. Chúng tôi ngạc nhiên là những người tham dự buổi nói chuyện của Phản Chiến Võ Văn Ái không phản đối, hay đã vỗ tay hoan hô . Nếu họ đồng ý và vỗ tay hoan hô như trong đoạn âm thanh ghi lại thì hành động đó nói lên họ là chính là việt gian trước những hành động gian xảo, tráo trở của tên Phản Chiến Võ Văn Ái cố tình xóa tất cả tội ác của PG Ấn Quang đối với đồng bào Huế, và các nạn nhân của PG Ấn Quang trong suốt chiều dài của Biến Động Miền Trung và trên toàn lãnh thổ Việt Nam do PG Ấn Quang gây ra và PG Ấn Quang chưa hề nhìn nhận sự thật hay xin lỗi các nạn nhân và nhân dân Việt Nam thay vào đó họ đã hoan hô Phản Chiến Võ Văn Ái lớn tiếng nhục mạ VNCH. Nhiều văn kiện từ chính quyền VNCH, tài liệu Cộng Sản, tài liệu PGẤn Quang, tài liệu Hoa Kỳ cho thấy giới sư tăng của PG Ấn Quang từ Đôn Hậu, Huyền quang, Quảng Độ và nhiều nhiều nữa đã tiếp tay với Cộng Sản , tay họ dính vào máu nhân dân Huế và nhân dân Miền Nam Việt Nam. Chính Phản Chiến Võ Văn Ái là người đã yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho VNCH đang bảo vệ Miền Nam. Văn kiện Phản Chiến Võ Văn Ái bức tử VNCH được Tin Paris tố giác từ tài liệu CIA

http://www.tinparis.net/vn_index.html

PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN MỸ CHỐNG CHIẾN TRANH VIỆT- NAM [ Bài 4] - Trương Tấn Trung - ( TinParis.net )

Bài 4 : những người Bạn Việt của CSVN tại Mỹ

- John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 )
Lãnh tụ của phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, (People coalition for peace and justice, PCPJ) cũng như của VVAW, (Vietnam veteran anti war).
-Thích Nhất Hạnh.
-Võ văn Ái. -Huỳnh tấn Mẫm. -Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch đảng Việt Tân ( Tinparis chú thích : Băng Đảng Việt Tân )



  • Năm 2002,
Dự luật HR 2833, là dự luật Nhân quyền cho Việt Nam, đã được Hạ viện Mỹ thông qua, với một số nghị viên bỏ phiếu thuận đặc biệt cao : 410/1.

Nhưng Thượng viện Mỹ đã không có cơ hội duyệt xét dự luật này.

Trong suốt mấy năm, nó đã bị chôn cất bởi Ủy ban Tuyển lựa của Thượng viện về các tù binh Mỹ và các người mất tích khi thi hành công vụ, (POW/MIA) .

Nó đã không được đưa lên Thượng viện Mỹ để biểu quyết vì người bạn Mỹ của VC tại Mỹ đã tìm cách giết nó, đó chính là TNS John Forbes Kerry, chủ tịch của Ủy ban.

  • Năm 2008,

Trong bài nói chuyện trước ( bài số 1 ) , đã nói đến buổi họp điều trần về nhân quyền tại Việt Nam diễn ra vào đầu năm 2008 tại thượng viện, lúc đó TNS John KERRY ( đảng dân chủ ) không còn là chủ tịch nữa mà đã thay phiên qua nghị sĩ khác tức là bà TNS Barbara BOXER.

Trong phiên họp kỳ này, năm 2008, có sự hiện diện của ông TNS dân chủ Jim WEBB.

Khác với TNS KERRY, ông Jim WEBB, tuy là cùng đảng dân chủ, nhưng lại rất ưu ái đến tình trạng các quân cán chính của VNCH còn đương bị CSVN thống trị qua chính sách « phân biệt đối xử », ông tỏ ra quan tâm về chính sách kỳ thị này , về cách đối xử bất công của CSVN đối với các quân cán chính của quân lực VNCH còn sống tại Việt Nam.

Và ông phải sững sốt và kinh ngạc khi nghe những lời lẽ của ông Đỗ Hoàng Điềm (ĐHĐ), chủ tịch ( Băng) đảng Việt Tân, khi ĐHĐ được hỏi về hiện trạng (năm 2008) của chính sách « phân biệt đối xử » đó của CSVN.

Những chữ ông ĐHĐ dùng để trả lời là : « … fade away… », muốn nói rằng sự kiện đó đã hầu như không còn nữa từ thập niên 90. (Xin xem chú thích ở cuối bài)
Khoảng cách từ 2002, khi dự luật về nhân quyền tại Việt Nam chớm nở tại Hạ viện Mỹ, đến năm 2008 khi lên đến Thượng Viện Mỹ là 6 năm, thời gian này đã cho phép Cộng Sản Việt Nam dàn dựng một số kịch bản thích hợp, để ông ĐHĐ có cơ hội phát biểu : « … fade away … ».

Những lời ĐHĐ nói ra, như muốn « khép lại quá khứ », như muốn thế lời (?) kết luận tốt cho kịch bản của CSVN

Những lời này đáng được ghi vào lịch sử đấu tranh của ... những ai đã và đang lên tiếng biện hộ, bào chữa, bênh vực cho CSVN và chế độ toàn trị của nó.

Trong đó có các người bạn Việt của VC tại MỸ, ít ra là hai người còn đương mang phẩm chất công dân Việt Nam Cộng Hòa, điển hình là ông Võ vãn Ái, và một người thứ hai được biết đến dưới pháp danh: Thích Nhất Hạnh.

Dĩ nhiên, cũng có các người bạn Việt của CSVN tại Việt Nam Cộng Hòa, điển hình như Huỳnh tấn Mẫm, nhân danh và đại diện cho sinh viên Miền Nam, đã ký kết với các phong trào phản chiến Mỹ, đặc biệt qua lá thư lên án VNCH, kêu gọi nhân dân Mỹ bỏ VNCH. Cậu sinh viên y khoa, Huỳnh tấn Mẫm đã đưa lá thư đó cho Don Luce cầm tay đem về Mỹ để trao lại cho các phong trào phản chiến. (Huỳnh tấn mẫm đã ký vào cái « joint treaty of peace, between the people of the united states, south Vietnam and north Vietnam » mà J. KERRY là người đầu tàu)

Hiện nay, các phong trào phản chiến chống chiến tranh VN tại Mỹ vẫn còn đang hoành hành và vẫn còn có thế lực, vẫn còn có tác dụng, như sư kiện TNS KERRY ra công che dấu, đình trệ để một dư luật bất lợi cho CSVN không được Thượng viện MỸ duyệt xét vào đúng thời điểm.

Những loại người, những loại phong trào như thế, chúng ta cũng đã từng thấy tại Mỹ, qua vai trò chủ yếu của Thích Nhất Hạnh ( thành phần thứ 3) , hỗ trợ cho phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam mà thủ lãnh là TNS J. KERRY, vào những năm từ 65 đến 75, với phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, (People coalition for peace and justice, PCPJ) cũng như VVAW, ( Vietnam veteran anti war ).

Cái « công lý » mà những người này đòi hỏi,và TỎ VẺ THIẾT THA, lẽ ra họ phải tự áp dụng cho chính họ thì đó mới đúng là công lý, nhưng không, chuyện đó đã không hề xẩy ra … Tỵ nạn, thuyền nhân, các trại cải tạo, các sự giết chóc, nghèo đói, bất công, ... biết bao nhiêu là điều mà những nhà "công lý" đó không muốn biết đến hay biết đến mà cho rằng là không có ...

  • Có ai trong bọn người này đã lên tiếng ?

Ngay như ông thiền sư TNH, nổi tiếng toàn cầu, cũng im miệng đồng lõa từ bao nhiêu năm nay, "ngài" thiền sư chỉ khai khẩu khi thấy quyền lợi của mình tại Việt Nam bị mất mát.

Sự dối trá không chịu đựng nổi sự thử thách của thời gian và lịch sử, cho nên,cũng như những thức ăn giả dối không thể nào tiêu hóa được, vì thế mà cơ thể đã phải nôn mửa ra trở lại.

Nhiều tài liệu, có được trong những năm chiến tranh, bắt được từ phe CS, từ tay đối phương, từ những năm 1971 , 1972, chính VC và CSBV, nói rõ sự liên hệ , sự yểm trợ của họ đối với phe phản chiến trong và ngoài Việt Nam, họ nói rõ sự phối hợp hành động, với các chiến hữu của thành phần thứ 3, các chiến hữu của " hòa bình ", các chiến hữu đòi hỏi Mỹ phải cút đi, để tiện đường cho CS xâm lăng miền Nam.


Chính TNS J. KERRY cũng không chối được trước những bằng cớ của FBI về mối liên hệ của ông với Bà Nguyễn thị Bình (NTB), ông đã qua Ba Lê để gặp NTB.

Ít ra là 2 lần trong những năm tháng vào lúc đương diễn ra cuộc hòa đàm Ba Lê, nhằm phối hợp hành động, Phe phản chiến hỗ trợ VC bằng cách gây áp lực tại nội địa xứ Mỹ.

Họ liên kết với các hiệp hội phản chiến khác như F.O.R, (the fellowship of reconciliation) phía Mỹ,

Phía người việt thì có ông Võ văn Ái (VVA)với những buổi thuyết trình, lưu diễn trên đất Mỹ, với đề tài mang tựa đề thời cơ: « people of Vietnam demand peace », và trong khi đó cơ quan F.O.R tạo cơ hội để gặp các dân cử Mỹ, thì là lúc VVA trổ tài triển khai các đề tài phản chiến, ngưng bắn, hòa bình, v.v ., còn Thích Nhất Hạnh (TNH) thì dốc lòng cung cấp những gì cần thiết cho các nhân vật phản chiến Mỹ như Don Luce, và các dân cử MỸ chống chiến tranh VNCH, với mục tiêu cắt bỏ viện trợ của Mỹ đối với VNCH.

Và người công dân Việt Nam Cộng Hòa thời ấy, tức ông Thích Nhất Hạnh, đạt thành công quả , sau khi đã dồn sức vào năm 1974 khi có cuộc biểu quyết liên hệ về ngân sách tại quốc hội Mỹ, tài khóa 1975 nhằm cắt bỏ viên trợ cho VNCH,



trích dẫn tài liệu yểm trợ của Thich nhât Hạnh, dưới danh nghĩa của phái đoàn Phật giáo Việt nam cho Hòa Bình



Các phe phản chiến đã thành công và đã đạt được mục tiêu của họ: tiêu diệt mọi nguồn trợ lực cho VNCH (đó cũng là mục tiêu chính của TNH, VVA, phe thành phần thứ 3, MTGP, VC và dĩ nhiên CSBV) và năm sau là năm của ngày 30 tháng 4/1975.

Đó là do công lớn của các phe phản chiến Việt ( tại quốc nội và quốc ngoại ) cũng như các phe phản chiến Mỹ, của những phe thành phần thứ 3, của những phe đòi hòa bình, đòi hỏi Mỹ cút đi, để cho CSVN rảnh tay xâm chiếm, thực hiện bá đồ của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. Họ đã có công lớn đối với CS xâm lược để thiết lập ngụy quyền công sản tại miền Nam.

Thiết nghĩ rằng Hà nội, CSVN, đã có tưởng thưởng các người bạn Mỹ của họ, như KERRY hay Jane FONDA tại viện bảo tàng những tội ác chiến tranh Mỹ-Ngụy.

Tổng bí thư Đổ Mười đã có lời ban khen rằng đảng CSVN đã thẳng thắn nhìn nhận rằng sự đóng góp của TNS J KERRY và phong trào phản chiến của ông như là một sự đóng góp trực tiếp, tối ưu, góp công vào thắng lợi 30 tháng 4/ 1975 của CSVN.

Thế sao Hà nội lại không nhắc đến những người bạn Việt phản chiến của mình, có phải như người ta thường nói rằng CS hay vắt chanh bỏ vỏ !

Vậy thì TẠI SAO ? lại có cái chính sách đãi ngộ « phân biệt đối xử » đối với cùng một công trạng, giữa những người bạn Việt và những người bạn Mỹ, cả hai đều có công lớn đối với chế độ CSVN ?

(Đối với những chuyện đã « đi vào quá khứ », CSVN vẫn cứ nói đi, nói lại là phải « khép lại quá khứ », phải chăng phải hiểu rằng, đó là khép lại quá khứ theo cách « phân biệt đối xử »)

Có hai câu trả lời về lối CS dùng để đãi ngộ các người bạn của mình: Việt hay ngoại quốc, trong hay ngoài nước.

1 / Chủ thuyết Cộng Sản là một thứ chủ thuyết vọng ngoại và ngoại lai, luôn cần đến ngoại bang, cái tên " Việt Gian Công Sản " là đúng tên gọi cho nó,

2 / Vì còn có chỗ dùng, nhằm duy trì chế độ nên mới còn nuôi dưỡng một số đối tác Việt ở ngoại quốc… hay ở quốc nội.


Trương Tấn Trung Ngày 05.11.2009

…( còn tiếp )

Bấm vào đây để xem các bài | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |


Chú Thích . Chúng ta biết rằng buổi họp nầy rất quan trọng cho chánh sách của Mỹ đối với CSVN , nhất là vũ khí " nhân quyền " và "tự do tôn giáo " .

Làm sao chứng minh Việt Nam không có tự do tôn giáo được khi Nhất Hạnh dẫn đoàn đệ tử phu thê của mình ( hàng trăm người ) đi từ Nam ra Bắc để cho thế giới thấy ? hàng ngàn tăng ni tự do ra vào trong nước , xây cất chùa chiền nhan nhản mọi nơi ? Dưới con mắt người Tây Phương , không cách nào chứng minh cho họ thấy là có đàn áp tôn giáo.

Vấn đề tranh chấp đất đai của Giáo Hội Thiên Chúa tại Việt Nam, đối với các chánh phủ " Đông Âu " như Ba Lan, Tiệp, Hung gia Lợi thì họ coi chuyện đó là bình thuờng. Họ cũng chưa giải quyết đưọc các vấn đề đó của họ. Tuy nhiên , hình ảnh bọn Công an CSVN đánh đập linh mục và giáo dân chỉ mới cho thấy là CSVN có đàn áp Thiên Chúa Giáo. Nếu tất cả mọi tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo , Cao Đài đứng lên đòi hỏi công lý và tự do thì họa may thế giới và Hoa Kỳ mới đặt lại vấn đề!

Riêng về Nhân Quyền, qua sự phát biểu của Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch của Băng Đảng Việt Tân, cho rằng " chánh sách phân biệt đối xử " của CSVN đối với quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất dần dần từ thập niên 90.

Điều đó là một điều " nói láo " để bênh vực chế độ CSVN vì chúng ta đừng quên là Băng Đảng Việt Tân đã xác định là " Đảng CSVN và Hồ chí Minh " có công với dân tộc và Đất Nước Việt Nam. Sau đó Đỗ Hoàng Đièm viết thư xin đính chánh với TNS Jim Webb về lời phát biểu đó ( thì được ông Jim WEBB không trả lời ). Thật ra đó chỉ là xảo thuật để đánh lừa dư luận Cộng Đồng Việt Nam vì khi các nhân chứng điều trần trước Ủy Ban Thượng Viện thì biên bản đã được ghi trên giấy trắng mực đen rồi. Làm sao thay đổi được ? Ngoài ra ĐHĐ còn viết thư biện bạch cho rằng mình không có ý muốn nói như vậy , thì Băng Đảng Việt Tân ( tức CSVG) đã coi thường Cộng Đồng VN Hải Ngoại . Ai còn ngu và ham tiền thì cứ theo bọn chúng như Nguyễn Cao Kỳ et Cie,v.v.

Chính vì có những tay sai và cò mồi của CSVG , núp dưới chiêu bài chống Cộng , đòi xin miếng ăn của CSVN nên Cộng Đồng Việt Nam Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản chúng ta mới chia rẽ và tan nát như ngày hôm nay . Đó là một sự thật đau lòng mà chúng ta phải có can đảm nhìn nhận . Bọn Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và băng đảng Việt Tân đã " phá hủy niềm tin " của Người Việt Quốc Gia ngay từ lúc đầu, để xây dựng " kho tàng " của chúng.

Võ văn Ái, Thích Nhất Hạnh là những kẻ đã " tiếp tay với CSVN " để bức tử VNCH khi chúng vận động với Quốc Hội Mỹ để " trói tay VNCH " trong khi đó thì Liên Xô và Trung Cộng viện trợ ào ạt cho Bắc Việt Hà Nội.

Tài liệu lịch sử còn đó , không cách nào xóa được , họa chăng chỉ để ghi công " cách mạng " cho chúng trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và sau 1975 !

Bài 6: những người bạn của CSVN tại Mỹ




-TNS John FORBES KERRY, một thời là ứng cử viên Tổng Thống Mỹ ( 2004 ).
- J Forbes Kerry, kẻ vẫn còn hổ trợ cho Việt gian Công sản., kẻ đã thiết kế cuộc tái lập bang giao Mỹ-Việt


Hội phản chiến chống chiến tranh Việt Nam:
- VVAW: hội cựu chiến binh chống chiến tranh
- PCPJ: ủy ban quốc dân liên hiệp đấu tranh cho hòa bình và công lý


Tài liệu 02, (đã được công bố trong những bài trước) còn có tên khác là " Chỉ thị" vì đó là những chỉ thị của VC nhằm yểm trợ các cuộc dấy động phản chiến trong nội địa Mỹ.

Trong các tài liệu bắt được bởi quân đội tại chiến trường miền Nam Việt Nam , tài liệu 02, lấy được từ cộng quân ngày 12 tháng 5/1972, cho biết các chỉ thị của đảng cộng sản, nhằm mục đích nâng cấp các sinh hoạt của những phong trào phản chiến tại Mỹ chống lại cuộc chiến tại Việt Nam.

Đoạn 5 của tài liệu 02, đã viết rõ các công tác mà CSVG trông đợi nơi các hội phản chiến Mỹ, VVAW và PCPJ, đó là vận động tuyên truyền chống chính phủ VNCH, qua ngã vận động cử tri đoàn công dân Mỹ với mục tiêu cắt viện trợ của Mỹ đói với VNCH và buộc Mỹ phải rút quân.

Điều được viết trong tài liệu 02, sẽ diễn ra tại Mỹ vào ngày 19/4 đến 22/4 năm 1971, thời điểm này trùng hợp với cuộc biểu tình vĩ đại mà phe phản chiến và Kerry tổ chức, đó là chiến dịch phản chiến DEWEY CANYON 3, tại Hoa Thịnh Đốn.

Vào dịp này, KERRY đã lên đài truyền hình kêu gọi phản chiến, Kerry đã xuất hiện cùng một lượt với TNS FULBRIGHT, một người chủ chốt (có lập trường phản chiến) trong Ủy ban ngoại giao Thượng viện Mỹ.

Trong tài liệu 02, cũng đã nói đến một việc khác, biểu tượng rất mạnh cho ý đồ phản chiến, đó là các cựu chiến binh trong VVAW hãy vất trả lại các huy chương đã có được khi tham gia trong chiến cuộc tại Việt Nam, và họ đã vứt bỏ các huy chương đó vào Tòa Nhà CAPITOL, tại Hoa Thịnh Đốn, ( chiến dịch return the medals)

  • - Công tác nối giáo cho giặc ( VC ) của Kerry và của hội phản chiến PCPJ ( The People's Committee for Peace and Justice ).

Điểm quan trọng nào của tài liệu 02 đã vạch ra cho chúng ta thấy rõ?

Đó là mức độ làm việc chung của VGCS với PCPJ và Kerry. Điều đó, đã từng được nhấn mạnh trong tài liệu 01 (công bố trong các bài trước đây), đó là việc liên lạc với phái đoàn VC tại cuộc bàn thảo hiệp định BA LÊ, để nhận cách chủ đạo cho các phong trào phản chiến:

Trích dẫn tài liệu của VC:

"…Of the US antiwar movements, the two most important ones are: The PCPJ ((the People's Committee for Peace and Justice)) and the NPAC ((National Peace Action Committee)). These two movements have gathered much strength and staged many demonstrations. The PCPJ is the most important. It maintains relations with us. …"

( … về các phong trào phản chiến, có hai tố chức quan yếu, đó la PCPJ và NPAC. Hai tố chức này đã biểu dương sự vững mạnh của họ. Tổ chức PCPJ là quan trọng hơn hết, họ giữ liên lạc với chúng ta …)

  • - những điểm cần biết khác:

- Trong bảng báo cáo của Sở nội an Mỹ vào năm 1971, đã có mô tả về tổ chức PCPJ, như là một tổ chức được kiểm soát chặt chẽ bởi đảng CS Mỹ. kể cả vai trò lãnh đạo tư tưởng cho hội PCPJ (a guiding influence, in the evolution and formation of policies of the Peoples' Coalition for Peace and Justice)

- Tài liệu giải mật của FBI gần đây cũng đã xác định mối liên hệ qua các cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn thị Bình, Kerry và Al Hubbard, (bí thư hội VVAW), hội VVAW, hội PCPJ.

- Chính Al Hubbard (lãnh tụ của VVAW), và các thành phần cực đoan gần gũi với nhóm cực tả BLACK PANTHER và PCPJ, đã kết nạp Kerry,

- Cũng chính Al Hubbard là người đã khai gian rằng mình là một phi công đã từng bị thương nơi trận tuyến, và đã bị lộ tẩy qua một cuộc điều tra của bộ Quốc phòng.

- Dù như thế, cặp bài trùng Kerry/ Al Hubbard luôn luôn cộng tác chung và luôn luôn đi đôi với nhau.

- Tài liệu giải mật của FBI ngày 24 tháng 11/1971, đã nói đến một buổi họp nội bộ ban lãnh đạo VVAW, do Al Hubbard điều động tại Kansas city, Missoury, vào cuối tuần ngày 12 và 15 tháng 11 năm 1971, trong buổi họp này, với sự hiện diện của Kerry, họ đã nghiên cứu và tìm cách nào để ám sát vài thượng nghị sỹ Mỹ có lập trường yểm trợ cho VNCH và cuộc chiến chống CS Bắc Việt xâm lăng.

- Theo sự tiết lộ của Al Hubbard, VC đã chính thức mời đại diện của VVAW (là Al Hubbard), đại diện của đảng CS Mỹ và đại diện của một nhóm khuynh tả đến họp tại BA LÊ, và mọi chi phí được đảng CS Mỹ tài trợ.

  • - VVAW và CSVG, chiến đấu chung trong tình hửu nghị

Nhằm cô lập hóa VNCH trên chính trường quốc tế trong chủ trương tự vệ của VNCH chống lại CS , hội VVAW đã làm việc phù hợp theo chủ trương của CS, vì vậy VVAW đã đưa ra 1 thông cáo vào tháng 7/1971, là từ bây giờ trở đi không được dùng từ ngữ "việt cộng" để chỉ định MTGP, hay CSBV đối với Bắc Việt, mà phải nói, hay viết thế vào đó là "chính phủ cách mạng lâm thời" và "cộng hòa dân chủ Việt Nam".

(Xem bài trích dẫn dưới đây , theo văn thơ của VVAW)

Đó, chỉ là cốt để xiển dương chiêu bài bịp bợm "giải phóng và thống nhất", trong cái nhìn của quốc tế và nhất là trong dư luận của quần chúng Mỹ.

Qua công việc này, họ đã bộc lộ ra ý đồ lường gạt dư luận khi nói rằng không hề có 2 xứ Việt Nam, một xứ Việt Nam Cộng Sản, tức Bắc Việt và một xứ Việt nam Tự Do không Cộng Sản tức Việt Nam Cộng Hòa, mà chỉ có 1 xứ Việt Nam, và tại miền Nam Việt Nam, cuộc chiến dành đôc lập đươc lãnh đạo bởi MTGP, nhưng chưa được giải phóng, mà kẻ xâm lăng … chính là Mỹ và tay chân là VNCH !!!




Trương Tấn Trung Ngày 04.12. 2009

Khi Võ Văn Ái đề cao Nhất Hạnh trong quyển sách " Hoa Sen trong Biển Lửa " , và Võ văn Ái được NED ( Mỹ ) yểm trợ bao nhiêu trong năm 2008 ?

TinParis. Bài viết dưới đây của Võ văn Ái " Lời Tựa " cho quyển " Hoa Sen trong Biển Lửa " của Nhất Hạnh là " một bản kết án " nặng nề chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nó cũng là " ngòi nổ trái bom chiến tranh tôn giáo " giữa Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo , có ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày hôm nay.

Võ Văn Ái là một con người " khó hiểu và phức tạp ". Trước 1975 , Võ Văn Ái và Nhất Hạnh hoạt động chung như " hình với bóng ", làm lợi cho Cộng sản Việt Nam rất nhiều.. Sau 75,họ không hoạt động chung với nhau , ta thấy Võ Văn Ái hoạt động có vẽ " chống Hà Nội " và được Mỹ ( NED) yểm trợ $US khá nhiều ( xem tài liệu đính kềm ở phần cuối ). Nhưng điều nầy không thể kết luận là Võ Văn Ái làm lợi cho người Việt Quốc Gia . Nhất Hạnh thì cộng tác với Hà Nội một cách công khai và kẻ thù phá hoại người việt Quốc Gia !

Chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra "những tài liệu khác " về Võ Văn Ái khi thấy cần.

Xin mời quý bạn đọc " Lời tựa " của Võ Văn Ái với chú thích của Tinparis ( màu xanh lá )



LỜI TỰA (của lần in thứ tư)


"


Hoa Sen Trong Biển Lửa" vì nhu cầu đòi hỏi đã phải tái bản lần thứ tư bằng Việt ngữ. Bản Anh ngữ do hai nhà xuất bản khác nhau đã phát hành tại Anh và tại Mỹ, còn bản tiếng Đan Mạch đã phát hành tại Copenhague, còn bản Nhật ngữ và Ý ngữ đang in... Nhân dịp, chúng tôi muốn nêu một số nhận định để chúng ta có thể đồng thoại trong khi tham khảo cuốn sách này:

1-Lịch sử Việt cho thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào những thời kỳ khổ đau nhất của dân tộc và luôn luôn có mặt ở mọi giai kỳ quật khởi. Chính nhờ khí chất của quần chúng cũng như của đạo Phật đã gặp nhau trong ý thức phục vụ và giải phóng con người.

Phục vụ con người bằng cách đem lại một lối nhìn và lối sống hoàn toàn tự do và tự cường. Giải phóng con người khỏi những liên hệ giả tạo của nô lệ và khổ đau (ví như liên hệ giả tạo giữa thế lực xâm lược và thế lực dân tộc). Nhận định đưa tới ý thức cấp thiết về sứ mệnh của chúng ta trong hiện tại để phá đổ định mệnh hắc ám của chiến tranh. Vài mươi năm gần đây, người Phật tử Việt Nam đang sống lại quá trình của lịch sử ở một không gian, thời gian khác: thời kỳ huân tập chuẩn bị ý thức từ khi đạo Phật du nhập (thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) là giai đoạn chấn hưng của phong trào Phật giáo từ năm 1930-1950; thời kỳ chủ động (qua năm thế kỷ từ thế kỷ IX đến XIV) là giai đoạn 1950- 1963.

TinParis chú thích .Không hiểu Võ văn Ái , dựa vào tài liệu sử học nào, và dựa trên " phương pháp sử học nào " mà có thể so sánh "những thế kỷ " với những " năm ngắn ngủi như vậy ". Đó là một " kết luận hồ đồ nếu không nói là mị dân " khi viết như vậy . Điều nầy rất hợp cho những tay " xách động " được huấn luyện kiểu " agit -prop " của Cộng sản !

Sau đó chúng ta rơi vào thế bị động. Bị động ở đây không có nghĩa là tê liệt, vì tiềm lực của ý thức và của quần chúng vẫn còn có đó. Tuy nhiên, chúng ta không bi quan. Kẻ bi quan chỉ nhìn thấy thành quả sau những lần và thắng lợi; trong khi sự thắng lợi nhất thời của bạo chính đã bao hàm thử thách, không nhận thức được rằng thất bại hàm chứa những nhân tố quật khởi những nhân tố thất bại.

2-Nhận định trên đưa tới ý thức quật khởi để giải quyết hiện trạng chiến tranh. Đối tượng cuốn sách này nằm ở đó. Hiện nay thế giới đang kết án tính cách vô nhân trong cuộc tham chiến của người Mỹ. Những phong trào hoà bình trên thế giới đều đứng sau lưng chúng ta, họ kết tội và chống đối kịch liệt chính sách Mỹ. Đây chính là lúc mà lực lượng thực sự dân tộc, lực lượng thứ ba, phải tận triển mọi khả năng bất khả để tạo thế chủ động, mở ra cục diện mới.

TinParis chú thích . Đây là sự kết án đồng minh Mỹ. Chúng ta phải biết rằng " những phong trào Hòa Bình trên thế giới " lúc bấy giờ , phần đông là do Cộng sản Xô Viết giựt dây !

Giữa hai khối Đế quốc và Cộng sản, một bên là vị kỷ chiếm hữu, một bên là độc tài đảng trị, chúng ta chỉ có hai con đường: làm tay sai cho một trong hai khối hoặc là đứng cả dậy dưới bóng mặt trời để hoàn tất sự nghiệp Việt nam. Chối bỏ quan niệm quốc gia cực đoan, nhưng chúng ta chủ xúy quyền tự quyết của dân tộc trong một thế giới thuận hảo, như con sông Cửu Long phải là con sông Cửu Long để có thể đưa nước về hoà đồng cùng biển. Quyền tự quyết bao hàm ý chí tự cung và tự chủ của dân tộc; nhờ tự cung - tự cung về ý thức cũng như về sở vật sinh tồn - mà khỏi cầu ngoại viện. Cầu ngoại viện mà không tự chủ sẽ thành vong nô. Đó là hiện trạng của chúng ta.

Đương nhiên đúng cả dậy đặt lại vấn đề đoàn kết. Đoàn kết giữa mọi thành phần tôn giáo chính trị của lực lượng dân tộc. Đoàn kết cho đến nay chỉ có nghĩa là đoàn kết để chia ăn. Đảo chính và thay đổi ở miền Nam có nghĩa là đảo chính để chia ăn, thay đổi nhóm chia ăn.

TinParis chú thích. Tại sao Võ văn Ái không nói đến tệ trạng của Miền Bắc mà chỉ nói phớt qua là " Cộng sản " rồi lờ đi luôn

Chưa có đoàn kết dân tộc cùng một niềm tin và truyền thống, dù niềm tin và truyền thống có sẵn: niềm tin Việt và truyền thống tự quyết, tự cường để phục vụ con người. Ấy chỉ vì lực lượng dân tộc đông đảo đã khoanh tay cho những kẻ chia ăn thao túng. Ấy chỉ vì lực lượng tôn giáo lớn đã không lồng tính chất của giáo lý mình vào mọi hoạt dụng cộng đồng, nhất là trong hoạt dụng chính trị, mà chỉ hoạt động (cố ý hay vô ý) trên căn bản gây bề thế cho đạo mình. Do đó gây ra tình trạng căng thẳng nội bộ.

TinParis chú thích . Tuy không nói ra, nhưng Võ Văn Ái ( viết tắt VVA) coi như đạo Thiên Chúa là mầm mống chia rẽ dân tộc ( Chưa có đoàn kết dân tộc cùng một niềm tin truyền thống ??)

Sự mâu thuẫn nội bộ này ảnh chiếu đường lối phục vụ khác nhau của cấp lãnh đạo, mà nguyên nhân phát từ sự lìa xa chân lý diệt khổ của tứ diệu đế để thể nhập vào quyền lợi cục bộ.

Đoàn kết trước hết đòi hỏi tiêu chuẩn: đừng gây khổ cho người thân, khiến kẻ thù thích khoái (vô sử thần thông cừu khoái). Và đoàn kết phải thực hiện trong tin thần phân công hợp tác. Mà phân công hợp tác chỉ có giá trị, khi mỗi bộ phận cơ bản được quy nội tiềm lực để chủ lực hoá tiềm lực mình, thay vì quá hướng ngoại để lôi kéo quần chúng vào một thứ biểu dương chủ nghĩa vội vã hời hợt.

Lực lượng dân tộc chúng ta đã nhiều lần tranh đấu khổ nhọc và trung kiên từ ba năm nay, huy hoàng nhất vào đầu năm 1966. Sự đàn áp và khủng bố sở dĩ được thao túng, là bởi chúng ta chưa đặt rõ vai trò quân đội trong lực lượng dân tộc. Chúng ta đã quá cậy nhờ vào một thiểu số tướng lãnh mà quên đi thành phần ưu tú nằm trong hạ tầng chủ lực của quân đội.

Chú thích TinParis. Lực lượng dân tộc nào ? phải chăng của " Mặt Trận Dân Tộc " của Giải Phóng Miền Nam ?Trong vòng 3 năm tức từ 1963 đến 1966 ....

Sự tiến nghạch lên cấp tướng ở Việt Nam thường không đi đôi với tác phong đạo đức dân tộc người sĩ quan.

Chú thích TinParis . Các sĩ quan cấp tướng ở Việt Nam ? ở Miền Nam và Miền Bắc ? Đây chỉ là một " thủ thuật " vì sau đó VVA kết án Miền Nam là một chế độ " quân phiệt "

Quân đội là sinh mệnh của mọi lực lượng cách mạng bạo động, hoặc thế lực xâm lăng. Ngày nay thế lực quân phiệt đã biến tướng quân đội theo tiền án Quân Quyền.

Có quân tức có quyền, nghĩa là có thể giết chóc bừa bãi, đàn áp thẳng tay. Lý luận chỉ được rút tỉa sau mỗi bận bạo hành để biện chính, chứ lý luận không đề ra cương lĩnh lãnh đạo cho mọi hành động. Hiện trạng ở miền Nam là như thế. Vị tỉnh trưởng đồng thời là một sĩ quan.


Cho nên quyền ở trong quân và quân dễ hoá nên bạo. Không ai kiểm soát được ai. Phần lớn của mấy chục đảng phái chính trị, gọi là quốc gia của chúng ta, vì không có quần chúng làm hậu thuẫn nên phải dựa vào thế lực quân phiệt để mưu chức vị, quyền hành. Họ tự hỏi : "Làm sao tranh thủ được quần chúng?"nhưng vẫn không biết quần chúng muốn gì, và quần chúng là ai? nên dần dần bị tan rã hoặc biến thành những nhóm chính trị cơ hội, hoạt đầu. Không có đảng nào thắc mắc : "Làm sao theo được quần chúng?" nghĩa là đáp ứng đúng ngưỡng vọng quần chúng. Ngưỡng vọng ấy ngày nay là :

  • 1. Đòi hỏi chính phủ Mỹ ngưng tức khắc những cuộc oanh tạc trên toàn cõi Việt Nam.
  • 2. Đòi hỏi chính phủ Mỹ chấm dứt chính sách can thiệp vi phạm chủ quyền Việt Nam.
  • 3. Đòi hỏi lực lượng thứ ba có người đại diện, lực lượng dân tộc của những người khước từ chủ nghĩa đế quốc cũng như khước từ chủ nghĩa Cộng Sản.

TinParis chú thích . VVA rất " cao tay ấn và xảo trá " khi đòi hỏi 2 điều trên ( 1 và 2) vì như thế khác nào " bảo vệ an toàn " cho CS Bắc Việt . Còn điều thứ 3 nhằm đánh lạc hướng thôi !


Lực lượng dân tộc phải đấu tranh cho những ngưỡng vọng trên thì mới được quảng đại quần chúng ủng hộ, chứ không phải dựa tìm quân đội để cướp chính quyền và ly khai quần chúng đau khổ là đối tượng của chính trị.

Nói vậy lực lượng dân tộc xem thường quân đội chăng? Không. Quân đội là một hiện hữu không thể chối cãi. Nhưng yếu tố chính của quân đội là tự bảo vệ quần chúng và dân tộc. Do đó, quần chúng là đối tượng của quan đội, của tất cả chúng ta. Cho nên, vai trò của quân đội là vai trò hoàn thành nhanh chóng giai đoạn chuyển thời giữa nô lệ sang chế độ tự do dưới sự lãnh đạo của quần chúng - nghĩa là tuỳ thuộc vào ngưỡng vọng thâm thiết của quần chúng khổ đau. Chúng ta không thể tách rời, hay độc tôn quân đội, vì quân đội là một bộ phận của lực lượng dân tộc, từ lực lượng dân tộc mà ra và phục vụ cho lực lượng dân tộc đó.

Lịch sử và hiện trạng thế giới đâu đâu cũng đầy dẫy những tranh chấp bạo động. Và sau mỗi lần tàn sát khốc liệt, tan hoang, người ta bỗng tin vào sự giải quyết thần thánh bằng chính sách ngoại giao hoá trang cho hình thức tránh miếng, dừa việc, lần lữa, đội thời.

Căn bản nhận thức thực tại của thế giới đã bị sai lạc từ đầu rồi! Liên hệ nhân duyên của con người và thế giới, khiến chúng ta không thể đứng từ hải đảo này sang hải đảo kia mà nhận thức. Chúng ta phải có một nhận thức toàn bộ về thực tại, để căn cứ vào đó hành động của chúng ta thoát khỏi tình trạng bị động. Cuộc tranh đấu cho hoà bình của chúng ta từ ba năm nay thường phát nguyên theo nhận thức phải ứng giai đoạn, song chưa được khai triển tới cực độ của nhận thức của toàn bộ thực tại trên căn bản tứ diệu đế.

TinParis chú thích . VVA khai thác " đạo phật " cho mục tiêu chánh trị được dấu kính : " làm lợi cho Cộng sản "

Chính vì chỉ phản ứng khi cần thiết và tuỳ thời nên chúng ta không bao giờ chủ động được tình thế. Ngày xưa, khi Đức Phật muốn xoá bỏ giai cấp cùng đinh (intouchable), Ngài không thoả hiệp, không chờ đợi, Ngài đến nắm tay cùng đinh và dẫn vào hàng ngũ mình. Chúng ta khoan hồng với kẻ gây ra đau khổ, thoả hiệp đối thoại với họ, nhưng phải minh bạch đấu tranh đến kỳ cùng.

Đó là điều mà chúng ta cần suy nghĩ, để tìm một đường lối chấm dứt hiện trạng chiến tranh vô nhân này, đồng thời bày ra quan điểm giải quyết mới cho thế giới. Dĩ nhiên suy nghĩ cũng như hành động của chúng ta không xây trên căm thù ác bạo, mà ở sự nổ lực xuất trí, thứ nổ lực kéo cây ra lửa, trổ sen trên bùn.

Chúng tôi hy vọng rằng "Hoa Sen Trong Biển Lửa" của thượng toạ Thích Nhất Hạnh do hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại xuất bản hôm nay đã nói lên tiếng nói trung thực của lương tâm hầu tiếp nối con đường đấu tranh cho hoà bình mà quảng đại quần chúng quốc nội cũng như hải ngoại đã kiên trì tranh thủ từ ba năm nay, và đánh móc cho sự mở ra một cục diện mới cho nền trung lập chân chính và đích thực của tổ quốc chúng ta.


Paris, ngày 26.01.1967 VÕ VĂN ÁI Tổng Thư Ký Ban Chấp Hành Trung Ương Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại

  • TÀI LIỆU NED ( The National Endowment for Democracy )
NED là một hội tư , bất vụ lợi thành lập từ năm 1983, nhằm củng cố các cơ chế dân chủ trên thế giới qua các nỗ lực của tư nhân. Quỹ hoạt động của hội là do các tổ chức tư bản tài trợ, và của chánh phủ Mỹ một phần.

Trong năm 2008 , NED đã tài trợ cho các tổ chức Việt Nam hoạt động ở Hải ngoại như sau :


...........
Association of Vietnamese Overseas: Culture and Liaison (Quê Me) $107,000 To promote human rights and democratic values in Vietnam. Quê Me will publish reports and mini-bulletins that provide uncensored news and commentary to readers in Vietnam, and will also conduct advocacy campaigns drawing international attention to human rights conditions and the efforts of prodemocracy activists inside the country.
Overseas Organization to Support the Humanist Movement in Vietnam $35,000 To engage the Vietnamese public in discussing democratic ideas. The project will provide dynamic democracy education through Internet radio, including call-in shows and other forums for interactive listener engagement.

No comments: