LTS: chúng tôi có những câu hỏi với ông Nguyễn Lý Tưởng
- tấm hình của ông được đưa lên đây xuát nguồn tại Tòa Soan Báo Người Việt.
Đỗ Ngọc Yến và Báo Người Việt bôi nhọ lá cờ VNCH không thấy ông lên tiếng?
Đỗ Ngọc Yến họp bàn với Nguyễn Tấn Dũng tại tòa soạn Báo Người Việt không thấy ông phản đối?
Nguyễn Lý Tưởng che cho tội giết nhân dân Huế, chống phá chính quyền VNCH của Đôn Hậu, Huyền Quang, Quảng Độ PG Ấn Quang/GHPGVNTN.
cho đến tháng 12, 2010 Nguyễn Lý Tưởng chỉ nói 1/2 sự thật của lịch sử với mục đích gì?
NGUYỄN LÝ-TƯỞNG LÊN TIẾNG về sách “HUẾ ƠI! OAN NGHIỆT!”
*
* *
Bổ túc những điểm sai lầm về Nguyễn Lý-Tưởng và Đảng Đại Việt
trong tác phẩm “Huế Ơi! Oan Nghiệt!” của Bảo Quốc Kiếm (tức Trương Khôi)
Tôi đã gọi tel cho ông Bảo Quốc Kiếm để yêu cầu ông bổ túc những điểm sai lầm trong sách “Huế Ơi! Oan Nghiệt!” xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2010. Sau đây, tôi xin nhắc lại những điểm chính:
(1)Về lý lịch của Nguyễn Lý-Tưởng:
Trang 197-198, và 375...Bảo Quốc Kiếm viết về Nguyễn Lý-Tưởng như sau:
“Theo chỗ chúng tôi biết rất hạn chế, thì ông vốn người làng Dương Lộc, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nơi “làng Công Giáo” ấy hình như đã bị phong trào Văn thân giết chừng 200 người. Đặc biệt, ông là anh em thúc bá của Tổng giám mục địa phận Huế lúc đương thời. Ông cũng là một nhà lãnh đạo cao cấp của Đại Việt Cách Mạng Đảng của ông Hà Thúc Ký. Hiện nay là một nhà văn, nhà nghiên cưú tại Hoa Kỳ.”
Trang 375: “ông là em chú bác ruột của TGM Nguyễn Kim Điền”.
Nguyễn Lý-Tưởng trả lời:
(a) Về lý-lịch của Nguyễn Lý-Tưởng: Trong các tác phẩm của NLT xuất bản tại Hoa Kỳ...đều đã có công khai lý lịch. Bà con nội, ngoại của NLT, không có ai là Tổng Giám Mục địa phận Huế trước đây và hiện nay. Hai vị Tổng Giám Mục Philippe Nguyễn Kim Điền (đã qua đời 1988) và Stephanô Nguyễn Như Thể (hiện nay) không có vị nào là bà con thúc bá với NLT.
(b) Về biến cố xảy ra tại làng Dương Lộc: Ngày 8 tháng 9 năm 1885 những người dân theo đạo Công Giáo làng Dương Lộc và các làng chung quanh đã bị quân Văn Thân kéo đến bao vây và đốt hết nhà cửa, đốt nhà thờ và tàn sát tập thể dân lành vô tội trong đó 04 Linh Mục người Việt Nam (LM Nguyễn Ngọc Tuyên, LM Trần Ngọc Vịnh, LM Đoàn Trinh Khoan và LM Lê Văn Huấn), 65 nữ tu và khoảng 2500 tín hữu Công Giáo. Tất cả đều là người Việt Nam, không có một Linh Mục ngoại quốc nào. Biến cố nầy đã được viên Công sứ Pháp tại Quảng Trị tên là Jabouille ghi lại qua tờ trình bằng tiếng Pháp vào tháng 9/1885, được đăng lại trên Bulletin des Amis du Vieux Hue, số 4, Octobre-Decembre, 1923, trang 396-426 và được Linh Mục Adolphe Delvaux, sử gia, dịch ra tiếng Việt, in lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1941. Hiện nay tại làng Dương Lộc vẫn còn lăng mộ tập thể các vị tử vì đạo nầy.(xem Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu của NLT xuất bản 2001 tại Hoa Kỳ, tr. 101)
(c) Trong sách “Huế ơi! Oan nghiệt!”, Bảo Quốc Kiếm so sánh Nguyễn Lý-Tưởng với ông Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung...Thật là quá sức tưởng tượng. Ông Ngô Đình Cẩn đóng vai trò gọi là “Cố vấn chỉ đạo các đoàn thể chính trị trong nước và hải ngoại tại Cao Nguyên và Trung Nguyên Trung Phần” tất cả mọi công việc chính trị, quân sự,.v.v...tại miền Trung đều do Ông Cẩn sắp đặt. Ông Cẩn ở trong một ngôi nhà xưa, có vườn rộng, tường thành bao bọc, có lính bảo vệ...Viên chức nhà nước đều phải đến gặp ông để báo cáo công việc, xin lệnh thi hành. So với Nguyễn Lý-Tưởng, là một học sinh nghèo, xuất thân từ một gia đình nông dân, cha chết sớm khi mới hơn 6, 7 tuổi, phải tranh đấu để vươn lên. Dưới thời TT Ngô Đình Diệm, NLT chỉ là một học sinh Trung học. Năm 1963, NLT là một sinh viên chưa ra trường. Từ 1964-1966, NLT hoạt động trong Đảng Đại Việt CM tại Đại học Huế. Thời gian xảy ra các biến động chính trị sau khi TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ, NLT vẫn là một sinh viên. NLT không có súng đạn, không có tiền bạc, không có quyền về quân sự, hành chánh, chính trị làm sao so sánh với Ông Ngô Đình Cẩn được. Năm 1967, mới hơn 27 tuổi, NLT là một Giáo sư Trung học đệ nhị cấp, ra ứng cử Dân Biểu trong thế đối lập với chính quyền Ông Thiệu, Ông Kỳ. (NLT ủng hộ Liên Danh 2: Hà Thúc Ký và Nguyễn Văn Định, ứng cử đối lập với Liên Danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ đang nắm chính quyền). Thực tế lúc đó, Ông Kỳ nắm trọn quyền hành; Ông Thiệu chỉ là bù nhìn. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, Ông Thiệu mới dần dần củng cố quyền hành. Năm 1969, khi Ông Khiêm lên làm Thủ Tướng, phe ông Thiệu mới thực sự nắm trọn quyền hành trong tay. Từ 1967 đến 1971, trong nhiệm kỳ Dân Biểu, tại Hạ Nghị Viện, NLT luôn ở vào thế đối lập. Năm 1971, vì ở vào thế đối lập và luôn giữ lập trường chống tham nhũng nên NLT đã bị Tỉnh Trưởng là Đại Tá Lê Văn Thân tìm đủ mọi cách loại trừ. Sau đó, NLT trở lại làm Giáo Sư và bị chính quyền chèn ép đủ mọi chuyện! Sau 30/4/1975, NLT bị 02 lần tù dưới chế độ CS, tổng cộng 14 năm! Khi Miền Nam sụp đổ, đem thân vào tù, NLT không có nhà cửa, tài sản gì để lại cho vợ con. NLT chưa làm điều gì thiệt hại cho anh em hay đồng bào. Cuộc đời NLT như thế đó mà Bảo Quốc Kiếm dám so sánh với Ông Ngô Đình Cẩn thử xem có hợp tình, hợp lý hay không?
(2) Bảo Quốc Kiếm trích lời của Vũ Ngự Chiêu nói về Ông Hà Thúc Ký và Đảng Đại Việt hoàn toàn sai sự thật.
Trang 198, Bảo Quốc Kiếm mượn lời của Vũ Ngự Chiêu để nói về ông Hà Thúc Ký và đảng Đại Việt Cách Mạng như sau: “Hà Thúc Ký: Được coi như lãnh tụ Đại Việt Kitô giáo miền Trung, gia nhập đảng Đại Việt sau ngày Đặng Vũ Lạc chết, và được nâng đỡ của Đặng Văn Sung, tổ chức chiến khu Ba Lòng chống Diệm tại Quảng Trị mà theo nhiều hơn có một nguồn tin do Pháp khuyến khích, tài trợ. Đầu thập niên 1960, sau cuộc đảo chính Diệm, phe nhóm Ký lộng hành ở miền Trung. Bắt chước Cộng Sản xử dụng những thủ đoạn bá đạo để triệt hạ đối thủ và tham vọng “độc quyền” làm cách mạng, nhưng tài năng còn thua kém cả những cán bộ Cộng Sản hạng trung”. 1967 có một nhóm dân biểu tay chân tại Quốc hội...”
(Bảo Quốc Kiếm: trích trong “Việt Nam niên biểu nhân vật chí” của Chính Đạo (Tiến sỹ Vũ Ngự Chiêu)
Bảo Quốc Kiếm viết tiếp: “Ở trong đoạn nầy có một tiết lộ mới, đó là mấy chữ “Đại Việt Kitô giáo”. Đây là một tên mà trong lịch sử đảng phái ít có. Chỉ có từ trước mấy chữ: “Cần lao Công Giáo” mà thôi.
NLT trả lời:
(a)Ông Hà Thúc Ký là một Phật tử không phải là Kitô giáo
Mặc dù đây là lời của Vũ Ngự Chiêu, nhưng Bảo Quốc Kiếm tâm đắc và trích vào sách của mình...Trước hết, ông Hà Thúc Ký không phải là tín hữu Kitô giáo. Ông là một Phật tử từ khi còn nhỏ và cha mẹ ông khi về hưu, (trước 1945), đã lập chùa Phổ Tế, chùa nầy tọa lạc trên đường Nam Giao, phía trên chùa Từ Đàm, bên tay phải. Mẹ ông Hà Thúc Ký là sư bà, qua đời ngoài 90 tuổi tại chùa nầy. Ông Hà Thúc Ký và đảng Đại Việt chống Thực Dân, chống Cộng Sản và chống các chế độ độc tài, ông bị án chung thân...Đại đa số đảng viên Đại Việt là người theo đạo Phật (trên 95%), chỉ có một số ít theo đạo Công Giáo và các tôn giáo khác như Cao Đài, Hồi Giáo (gốc Chàm)...Những người theo đạo Công Giáo trong đảng Đại Việt đã bị tù dưới chế độ Đệ I Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì đối lập với chế độ nầy (như các ông Trần Điền, Nguyễn Văn Mân, Hoàng Xuân Tửu...). Ai cũng biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tin hữu đạo Công Giáo (Kitô giáo). Đảng Đại Việt chống chế độ của TT Ngô Đình Diệm, nhưng không chống đạo Công Giáo. Chúng tôi phân biệt rõ ràng một cá nhân theo đạo khác xa với một tổ chức Giáo Hội.
(b) Những người lãnh đạo đảng Đại Việt ở miền Trung (Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng) mà Bảo Quốc Kiếm biết, hầu hết là Phật Giáo hay thờ ông bà tổ tiên.
Các ông Tôn Thất Tế (Bí thư liên tỉnh), Nguyễn Ngọc Cứ (Bí thư Tỉnh bộ Thừa Thiên), Lê Đình Cai (Bí thư Thị bộ Huế), Trần Đạo Đông (CT Hội Đồng Tỉnh Quảng Trị), Lê Vân (Bí thư Thị bộ Đà Nẵng), Trần Vinh Anh (Phó Bí thư Đà Nẵng), Thái Phi Long (Hội đồng tỉnh Thừa Thiên, Phó Bí thư Tỉnh bộ Thừa Thiên)...Các Nghị sĩ trong Liên danh Bông Lúa đắc cử do Đại Việt Cách Mạng ủng hộ chỉ có 02 người theo đạo Công Giáo là Hoàng Xuân Tửu và Nguyễn Văn Mân, còn lại là Phật Giáo (Nguyễn Văn Ngải, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Kỹ Cương, Mai Đức Thiệp, Tôn Thất Uẩn, Trần Thế Minh) và 02 người Cao Đài là Nguyễn Ngọc Kỷ, Võ Văn Truyện. Như vậy đã có 06 người Phật Giáo; 02 người Cao Đài và 02 người Công Giáo. Tỷ lệ người theo Phật Giáo trong Đại Việt Cách Mạng do Ông Hà Thúc Ký lãnh đạo chiếm đa số. Vũ Ngự Chiêu nói “Đại Việt Kitô giáo miền Trung?” như vậy có xứng đáng là người có học vị tiến sĩ và là người trí thức hay không? Lời nói và việc làm chứng minh tư cách con người đó. Bảo Quốc Kiếm trích lại lời của Vũ Ngự Chiêu (có vẻ tâm đắc) là có ác ý và có mục dích tuyên truyền xuyên tạc. Người đọc sẽ đánh giá lời nói của Vũ Ngự Chiêu và việc làm của Bảo Quốc Kiếm (trích lại lời Vũ Ngự Chiêu) ...tư cách của hai người đó như thế nào?
(c) Đại Việt lộng hành ở miền Trung.
Cũng trong lời trích dẫn nầy, Bảo Quốc Kiếm đã nhắc lại lời Vũ Ngự Chiêu –“Sau cuộc đảo chính Diệm, phe nhóm Hà Thúc Ký lộng hành ở miền Trung” điều nầy có đúng hay không?
Trước hết, vì đối lập với TT Ngô Đình Diệm nên sau vụ chiến khu Ba Lòng tại Quảng Trị 1955, hầu hết đảng viên Đại Việt bị mất việc, bị tù, bị chết, hoặc phải trốn tránh, bỏ xứ đi nơi khác để sinh sống...Đảng Đại Việt kể như hoàn toàn tan rã. Sau ngày 01 tháng 11/1963, chúng tôi tập hợp lại được một số ít, toàn bộ chính quyền miền Trung lúc đó, từ vị Tư Lệnh Quân Đoàn đến các Sư Đoàn, Trung Đoàn...Tỉnh trưởng, Quận Trưởng...không có ai là đảng viên Đại Việt. Sau vụ chỉnh lý ngày 30/01/1964, ông Hà Thúc Ký tham chính trong Chính Phủ Nguyễn Khánh, giữ chức Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ, và chỉ bổ nhiệm được một người làm Tỉnh Trưởng là ông Hoàng Xuân Tưủ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị). Nhưng ngày 4/4/1964, sau 51 ngày tham chính, ông Hà Thúc Ký đã từ chức Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ, trở về hoạt động cho đảng Đại Việt. Và ông Hoàng Xuân Tửu, cũng chỉ làm Tỉnh Trưởng được hơn một năm rưởi thì từ chức (tháng 10/1965). Như vậy, chúng tôi dựa vào đâu để lộng hành cả miền Trung?
Sự thực từ tháng 11/1963 đến mùa Hè 1966, tình hình miền Trung đầy xáo trộn, các Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn, Trung Đoàn, Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng lúc đó là người của ai? Phe Quân Nhân lên nắm chính quyền tại Sài Gòn, với súng đạn trong tay, muốn làm gì thì làm. Một Tổng Thống như Ông Ngô Đình Diệm mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo vệ thì số phận của người dân sẽ ra sao? Với tuổi trẻ và đang được nghe thầy giáo dạy các bài về chế độ dân chủ trong lớp, tôi thấy thật mâu thuẫn. Ở Huế, cảnh náo loạn xảy ra thường xuyên. Sau ngày 30/01/ 1964, Tướng Nguyễn Khánh thay thế Tướng Dương Văn Minh tại Sài Gòn, vai trò của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi tại Huế lên như diều, từ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 đến Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng I (5 tỉnh miền Trung). Những người tự xưng là “Tranh Đấu” muốn bắt ai thì bắt, muốn buộc tội ai thì buộc, chính quyền làm ngơ để cho họ tha hồ hành động. Ngày nào cũng có biểu tình, tranh đấu, trường học phải đóng cửa, những ai muốn đi học cũng bị ngăn cản. Những tên du đảng, lực lượng xích lô kéo vào chiếm các phòng ốc trong đại học, họ ở đó luôn, tắm rửa, đem đồ lót phơi ngay cửa sổ phòng học, người đi qua lại ở ngoài đường đều nhìn thấy. Tình trạng khủng bố ngừơi theo đạo Công Giáo ở vùng xa xôi hẻo lánh, nhất là những nơi tân tòng (khoảng tháng 11, 12/1963, thời gian Trung Úy Nguyễn Ngọc Nghĩa làm Quận Trưởng Vinh Lộc thì một nhóm tự xưng là sinh viên đến bắt LM Nguyễn Cao Lộc ở nhà thờ Công Giáo Mỹ Á, quận Vinh Lộc, tỉnh Thừa Thiên, trói tay dẫn đi ngoài đường, đánh dập, nguyền rủa...Và ngay trong thành phố, những người Công Giáo buôn bán làm ăn, ai có nhà cao cửa rộng, ai có máu mặt...cũng bị chụp mũ “Kinh tài Cần Lao” khiến cho nhiều người phải bán nhà cửa, sang lại tiệm buôn... để chạy vào Sài Gòn.
Trước tình hình đen tối như thế, sự chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam không cùng một tôn giáo; sự kỳ thị, đối xử bất công giữa người cũ và người mới trong chính quyền, mới hôm trước hôm sau đã trở mặt: công chức, cảnh sát, sĩ quan có đạo Công Giáo trong Quân Đội,v.v...bị thuyên chuyển, bị kỷ luật...đã làm cho anh em chúng tôi rất thất vọng.
Trước năm 1963, Ông Đoàn Quang Châu, người Công Giáo, làm xã trưởng Xuân Long, Hương Trà, Thừa Thiên. Sau 1963, ông bị sa thải, trở về quê Quảng Trị. Năm 1964, ông vô Huế thăm bà con. Vừa đến cầu An Hòa thì bị một số người xưng là Tranh Đấu bắt, đem giam ở Ty Cảnh Sát Thừa Thiên. Những người tự xưng là Tranh Đấu nầy không phải là quân đội hay cảnh sát. tại sao có quyền bắt người?
Năm 1966, Giáo sư Phạm Đình Bách (đảng viên VN Quốc Dân Đảng) bị một nhóm người đánh trọng thương ngay giữa đường phố. Sau đó, xe cưú thương đưa vô bệnh viện Huế. Ai đã làm việc đó? Anh Phạm Quang Minh (sinh viên, con của GS Phạm Đình Bách) đã cho chúng tôi biết:” Cha anh bị bọn Tranh Đấu đánh trọng thương...khi đưa vào bệnh viện, chúng còn canh chừng xem có ai đến thăm. Đêm hôm đó, anh đã đưa cha anh trốn ra khỏi bệnh viện, chạy về tá túc ở quận Quảng Điền”.
Cũng năm 1966, Ông Võ Đại Lô (đảng viên Đại Việt CM), từ Quảng Trị vô Huế, đã bị vây đánh tại bến xe...
Anh Lê Đình Cai (sinh viên Đại Việt CM) đang đi giữa đường phố Quảng Trị, bị đánh vào sau gáy, té ngã xuống đường bất tỉnh, phải đưa vào bệnh viện. Ai đánh anh Cai?
Năm 1966, khi Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao từ Đà Nẵng ra Huế họp tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, họp xong vừa lên máy bay thì bị Thiếu Úy Nguyễn Đại Thức rút súng định ám sát. Một anh lính Mỹ đen, xạ thủ đại liên trên máy bay trực thăng đã bắn hạ Nguyễn Đại Thức. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao lúc đó là Tư Lệnh Quân Đoàn I và Nguyễn Đại Thức là Sĩ quan thuộc Sư Đoàn 1. Nguyễn Đại Thức được phe Tranh Đấu ở Huế tôn lên bậc “anh hùng”. Những hành động như thế có phải là “lộng hành” hay không? Thử hỏi, Vũ Ngự Chiêu và Bảo Quốc Kiếm có bao giờ thấy anh em đại Việt Cách Mạng chúng tôi có hành động như thế hay không?
Tôi là một sinh viên, bản thân và gia đình tôi không có hưởng nhờ quyền lợi gì của chế độ TT Ngô Đình Diệm. Cha và anh tôi, những người thân thuộc trong gia đình, họ hàng của tôi đã đứng trong hàng ngũ những người quốc gia chống lại Việt Minh, chống lại Cộng Sản và đã bị Cộng Sản giết trước năm 1954, trước khi Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh. Năm 1954, tôi còn là học sinh Trung học, năm 1963, tôi còn là sinh viên Đại Học, chưa tốt nghiệp, chưa đi làm...Tôi hoàn toàn không mang mặc cảm nào hết về sự liên hệ với chế độ đó. Tôi thấy cần dấn thân vào con đường tranh đấu để loại trừ những tên Cộng Sản nằm vùng trong sinh viên, để liên kết những người quốc gia, nhất là những bạn bè có thân nhân là nạn nhân Cộng Sản, thành một lực lượng hầu phá vỡ âm mưu của bọn Cộng Sản và tay sai, ít nhất trong phạm vi học đường.
Tôi đã gặp ông Hà Thúc Ký và Đảng Đại Việt. Tôi đã đọc các tài liệu của Đảng Đại Việt. Trong đảng Đại Việt không có kỳ thị tôn giáo, địa phương, sắc dân hay thành phần xã hội. Đảng Đại Việt với chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn do Trương Tử Anh sáng tạo ra từ 1939 tại Đại học Hà Nội. Muốn cho Dân Tộc được Sinh Tồn trước nạn xâm lăng của thực dân Pháp (trong thế kỷ 19, 20) hay thực dân Trung Hoa (thời nhà Hán, nhà Đường, Mông Cổ, nhà Minh, nhà Thanh)... thì phải Tranh Đấu. Muốn Tranh Đấu phải có Sức Mạnh. Muốn có Sức Mạnh thì phải Đoàn Kết. Yếu tố để tạo Đoàn Kết là phải có Tình Thương Yêu nhau giữa những người cùng chung một Đất Nước, một lãnh thổ, một Lịch Sử, một Tiếng Nói, một Giống Nòi. Trong quốc gia Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã có nhiều Sắc Dân Do đó, đảng Đại Việt tranh đấu cho Dân Tộc trong đó gồm đủ mọi Sắc Dân được Sinh Tồn và Sinh Tồn sung mãn nghĩa là được Sống và phải sống Hạnh Phúc (được hưởng các quyền tự do dân chủ, bình đẳng, no ấm...) Vì thế trong Đảng Đại Việt có người Bắc kẻ Nam, có người dân tộc Kinh, người dân tộc thiểu số, có khu bộ Thượng du Bắc Việt di cư, có khu bộ gốc Miên, gốc Chàm, gốc Thượng (Tây Nguyên)...
Từ sau khi TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đảng Đại Việt không ủng hộ các Phong Trào Tranh Đấu tại miền Trung. Đường lối của Đại Việt là chống Cộng và xây dựng Dân Chủ. Vì thế, đa số anh em sinh viên, học sinh, đặc biệt, thanh niên ở nông thôn đã tham gia Đại Việt rất đông. Chúng tôi không làm điều gì “lộng hành” như Vũ Ngự Chiêu đã nói. Và nếu Bảo Quốc Kiếm đồng ý với lập luận của Vũ Ngự Chiêu thì xin ông hãy dẫn chứng cụ thể tôi là Nguyễn Lý-Tưởng và các bạn của NLT (như Lê Đình Cai, Trần Hữu Thục...và các sinh viên Đại Việt tại Huế mà ông biết) đã làm gì gọi là “lộng hành”.
Ngày 4/4/1964, sau 51 ngày tham gia chính quyền (Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ) trong chính phủ Nguyễn Khánh, ông Hà Thúc Ký đã từ chức, trở về hoạt động, tiếp tục con đường đấu tranh của Đại Việt. Chỉ trong vòng 01 năm sau, vào cuối tháng 4/1965, ông Hà Thúc Ký đã đưa ra một Tuyên Ngôn gồm 09 điểm đòi cải cách chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục,.v.v...đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Trong tháng 5/1965, sinh viên Đại Việt đã tổ chức các cuộc biểu tình ủng hộ Tuyên Ngôn 09 điểm của ông Hà Thúc Ký tại Tam Kỳ, Quảng Tín (lúc đó Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Nghĩa làm Tỉnh Trưởng), tại Hương Trà, Thừa Thiên (lúc đó Trung Tá Võ Hữu Thu làm Tỉnh Trưởng), tại trường Đại Hào, Triệu Phong, Quảng Trị (lúc đó ông Hoàng Xuân Tửu đang làm Tỉnh Trưởng và mấy tháng sau, ông từ chức). Ngoài ra vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6/1965 cũng có các cuộc biểu tình như vậy tại Sóc Trăng và Tây Ninh do Đại Việt CM tổ chức. Chúng tôi đã lên tiếng đòi hỏi một chế độ Dân Chủ, có Quốc Hội, có Hiến Pháp, có Luật Pháp do Dân (người đại diện Dân trong Quốc Hội làm ra Luật Pháp)...Chúng tôi đã đi trước các Phong Trào Tranh Đấu vào mùa Hè 1966 tại Huế và Miền Trung hơn một năm trong việc đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Chúng tôi tranh đấu ôn hoà, bất bạo động và tôn trọng quyền tự do của người dân. Chúng tôi không có quân đội, không có chính quyền, không có tôn giáo ủng hộ đứng đàng sau...thì làm sao mà “lộng hàng” được?
Năm 1966, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi và các vị Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng (BS Nguyễn Văn Mẫn), Tư Lệnh Sư Đoàn (Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận), Trung Đoàn, Đặc Khu (Đại Tá Đàm Quang Yêu),v.v. ...đứng đàng sau các Phong Trào Tranh Đấu tại miền Trung...Ai cũng biết, chính Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với tư cách Chủ Tịch Uỷ ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng) đã ra lệnh đàn áp các Phong Trào Tranh Đấu tại Miền Trung vào mùa Hè 1966 để “ổn định tình hình”. Chính Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân chỉ huy Cảnh Sát Dã Chiến từ Sài Gòn ra Đà Nẵng và Huế, Quảng Trị để “dẹp Lực Lượng Tranh Đấu” đang lộng hành tại Miền Trung lúc đó. Những người được đưa lên ghế chính quyền đều là người của Quân Đội và tất nhiên, được “Ông Kỳ, Ông Loan tín nhiệm”. Họ thi hành lệnh của Ông Kỳ, ông Loan...Nếu có ai tỏ ra không trung thành đều bị cách chức, thay thế ngay lập tức.
Trong cuộc bầu cử Tổng Thống 1967, Ông Thiệu, Ông Kỳ, Ông Loan biết ai là người của Đại Việt Cách Mạng (ủng hộ Ông Hà Thúc Ký) thì ra lệnh cách chức ngay như Thiếu Tá Phùng Ngọc Sa (Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT Thừa Thiên), Ông Nguyễn Ngọc Cứ (Phụ Tá Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT/TT)...đều bị cách chức...Và còn biết bao trường hợp khác tương tự xảy ra khắp nơi trên lãnh thổ VNCH (mà có lẽ Ông Bảo Quốc Kiếm không biết). Những người không bị cách chức, một là đã bỏ Đại Việt theo Ông Loan, Ông Kỳ, chấp hành tuyệt đối lệnh của Ông Thiệu, Ông Kỳ “ủng hộ Liên danh Thiệu-Kỳ trong cuộc bầu cử Tổng Thống 1967...” hai là không ai biết họ là đảng viên Đại Việt CM. Chúng tôi bắt buộc phải ở vào thế đối lập thì làm sao mà “lộng hành” được?
(d) Bảo Quốc Kiếm trích lời Vũ Ngự Chiêu“ Năm 1967, ông Hà Thúc Ký có một nhóm tay chân tại Quốc Hội...”
Năm 1966, sau khi ổn định tình hình tại Miền Trung, Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ cho tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Đại Việt đưa người ra ứng cử. Trong 5 tỉnh vùng I, chúng tôi chỉ có 4 người đắc cử là: Hoàng Xuân Tửu (Quảng Trị), Trần Điền, Nguyễn Văn Ngải (Thừa Thiên) và Tôn Thất Uẩn (Quảng Tín). Nhưng trong Quốc Hội Lập Hiến 1966, chúng tôi đã thành lập được khối “đối lập” gồm 44 Dân Biểu do Nguyễn Văn Ngải làm Trưởng Khối lấy tên là Khối Đại Chúng. Trong số 44 Dân Biểu QH Lập Hiến nầy, có một số là đảng viên Đại Việt CM và một số là cảm tình viên, cùng chung lập trường tranh đấu. Chúng tôi (Đại Việt CM) đã tranh đấu để ghi vào Hiến Pháp: “Quốc gia công nhận vai trò chính đảng và đối lập chính trị”. Điều mà các chế độ trước đây, tại Việt Nam, từ thời Bảo Đại đến Ngô Đình Diệm, chưa có ...Sau khi Hiến Pháp 01 tháng 4/1967 ban hành, ĐVCM chúng tôi đã đưa người ra ứng cử Tổng Thống, Dân Biểu và Nghị Sĩ. Ông Hà Thúc Ký là người duy nhất nhân danh một chính đảng ra ứng cử Tổng Thống và chúng tôi có 4 liên danh ứng cử vào Thượng nghị viện (do các Ông Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Văn Ơn, Nghiêm Xuân Thiện và Hồ Văn Châm làm thụ ủy) và một số đảng viên ứng cử vào Hạ nghị viện. Tình thế lúc đó (1967) chúng tôi phải đối lập với chính quyền Quân Nhân do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo.
Nên nhớ rằng các ứng cử viên được khối cử tri tôn giáo ủng hộ đã chiếm đa số trong Quốc Hội (Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện). Đại Việt Cách Mạng không được khối cử tri Công Giáo cũng như Phật Giáo hay Cao Đài, Hoà Hảo..ủng hộ. Công Giáo đã ủng hộ liên danh Nguyễn Văn Huyền (Bông Huệ), Nguyễn Gia Hiến (Đại Đoàn Kết, CG Bắc di cư), Trần Văn Lắm (Cần Lao cũ), Huỳnh Văn Cao (Cần Lao cũ); Phật Giáo ủng hộ Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính (Nông Công Binh). Còn lại Liên danh Nguyễn Ngọc Kỷ (Bông Lúa) là Liên danh của Đại Việt CM đưa ra, đắc cử là nhờ đảng viên Đại Việt và gia đình cũng như thân hữu ủng hộ. Chính quyền luôn chủ trương loại bỏ người đối lập, nhưng vì chúng tôi được dân ủng hộ qua các cuộc bầu cử nên chúng tôi đã có tiếng nói trong Quốc Hội (Lưỡng viện).
(3) Bảo Quốc Kiếm trích lời của Đỗ Mậu nói về Đại Việt “không đúng sự thật”.
Bảo Quốc Kiếm trích lời Đỗ Mậu nói rằng “Đại Việt Cách Mạng hợp tác với nhóm Tứ Ân Nguyễn Long Châu – thân Cộng bị chế độ Diệm bắt giam được Bộ Trưởng Nội Vụ Hà Thúc Ký trả tự do và nhóm Cần lao Công Giáo”
(a)-Hợp tác với Nguyễn Long Châu là người thân Cộng: Điều nầy hoàn toàn sai!
Nguyễn Long Châu bị chế độ của TT Ngô Đình Diệm bắt giam tại Huế, không được đưa ra xét xử trước Tòa Án. Đối với anh em chúng tôi, Nguyễn Long Châu là bạn tù. Sau 1975, Nguyễn Long Châu bị Cộng Sản bắt giam 13 năm tại trại Hàm Tân, mãi đến 1988 mới được tha về. Từ 1964 đến 1975, Nguyễn Long Châu chỉ hoạt động trong phạm vi thuần túy tôn giáo, không làm chính trị; ông cũng không đòi hỏi chính quyền VNCH bất cứ quyền lợi nào như các giáo phái Hoà Hảo khác. Dưới chế độ đệ I Cộng Hoà, Nguyễn Long Châu bị bắt giam mà không có bản án do Toà Án xét xử. Không có án tù thì phải trả tự do cho người ta. Tại sao ông Đỗ Mậu lại gán ghép cho Nguyễn Long Châu là thân Cộng?
(b) Đỗ Mậu che chở cho tên diệp viên VC Lê Hữu Thúy.
Ông Đỗ Mậu kết án kẻ khác nhưng chính ông đã che chở cho một tên tình báo cao cấp của Việt Cộng tên là Lê Hữu Thúy, tự Thắng...Trong thời gian bị tù dưới chế độ CSVN từ 1975 đến 1988, tôi được nghe anh em (trong ngành Tình báo VNCH) kể lại câu chuyện sau đây: Lê Hữu Thúy là điệp viên Việt Cộng thuộc Cục 2 Quân báo VC đang chỉ huy một cụm tình báo quan trọng là Cụm A.25. Cụm nầy gồm có Lê Hữu Thúy là phái khiển tình báo, Nguyễn Xuân Hòe là Cán bộ và Vũ Hữu Ruật là Cơ cán (cán bộ cơ sở). Lê Hữu Thúy có bằng Tú Tài, nhờ đó đã chui vào được trường Sĩ Quan Thủ Đức. Sau khi ra trường, Lê Hữu Thúy đã chạy tiền nhờ Đỗ Mậu can thiệp cho y về làm việc tại Nha An Ninh Quân Đội Saigon, được cho làm Trưởng Phòng An Ninh.
Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo VNCH Saigon (dưới thời TT Ngô Đình Diệm) đã biết được tin tức và bằng chứng về tên Lê Hữu Thúy nên đã trình hồ sơ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Để tránh mất mặt cho Đỗ Mậu nên Trung Ương TB đã bí mật bắt tên Lê Hữu Thúy mà không cho Đỗ Mậu biết.
Thấy Lê Hữu Thúy bỗng nhiên không đến sở làm, Đỗ Mậu biết y đã bị bên Trung Ương Tình Báo bắt. Đỗ Mậu không dám xin vào gặp TT Diệm mà lại đến trình bày với ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần, rồi nhờ ông nầy dẫn vào gặp TT Diệm...
Sau nghi nghe Đỗ Mậu trình bày, TT Diệm trả lời “Ông Dương Văn Hiếu đã trình hồ sơ cho TT xem và chính TT đã ra lệnh bắt Lê Hữu Thúy”.
Sau đó, Lê Hữu Thúy được đưa ra giam tại Toà Khâm Huế (do Lê Văn Dư, Trưởng Ty Công An – Cảnh Sát Thừa Thiên Huế từ 1958-1961, phụ trách khai thác). Thời gian bị giam ở Toà Khâm Huế, Lê Hữu Thúy đã hợp tác với Lê Văn Dư (tạm gọi sự hợp tác của Lê Hữu Thuý như là trường hợp được chiêu hồi).
Ba ngày sau khi TT NDiệm bị lật đổ, (1963), Lực Lượng Tranh Đấu ở Huế kéo lên bao vây khu Chín Hầm (hầm chứa đạn thời Pháp) đòi trả tự do cho tất cả “những Phật tử bị đàn áp” đang bị giam giữ tại đây. (trong số đó có Lê Hữu Thúy).
Trở về Sài Gòn, Lê Hữu Thúy được Đỗ Mậu che chở. Năm 1968, Đỗ Mậu xin cho Lê Hữu Thúy vào làm Công Cán Uỷ Viên Bộ Thông Tin. Dưới bút hiệu Khánh Hà, Lê Hữu Thúy đã cộng tác với Tuần báo Trinh Thám của Dân Biểu Hoàng Hồ.
Trung Ương Tình Báo VNCH theo dõi tờ báo nầy biết là tờ báo VC...Những bài của Khánh Hà viết có nội dung tuyên truyền cho VC. Được biết các thành viên Cụm Tình Báo VC (A.22 và A.25) đã bị lộ từ thời TT Diệm, nay đang hoạt động trở lại với tên mới là H 10-A22 do Lê Hữu Thúy làm Phái khiển. CIA Mỹ đã theo dõi và chuyển hồ sơ cho Cảnh Sát Đặc Biệt VNCH. Ngày 20/9/1969, Cảnh Sát đã bắt toàn bộ các diệp viên VC gồm Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Bùi Phượng Thắng, Lê Thị Nuôi, Lê Văn Giáo,v.v...khoảng 50 người. Riêng DB Hoàng Hồ nghe động đã bỏ trốn trước và sau đó đã bị Hạ Nghị Viện trong phiên họp đặc biệt “tuyên bố truất quyền Dân Biểu”.
Phiên toà ngày 29/11/1969, tuyên án: Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy và Nguyễn Xuân Hòe: khổ sai chung thân...Tất cả những tên nầy bị đưa ra Côn Đảo, sau hiệp định Paris 23/01/1973, những tên nầy được trao trả cho Hà Nội.
Sau 1975, Lê Hữu Thúy làm việc cho cơ quan Phản Gián của CSVN.
Cuốn tiểu thuyết nhan đề “Ông Cố Vấn, hồ sơ một diệp viên” do Hữu Mai viết sau 1975 nói về các hoạt động của Lê Hữu Thúy dưới thời VNCH, nhưng đa số là bịa đặt, hư cấu...
Trong tù, chính Lê Văn Dư đã kể lại cho Nguyễn Lý-Tưởng. Chuyện nầy nhiều người biết.
(c) Đỗ Mậu nói rằng: Đại Việt “Hợp tác với nhóm Cần Lao Công Giáo”:
Ông Hà Thúc Ký cũng như các đảng viên Đại Việt khác là nạn nhân của chế độ đệ I Cộng Hoà và đảng Cần Lao (trong đó có ông Đỗ Mậu). Nhưng chúng tôi không kỳ thị tôn giáo và chủ trương hợp tác với những người chống Cộng (không phân biệt đảng nào, ngoại trừ Cộng Sản). Năm 1968-1969, để đối phó với Cộng Sản sau Tết Mậu Thân, Đại Việt Cách Mạng tham gia Mặt Trận “ Quốc Gia - Dân Chủ - Xã Hội”, gồm có 6 đảng: Đại Việt CM (Hà Thúc Ký), Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh), Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (Trình Quốc Khánh, Hoà Hảo), Lực Lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn Gia Hiến), Nhân Xã Cách Mạng đảng (Trương Công Cừu tức hậu thân của đảng Cần Lao) và Tự Do Dân Chủ (Nguyễn Văn Hướng, TTK Phủ Tổng Thống). Vì mục đích đoàn kết, chống Cộng nên chúng tôi đã hợp tác với những Lực Lượng chống Cộng nói trên.
(d) Tại sao Đỗ Mậu cố “ép buộc” Thiếu Tá Đặng Sỹ phải khai “TGM Ngô Đình Thục ra lệnh đàn áp Phât tử tại Huế?”
Tôi đã nhiều lần gặp Cựu Thiếu Tá Đặng Sỹ tại Hoa Kỳ và đã nghe ông kể lại: Mùa Lễ Phật Đản vào tháng 5/1963, khi Thượng Tọa Thích Trí Quang hô hào Phật tử đến bao vây Đài Phát Thanh Huế phản đối Ban Giám Đốc Đài không cho phát thanh cuốn băng thu lại lời của Thượng Tọa Thích Trí Quang phát biểu tại chùa Từ Đàm...Lúc đó, Thiếu Tá Đặng Sỹ đang có mặt tại sân Toà Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên trước sự hiện diện của hai ông Nguyễn Văn Đẳng (Tỉnh Trưởng Thừa Thiên) và ông Hồ Đắc Khương (Đại Biểu CP tại Trung Nguyên Trung Phần). Ông Nguyễn Văn Đẳng đã nói với Thiếu Tá Đặng Sỹ:
“Tôi ra lệnh cho anh phải đem lính đến dẹp ngay bọn người đang làm loạn tại Đài Phát Thanh Huế”.
Ông Đặng Sỹ trả lời:
“Tôi là quân nhân, tôi phải trình việc nầy với Cấp Chỉ Huy của tôi để xin chỉ thị”.
Lúc đó, ông Hồ Đắc Khương liền nói:
“Nhân danh Đại Biểu Chính Phủ, tôi ra lệnh cho anh...”
Tiếp đó, ông Nguyễn Văn Đẳng nói:
“Cho tôi gặp ông Ngô Đình Thục”.
Thiếu Tá Đặng Sỹ trả lời:
“Bây giờ là ban đêm, phải đợi sáng mai mới gặp được. Theo tôi nghĩ, ông Ngô Đình Thục không dính dáng gì đến chuyện nầy.”
Lực lượng được điều động đi dẹp biểu tình tối 8 tháng 5/1963 tại Huế gồm có:
-Lực lượng Cảnh Sát Thừa Thiên
-Lực Lượng Bảo An do Đại Úy Nguyễn Kinh Lược, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An Thừa Thiên chỉ huy
-Một Đại đội Lôi Hổ do Thiếu Uý Phú chỉ huy dưới sự điều động của Đại Tá Nguyễn Văn Hiền, Tư Lệnh phó Khu 11 Chiến Thuật.
-Hai Đại đội thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa (Phù Bài) do Đại Úy Vĩnh Biểu, Giám Đốc Trung Tâm Huấn Luyện chỉ huy. (Đại Úy Vĩnh Biểu sau nầy là Đại Tá, đã cho Nguyễn Lý-Tưởng biết: Ông được lệnh đem quân về Huế, phải kiểm soát trước, không cho lính mang đạn theo, nghĩa là lính mang súng không có đạn)
-Chi Đội Tuần Thám do Trung Úy Nguyễn Kỳ gồm có 6 xe bọc sắt, bánh cao su do Mã Lai viện trợ (không phải xe Tank) do Đại Uý Nguyễn Kinh Lược điều động đến tăng cường.
Trước khi xuất quân, Thiếu Tá Đặng Sỹ đã nhận được điện thoại của Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm (Quân Đoàn I, từ Đà Nẵng) ra lệnh “phải dẹp biểu tình gấp”.
Thiếu Tá Đặng Sỹ ngồi trên xe cơ giới (vỏ xe bọc sắt, bánh xe bằng cao su) cùng với Trung Uý Nguyễn Kỳ. Khi đi tới ngã ba Pharmacy Lê Đình Phòng, Ty Công Chánh và Đại Học Văn Khoa (Morin cũ) gần Đài phát thanh Huế thì nghe tiếng nổ. (Xin nói thêm lúc đó, tôi là Nguyễn Lý-Tưởng cũng có mặt trước thềm Đại học Văn Khoa. Tôi thấy rõ chiếc xe của Tiểu khu từ Toà Hành Chánh dường Lê Lợi chạy đến liền có tiếng nổ ở trước thềm Đài Phát Thanh Huế...Nhưng có một người tên là Hoàng Long Hải, cũng tự xưng là “nhân chứng” đã viết: Ông ta thấy Thiếu Tá Đặng Sỹ bắn ba phát súng ra lệnh...sau đó liền có tiếng nổ tại Đài Phát Thanh Huế... Các tài liệu của bên Phật Giáo nói rằng “xe tăng chạy cán lên xác Phật tử!” Làm sao xe tăng có thể leo lên thềm của Đài Phát Thanh được?
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ngày 23 tháng 11/1963, Quân Đoàn I tại Đà Nẵng nhận được một công điện của Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng do Thiếu Tướng Đỗ Mậu (Đại Tá mới lên Thiếu Tướng), Ủy Viên Chính Trị Hội Đồng QĐCM ký, nội dung “yêu cầu cho Thiếu Tá Đặng Sỹ vào trình diện Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng”...Ngày 24/11/1963, Thiếu Tá Đặng Sỹ bị bắt, giải vào Sài Gòn giam tại Nha An Ninh Quân Đội (phòng biệt giam số 1). Bên phải là phòng giam một tên Việt Cộng và bên trái là phòng biệt giam số 2 có Thiếu Tá Hồ Châu Tuấn thuộc Lực Lượng Đặc Biệt cũng mới bị bắt vào đó. Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, Thiếu Tướng Đỗ Mậu đến gặp và nói chuyện với Thiếu Tá Hồ Châu Tuấn. Sau đó ông ra lệnh mở cửa đưa Thiếu Tá Đặng Sỹ đến gặp...và nói rõ “Anh khai cho ông Ngô Đình Thục đã ra lệnh cho anh đàn áp Phật Giáo ở Huế thì anh sẽ được trả tự do”. Đặng Sỹ nhất định từ chối vì điều đó không đúng sự thật.
Hôm sau, Thiếu Tá Đặng Sỹ được đưa đến phòng thẩm vấn để lấy lời khai. Trưởng phòng là Đại Úy Xuân, nhưng ông nầy đã giao cho một Trung Uý làm việc với Thiếu Tá Đặng Sỹ. Trung Úy nầy đã cho Đặng Sỹ biết: nếu đồng ý khai theo ý của Thiếu Tướng thì sẽ được cho vào làm việc tại Sài Gòn, vẫn mang cấp bậc cũ và còn cho một chiếc xe Peugeot 203 mới nữa. Thiếu Tá Đặng Sỹ trả lời:
“Nếu Thiếu Tướng đã chỉ thị rõ ràng như vậy thì xin viết tay ra lệnh cho tôi thì tôi mới thi hành”.
Trước mặt Đại Úy Xuân, Trưởng phòng, viên Trung Uý đã cho Thiếu Tá Đặng Sỹ xem một chỉ thị của Thiếu Tướng Đỗ Mậu viết trên một mảnh giấy nhỏ:
“Lưu ý Đặng Sỹ đừng khai dài dòng, chỉ nói mục đích chính của cuộc đàn áp. Hỏi Ngô Đình Thục đã ra lệnh cho y khi nào?”.
Sau đó, viên Trung Uý này đi ra và một Đại Uý khác vào thay thế tiếp tục thẩm vấn...Đại Uý này, ngày trước đã từng làm việc dưới quyền của Thiếu Tá Đặng Sỹ...Anh ta nhắc lại “Theo ý của Thiếu Tướng, Thiếu Tá chỉ khai một lời duy nhất: “Chính ông Ngô Đình Thục đã ra lệnh cho Thiếu Tá ngày nào, giờ nào, trực tiếp hay qua trung gian...Chỉ cần viết một trang, rồi ký tên là đủ, không cần dài dòng”.
Sau khi trở về phòng giam, Thiếu Tá Đặng Sỹ đã tìm cách liên lạc được với một người quen ở Nha An Ninh Quân Đội, nhờ ông nầy tìm cách copy chỉ thị viết tay của Thiếu Tướng Đỗ Mậu và đem đến cho vợ Đặng Sỹ ở đường Trương Minh Giảng.
Lệnh viết tay đó đã đến tay Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình tại Sài Gòn và sau đó, đã đến Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đã trình bày với Chính Phủ Mỹ “âm mưu đổ tội cho Công Giáo” do ông Đỗ Mậu (hoặc do một tổ chức nào đó đứng đàng sau ông ta). Trong phiên toà ngày 2 tháng 6/1964, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm đã ra làm chứng trước Tòa Án chính ông ta đã ra lệnh cho Thiếu Tá Đặng Sỹ phải đi dẹp biểu tình đêm 8 tháng 5/1963 tại Huế. Ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên cũng xác nhận chính ông ta đã ra lệnh cho Đặng Sỹ “dẹp biểu tình”...
Trung Úy Nguyễn Kỳ (một Phật tử) đã được nhân viên An Ninh Quân Đội, theo lệnh của Đỗ Mậu, ép buộc phải khai cho Thiếu Tá Đặng Sỹ đã ra lệnh ném chất nổ. Nhưng ông ta từ chối. Sau đó, Trung Úy Nguyễn Kỳ đã bị chết một cách bí mật.
Sau ngày 01 tháng 11/1963, Đỗ Mậu đã cho người đi tìm cho ra tờ trình của chính ông ta gởi lên TT Ngô Đình Diệm về vụ “nổ tại Đài Phát Thanh Huế đêm 8 tháng 5/1963”, vì sau khi lấy lời khai của các quân nhân liên hệ, các nhân chứng, và giám định hiện trường, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, đã làm tờ trình cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm kết luận rằng các nạn nhân bị chết vì chất nổ plastic của Việt Cộng. Quân Lực VNCH không có loại chất nổ nầy. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã chỉ thị lập một phái đoàn điều tra do Trung Tướng Trần Văn Đôn làm trưởng đoàn với sự tham dự của các cơ quan chuyên môn: Tổng Nha Cảnh Sát, Trung Ương Tình Báo, An Ninh Quân Đội, Nha Quân Cụ và Bộ Y Tế...Kết luận của phái đoàn điều tra nầy cũng giống như kết luận của Đỗ Mậu. Riêng ông Ngô Đình Nhu, thì cho rằng vụ nổ nầy không phải do Việt Cộng (ông nghi là do người Mỹ) và ông đã âm thầm ra lệnh tiếp tục điều tra...Nhưng ông Nhu và TT Diệm đã chết trước khi sự thật được đưa ra ánh sáng!
Sau ngày 01/11/1963, Đỗ Mậu cũng cho nhân viên đi tìm và thủ tiêu các tờ khai của các nhà sư Phật Giáo, đặc biệt là tờ khai của Thượng Tọa Thích Thiên Minh. Chỉ có tờ khai của Thượng Tọa Thích Tâm Châu là không tìm ra (vì đã chuyển qua cho Bộ Nội Vụ và đã lọt vào tay một người nào đó rồi!) Toàn bộ hồ sơ của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung liên quan đến các hoạt động của cán bộ CS nằm vùng tại miền Nam đã bị bắt hay đang bị theo dõi... cũng bị thủ tiêu hết. Điều nầy đã làm cho CIA rất bực tức...
Cái lệnh viết tay của Đỗ Mậu nhằm “đổ tội cho ông Ngô Đình Thục ra lệnh cho Thiếu Tá Đặng Sỹ đàn áp Phật Giáo” để gây chia rẽ tôn giáo...cũng đã đến tay một số Tướng Lãnh VNCH. Vì thế Đỗ Mậu bị buộc phải bàn giao Nha An Ninh Quân Đội cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Quan...
Vì không đủ lý do để buộc tội nên Toà Án đã tha chết cho Thiếu Tá Đặng Sỹ. Ngày 18/8/2000, lúc đó Đặng Sỹ và Đỗ Mậu còn sống, Tú Gàn đã viết trên báo “Saigon Nhỏ” thách Đỗ Mậu công khai đối chất với Đặng Sỹ. Một người đã tới nhà, trao tận tay tờ báo đó cho Đỗ Mậu...Nhưng Đỗ Mậu đã “im lặng”không trả lời!
Những điều nầy đã được công bố trên báo, các nhân chứng trong phiên tòa vụ xử Đặng Sỹ hiện còn sống là Đặng Văn Quang và Dương Hiếu Nghĩa...không ai lên tiếng phủ nhận.
(e) Tại sao CSVN xuất bản sách “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu?
Sách “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu đã được nhà xuất bản Công An Nhân Dân cho in và phát hành tại Việt Nam. Các nhà sách tại Sài Gòn đều bày bán công khai. Từ 1988-1994, khi còn ở tại Sài Gòn, tôi đã được đọc qua sách nầy? Mọi người đều hỏi nhau: “Tại sao sách của Đỗ Mậu mà Cộng Sản xuất bản?” Xin để cho ông Bảo Quốc Kiếm (Trương Khôi) trả lời!
(f) Tư cách của Đỗ Mậu và anh em của ông ta.
Cưụ Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, đã kể lại: theo đề nghị của Trung Tá Lê Văn Phước, Tỉnh trưởng Vĩnh Long, trước khi được bổ nhiệm làm Quận trưởng quận Bình Minh thì vào khoảng 11/1960, ông Dương Hiếu Nghĩa được gọi từ Vĩnh Long về Sài Gòn để trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
“Theo đúng thông lệ, tôi về Sài Gòn trước đó một ngày để gặp Trung Tá Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội (lúc đó là Trung Tá Đỗ Mậu), để được dặn dò và chỉ bảo về lễ nghi khi vào gặp Tổng Thống. Đại để như phải xưng hô là “con”, phải gọi Tổng Thống là “Cụ”, không được ngồi dù có được cho phép, phải lựa cách trả lời những câu hỏi thế nào để chẳng những không làm phật lòng mà còn phải làm vui lòng Tổng Thống, dù có lúc phải nói trái với sự thật. Phải giữ thái độ nghiêm trang lúc trò chuyện với Tổng Thống, lựa lời nói nhỏ nhẹ, thưa trình, nghiêm túc, không được cười đùa, và cuối cùng là khi ra về không được xây lưng về phía Tổng Thống; chào xong, bước lùi ra cửa, ra khỏi cửa mới được quay lưng lại mà đi về.”
(Dương Hiếu Nghĩa: “Để làm sáng tỏ thêm một sự việc trong ngày 2/11/1963 về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm” đã đăng trên nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, từ tháng 11/1996. Trích lại từ Đặc San Động Đế Nha Trang, 09/2000 trang 69 )
Sau nầy, khi nhắc lại lời dặn dò của ông Đỗ Mậu nói trên, ông Dương Hiếu Nghĩa đã có nhận xét như sau:
“Bước ra khỏi Nha An Ninh Quân Đội, tôi nhận thấy những lời dặn dò của Trung Tá Giám Đốc gần như là một hàng rào cố tình ngăn cách người lãnh đạo quốc gia và các cấp quân dân cán chính, cố tình bưng bít, không muốn cho Tổng Thống thấy và biết chính xác sự thật của mọi sự việc xảy ra bên ngoài rào của dinh Độc Lập”.
-Do đâu mà Đỗ Mậu trở nên tay chân thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm?
Cụ Võ Như Nguyện, sinh năm 1915 tại Huế, hiện còn sống ở Pháp, là Giám Đốc Viện Hán Học Huế (1962-1963) là bậc Thầy của chúng tôi (dạy Hán văn) đã cho tôi biết: Trước 1945, thời Pháp cai trị Việt Nam, Đỗ Mậu là Cai lính khố xanh, gác cổng, gác nhà tại Tòa Khâm Sứ Huế, trình độ văn hoá “tiểu học”. Lúc đó, Cụ Võ Như Nguyện làm việc tại Toà Khâm (nhân viên Hành chánh). Cụ Nguyện là con của nhà cách mạng Võ Bá Hạp (cử nhân Hán học, bạn của hai Cụ Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng). Cụ Nguyện được hai anh em Ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm tin cậy và đã từng nhờ thực hiện một vài công tác bí mật trong thời gian hoạt động cách mạng chống Pháp. Thời gian Ông Ngô Đình Diệm ở hải ngoại trước 1954, Cụ Nguyện thường liên lạc với Ông Ngô Đình Cẩn và thường đến nhà Ông Cẩn dự lễ giỗ Ông Ngô Đình Khả. Đỗ Mậu biết chuyện đó và cũng xin Cụ Nguyện cho đi theo vào gặp Ông Cẩn. Đỗ Mậu cũng xin ngày sinh của Ông Ngô Đình Diệm để đi hỏi các thầy Tử Vi đoán vận mệnh cho Ông Diệm. Khi Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, Đỗ Mậu gia nhập đảng Cần Lao của Ông Cẩn và nhờ có gốc đồng hương Quảng Bình và khéo nịnh bợ nên được tin cậy trao cho chỉ huy ngành An Ninh Quân Đội ở Trung Ương Sài Gòn. Giờ chót, Đỗ Mậu phản bội Ông Diệm để theo Mỹ (nhóm Dương Văn Minh). Khi Đỗ Mậu viết sách (hoặc nhờ ngừơi khác viết thay) công khai xuyên tạc chế độ Ông Diệm...thì Cụ Võ Như Nguyện đã lên tiếng trách ông ta và đã nêu ra những diều sai trái trong sách đó. Ông Đỗ Mậu có viết một thư phân trần với Cụ Nguyện. Sau khi nhận được thư của Đỗ Mậu, Cụ Nguyện có đưa ra một số nhận xét mà Đỗ Mậu nghĩ rằng “bất lợi” cho ông ta. Vì thế, Đỗ Mậu đã nhờ một người quen (tên Phùng Ngọc Trưng) đến nhà Cụ Nguyện, ở lại hàng tháng để tìm cách lấy cắp thư đó đem về trả lại cho Đỗ Mậu. Cụ Nguyện vì tin người nên đã bị người bạn kia lừa dối.
Chuyện “ăn bẩn” của Đỗ Toàn là anh ruột Đỗ Mậu
Đỗ Toàn được Ông Ngô Đình Cẩn cho làm Quản Đốc Lao Xá Thừa Thiên từ 1954-1955. Ông ta ăn bớt tiền chợ của tù và đối xử rất tệ với anh em tù (thành phần đối lập như Việt Quốc và Đại Việt tại miền Trung) mà không ai dám nói gì. Trong số tù chính trị có Cụ Nguyễn Văn Mân (thường gọi là Ông Tú Mân, đã từng giữ chức Tỉnh Trưởng Quảng Trị thời Cụ Trần Văn Lý (1947), sau từ chức trở về hoạt động cho Đại Việt (Quyền Xử Ủy Trưởng Đại Việt Miền Trung thay thế ông Hà Thúc Ký). Nhân vụ Đại Việt ly khai lập chiến khu Ba Lòng tại Quảng Trị, đối lập với TT Ngô Đình Diệm năm 1955 Ông Mân bị tù, giam tại lao xá Thừa Phủ, Huế. Trước đây, Ông Tú Mân đã từng quen biết với Ông Ngô Đình Cẩn nên đã viết một thư riêng cho Ông Cẩn (nhờ Cha Tuyên Uý nhà tù chuyển giúp). Trong thư, Ông Mân nói rằng: “Trên đời nầy có 03 nơi mà người ta không nở ăn bớt phầm cơm của họ. Đó là: cơm nuôi tù, cơm nuôi người nghèo ở bệnh viện và cơm nuôi trẻ mồ côi. Chế độ của Ngô Tổng Thống tự đề cao là “liêm chính” mà lại có một Quản Đốc Lao Xá là Đỗ Toàn “ăn bớt cơm tù! ăn bớt tiền chợ của tù!” Thật xấu hỗ cho chế độ!...”
Ông Cẩn nhận được thư đó, nổi giận, bèn gọi điện thoại cho Tỉnh Trưởng là Hà Thúc Luyện, ra lệnh phải cách chức Đỗ Toàn ngay! Không được để qua Tết. Tỉnh trưởng liền cử Ông Hoàng Nhụy (cũng người gốc Quảng Bình) làm Quản Đốc Lao Xá Thừa Thiên thay Đỗ Toàn và bàn giao vào ngày 30 Tết...
Đỗ Mậu cũng có người anh em ruột là Đỗ Ái, làm Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Nha Trang- Khánh Hoà khoảng 1964-1965. Tư cách của ông nầy cũng không kém gì Đỗ Toàn!
(4) Bảo Quốc Kiếm nói: Đại Việt Cách Mạng là một Đảng độc tài?”
Ông Bảo Quốc Kiếm đã quen biết nhiều đảng viên Đại Việt CM tại Huế và Thừa Thiên, xin ông hãy lấy lương tâm của mình làm chứng về những đảng viên Đại Việt như Nguyễn Ngọc Cứ, Lê Đình Cai, Trần Hữu Thục, Lê Ngân,v.v...Những người nầy có hành động gì gọi là “độc tài”? Họ đã đối xử với Bảo Quốc Kiếm ra sao? Có phải khi Bảo Quốc Kiếm cần đến sự giúp đỡ thì họ luôn sẵn sàng hay không? Anh em Đại Việt đã giúp đỡ ông khi ông gặp khó khăn hay đã chèn ép ông, cư xử bất công với ông? Chắc ông cũng thừa biết: ông Nguyễn Ngọc Cứ, ông Lê Ngân đã bị mất chức vì ủng hộ ông Hà Thúc Ký, đối lập với liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1967. Và lần thứ hai, năm 1972, ông Nguyễn Ngọc Cứ mất chức Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên vì không chịu bỏ đảng Đại Việt để theo đảng Dân Chủ.
(5) Ai là đảng viên Đại Việt?
Trang 205, Bảo Quốc Kiếm viết: “Lúc đó, Đại tá Tôn Thất Khiên, Đại Việt, làm Tỉnh Trưởng”. Ai cũng biết “ Đại Tá Tôn Thất Khiên thuộc đảng Dân Chủ của Tổng Thống Thiệu!”-Cũng trang 205, ông viết “Liên Thành là người của ai mà có thể đứng vững, mà còn quyền uy tột độ, từ 1966 đến giữa năm 1974?”Điều nầy chính Liên Thành đã trả lời trong sách “Biến Động Miền Trung” : “Liên Thành là chi khu phó dứơi quyền Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt, quận trưởng Nam Hoà (Thừa Thiên), khi Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt được Trung Tá Phan Văn Khoa đưa lên làm Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên (1966) thì Liên Thành được Thiếu Tá Đạt đưa về làm Phó Ty Cảnh Sát đặc biệt để giúp Thiếu Tá Đạt. (Xem Biến Động Miền Trung của Liên Thành tr.38-39...) Sau đó, Liên Thành được Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan (Tư Lệnh Cảnh Sát, 1966) tín nhiệm. Ngoài ra còn được Cố Vấn Mỹ “cưng” nữa!Trải qua 2 đời Trưởng Ty là Đoàn Công Lập và Dương Quang Tiếp, đến 1969-70, khi Dương Quang Tiếp lên làm Chỉ huy Cảnh Sát vùng I thì Liên Thành mới được lên Trưởng Ty (Đại Úy Quân Đội, mang lon Thiếu Tá Cảnh Sát)...Trong cuộc vận động bầu cử Tổng Thống năm 1967, Liên Thành đã ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, đã từng đi bắt anh em đảng viên Đại Việt ở xã, ấp đem về giam ở Ty Cảnh Sát vì họ đi vận động ủng hộ liên danh Hà Thúc Ký-Nguyễn Văn Định (Liên danh 2). Năm 1973, khi LM Trần Hưũ Thanh và Phong Trào Chống Tham Nhũng ra Huế, nói chuyện tại sân nhà thờ Dòng Chúa Cưú Thế, sau đó, đoàn người kéo lên sân nhà thờ Phủ Cam...Liên Thành đã cho xe chận ngang giữa đường Nguyễn Huệ và đã bắn lựu đạn cay “trực chỉ” vào bụng ông Hoàng Xuân Tửu (lúc đó là Nghị sĩ VNCH)... Ông Hoàng Xuân Tửu là Tổng Ủy Viên Thường Vụ BCH Trung Ương ĐVCM, là nhân vật thứ hai của ĐVCM! Từ những dữ kiện nầy, Bảo Quốc Kiếm có thể suy luận ra Liên Thành là người của ai và vai trò của Liên Thành ở Huế như thế nào...
(6) Bảo Quốc Kiếm thắc mắc: Tại sao Nguyễn Lý-Tưởng là một giáo sư văn chương, một nhà nghiên cứu mà lại quan tâm tìmh hiểu tình hình quân sư, tình báo tại Thừa Thiên, Huế trước và sau Tết Mậu Thân? Tại sao lại vào ngủ lại trong Ty Cảnh Sát và trong Tiểu Đoàn 12 Pháo Binh ở Phù Bài trong thời gian xảy ra trận Mậu Thân?
Theo Hiến Pháp VNCH ngày 01 tháng 4/1967, nhiệm vụ và quyền hạn của Dân Biểu là “làm luật và kiểm soát Hành Pháp trong việc thi hành chính sách Quốc Gia”. Do đó, Dân Biểu có quyền kiểm soát mọi hoạt động của Hành Pháp (Chính Quyền) trên mọi lãnh vực. Nguyễn Lý-Tưởng là Dân Biểu của VNCH không phải là Dân Biểu của tỉnh Thừa Thiên. Thừa Thiên là đơn vị ứng cử nhưng Dân Biểu Quốc Hội là củaVNCH nên quyền hạn của Quốc Hội bao trùm trên mọi công việc của Quốc Gia. Một người công dân, có điều kiện tốt nghiệp trường sĩ quan, khởi đầu bằng cấp bậc Chuẩn Úy hay Thiếu Uý, có thể lúc đó họ không hề nghĩ tới một ngày kia họ sẽ đóng vai trò lãnh đạo hành chánh, chính trị của quốc gia. Nhưng một người dấn thân hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị, lên đến cấp Trung Ương như Nguyễn Lý-Tưởng và đang là Dân Biểu Quốc Hội thì phải tìm hiểu, nghiên cứu đủ mọi vấn đề thuộc về chính trị, nghệ thuật tranh đấu nghị trường, nghệ thuật lãnh đạo... Nếu đảng Đại Việt CM thành công thì từ vai trò lãnh đạo Đảng chúng tôi sẽ lãnh đạo chính quyền. Nếu chúng tôi chưa thành công, thì chúng tôi giữ vai trò đối lập, đó là vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị của một chế độ dân chủ. Chúng tôi bắt buộc phải có những hiểu biết về quân sự, chính trị, kinh tế,v.v...kể cả trong lãnh vực an ninh tình báo. Một người đã dấn thân hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị rất sớm như NLT... tất nhiên phải có những kiến thức về quân sự và an ninh tình báo. Chắc chắn Bảo Quốc Kiếm cũng thừa biết Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ,v.v...là những cấp lãnh đạo của đảng Cộng Sản VN, không xuất thân từ một trường quân sự, chính trị hay tình báo nào cả. Họ trưởng thành trong tranh đấu và trong đảng chính trị.
(7) Tại sao trong Tết Mậu Thân, Nguyễn Lý-Tưởng đã đến tiếp xúc với cơ quan nầy, cơ quan khác?
Trước hết, vì NLT quen biết những người trong các cơ quan đó, qua họ, NLT có thể tìm hiểu tình hình chính xác hơn. Thứ hai, lúc đó, nhiều cán bộ Đại Việt đang ở trong vùng địch kiểm soát, NLT nóng lòng muốn biết tin tức họ sống hay chết và tìm cách liên lạc với họ. NLT cũng có đủ tự tin khi tiếp xúc với những người ở trong chính quyền và những người đó cũng biết NLT là hạng người như thế nào? trình độ hiểu biết, kiến thức đến đâu? NLT ở lại trong Ty Cảnh Sát một đêm vì NLT biết lúc đó trong Ty Cảnh Sát anh em có tinh thần chiến đấu cao và là một nơi tin cậy để bảo vệ an ninh cho bản thân NLT. Tôi đã được ông Đoàn Công Lập cho biết tình hình đang xảy ra trong thị xã Huế (đặc biệt là khu vực thành nội, nhiều anh em Cảnh Sát có máy bộ đàm vẫn liên lạc với Ty).
(8) Đoàn Công Lập là ai? Là người của Đại Việt hay của Việt Cộng?
Đoàn Công Lập là ngừơi của đảng Đại Việt, đã cộng tác với chúng tôi từ 1955. Chúng tôi biết rõ ông ta và chúng tôi không nghĩ rằng ông ta là Cộng Sản nằm vùng như Liên Thành nói. Liên Thành căn cứ vào lời khai của Hoàng Kim Loan, nhưng chúng tôi căn cứ vào chúng tôi, căn cứ vào người của chúng tôi, cơ sở của đảng Đại Việt chúng tôi. Trong vụ bầu cử Tổng Thống năm 1967, Đoàn Công Lập hoàn toàn chấp hành lệnh của cấp chi huy là Tướng Nguyễn Ngọc Loan, ủng hộ Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ; trong lúc đó, anh em chúng tôi ủng hộ Liên danh Hà Thúc Ký-Nguyễn Văn Định, ứng cử Tổng Thống đối lập Liên danh Thiệu-Kỳ. Duyện nợ với Đại Việt của ông Đoàn Công Lập đến 1967 kể như chấm dứt và khoảng 1969, ông Đoàn Công Lập là đại diện cho ông Trần Quốc Bửu (Đảng Công Nông) tại vùng I. Có một điều mà Bảo Quốc Kiếm không biết về Đoàn Công Lập: Từ 1946 đến 1952, Đoàn Công Lập đi theo kháng chiến chống Pháp thuộc Trung Đoàn 45 Việt Minh. Sau đó, Lập trở về gia nhập quân đội Quốc Gia, mang cấp bậc Chuẩn Úy thuộc Phòng 6 (Quân Báo) tại Huế (Đệ II Quân Khu). Lập tham gia Đại Việt trong thời gian nầy. Sau vụ Ba Lòng 1955, Lập bị bắt buộc giải ngũ, ra khỏi quân đội, chỉ còn là một người dân thường. Lập có người chú là Thích Tiêu Diêu, tự thiêu tại chùa Từ Đàm 5/1963 chống chế độ Ngô Đình Diệm. Thích Tiêu Diêu là thân phụ của Thượng Tọa Thích Thiên Ân (tức Tiến Sĩ Đoàn Văn An, Giáo sư Đại Học Sài Gòn, Vạn Hạnh và Huế...) Chủ trương của Ông Kỳ, Ông Loan lúc đó là dùng người gốc Phật Giáo để “dẹp phe Tranh Đấu ở Miền Trung” nên Đoàn Công Lập được đưa lên làm Trưởng Ty Cảnh Sát Huế; Lê Cảnh Thâm (có con chết tại Đài Phát Thanh Huế 5/1963) cũng được đưa lên làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quảng Trị và Liên Thành cũng là một Phật Tử (bà nội là anh em bà con với Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết)...được đưa về làm Phó Ty Đặc Biệt...Vì cái gương của Đặng Sỹ còn sờ sờ ra đó nên năm 1966, không người Công Giáo nào dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm đương đầu với phe Tranh Đấu tại Miền Trung...
(9) Bảo Quốc Kiếm thắc mắc tại sao NLT lại đến chùa Thiên Mụ thăm “VC” Thích Đôn Hậu?
Năm 1995, tôi có viết hồi ký “Tất niên với Thượng Toạ Thích Đôn Hậu” (lúc đó, Thầy Đôn Hậu là Thượng Toạ, Chánh Đại diện miền Vạn Hạnh) Tôi có kể lại: chuyến bay từ Saigon ra Huế khoảng 10 ngày trước Tết Mậu Thân, NLT ngồi bên cạnh Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, nói chuyện gần 3 tiếng đồng hồ mà chưa hết chuyện. Thượng Tọa có mời NLT đến thăm chùa, nơi ngài đang ở. Sáng 30 Tết, tôi đến thăm ngài tại chùa Thiên Mụ. Thượng Tọa là người Triệu Phong, đồng hương với NLT nên có nhiều tâm tình quê hương để trao đổi với nhau. Lúc đó, trong lòng NLT không bao giờ nghĩ rằng Thượng Tọa Thích Đôn Hậu là “VC” và luôn dành cho ngài nhiều cảm tình và sự kính trọng. Khi biến cố Mậu Thân xảy ra, NLT cũng vẫn nghĩ điều tốt cho ngài. Sau 1975, Thích Đôn Hậu là “đệ tam Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo VNTN” người kế vị ngài là Hoà Thượng Thích Huyền Quang và bây giờ là Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đang tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. NLT ủng hộ cuộc tranh đấu của các ngài cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Liên Thành không phải là Nguyễn Lý-Tưởng, Liên Thành nói theo Liên Thành và NLT không nói như Liên Thành nói trong “Biến Động Miền Trung”. NLT nghĩ rằng sự hiểu biết của Bảo Quốc Kiếm còn rất giới hạn, điều gì mình không biết rõ thì không nên “khẳng định” về người khác.
(10) Tại sao NLT ở lại 01 đêm trong tiểu đoàn 12 Pháo Binh ở gần Phi trường Phù Bài?
Lúc đó, NLT đi xe Honda 2 bánh từ Huế về Phù Lương để thăm đồng bào đang chạy về đó. Chiều tối, thấy tình hình nơi đây không được an toàn nên NLT đã tìm đến một người bạn (Tiểu đoàn trưởng 12 Pháo Binh) nơi đó an toàn hơn. NLT cũng biết rằng, Pháo Binh bắn yểm trợ cho các đơn vị VNCH đang chiến đấu trong vùng nên qua bản đồ của Pháo Binh, NLT sẽ biết được ở Huế và Thừa Thiên, nơi nào còn, nơi nào mất ...Từ đó sẽ biết được tình hình bên ta và bên địch.
(11) Bảo Quốc Kiếm nói: NLT đến Ty Cảnh Sát gặp Liên Thành: không đúng.
NLT nhờ Ông Võ Lương (Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Vùng I tại Đà Nẵng) giúp liên lạc với Đoàn Công Lập, lúc đó là Trưởng Ty. NLT đến Ty Cảnh Sát gặp Đoàn Công Lập chứ không gặp Liên Thành. Trong thời gian nầy, NLT chưa bao giờ gặp Liên Thành và NLT cũng không thấy mặt Liên Thành ở đâu trong Ty Cảnh Sát khi NLT ở lại đó.
(12) Bảo Quốc Kiếm thắc mắc “Trong 3 ngày Tết NLT ở đâu?” “Phải chăng NLT đã đi gặp Việt Cộng?”
Trong bài nói về Tết Mậu Thân ở Quảng Trị, NLT đã nói rõ: Đêm 30 Tết, tôi ở bên cạnh mẹ tôi tại làng Dương Lộc, quê của tôi. Ông cho rằng thời gian 3 ngày tôi không có mặt ở Huế mà lại ở phiá Bắc Huế tức là đã đi gặp Việt Cộng!? Phía Bắc Huế là Quảng Trị. Ông có biết cha tôi, anh tôi, bà con họ hàng tôi hơn 10 người bị Cộng Sản giết từ 1945-1972, tôi là người con trai duy nhất còn lại trong gia đình hay không?
Bảo Quốc Kiếm đúng là “chẻ sợi tóc làm bốn”. Ông bắt bẻ từng chữ (có khi viết nhầm, có khi đánh máy sai)...Về Ông Trần Đình Thương, lúc đầu tôi nghe nói ông tự tử. Nhưng sau đó, tôi đã bổ túc: Theo hồi ký của Ông Bảo Lộc “Ông Trần Đình Thương chạy ra khỏi nhà và bị bắn chết ở ngoài đường”. Về Ông Từ Tôn Kháng, tôi viết lại theo lời kể của anh ruột ông Từ Tôn Kháng là Từ Tôn Dũng và bạn của ông là Trung Tá Tôn Thất Thuyên. Tôi cũng đã gặp bà vợ Ông Từ Tôn Kháng... nhưng bà không muốn nhắc lại những điều quá đau buồn trong quá khứ. Những gì tôi viết về Ông Trần Ngọc Lộ là đúng vì tôi đã tiếp xúc với em gái, cháu và con của ông ấy. Tôi cũng đã hỏi lại GS Trần Đạo Đông (Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh Quảng Trị, là người đứng đầu môn phái võ Thần Quyền hiện nay). Tất cả, đều xác nhận điều tôi viết là đúng.
(13) Bảo Quốc Kiếm nói : “NLT và Khối 8406 là một”.
Tôi không hề tham gia Khối 8406 và tôi cũng không biết rõ về Khối 8406 gồm những ai và đường lối hoạt động như thế nào. Năm 1987-1988, có một thời gian, Linh Mục Nguyễn Văn Lý ở chung trại tù Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh, miền Bắc) với tôi. LM Nguyễn Văn Lý được đưa từ trại Thanh Cẩm (Thanh Hóa) về trại Nam Hà.
(14) Bảo Quốc Kiếm thắc mắc tại sao trong Tết Mậu Thân NLT đã đi nhiều nơi :Từ Quảng Trị vào Đà Nẵng, Nha Trang, Saigon...rồi từ Saigon trở ra Huế...
Khi xảy ra cuộc tấn công của VC vào Huế và các nơi khác trên toàn lãnh thổ VNCH, chúng tôi nhận được thông báo của Quốc Hội triệu tập các Dân Biểu và Nghị Sĩ về Saigòn họp khẩn cấp. Tại Quảng Trị lúc đó có mặt: ông Hoàng Xuân Tửu (Nghị sĩ), ông Nguyễn Văn Triển (Dân Biểu), ông Trương Đình Tư (DB) và tôi, Nguyễn Lý-Tưởng (DB). Chúng tôi được Đại Tá Nguyễn Ấm đưa ra phi trường Aí Tử đi vào Đà Nẵng, ở lại đó một đêm. Từ Đà Nẵng máy bay đưa chúng tôi vào Nha Trang để đón các vị Dân Biểu đang có mặt tại Nha Trang, sau đó, cùng vào Sài Gòn...Vì thế chúng tôi phải ở lại qua đêm tại Đà Nẵng và Nha Trang. Như vậy, chỉ trong mấy ngày mà tôi được chứng kiến nhiều hình ảnh xảy ra trong Tết Mậu Thân tại nhiều địa phương ở miền Trung.
(15) Bảo Quốc Kiếm thắc mắc về con số người chết trong Tết mậu Thân ở Huế và Thừa Thiên mà Nguyễn Lý-Tưởng đưa ra khác với con số do Liên Thành đưa ra.
Tôi đưa ra con số 2326 sọ người tìm được. Xin lưu ý “Đây là số sọ người tìm được tại các địa điểm...Căn cứ vào bản tường trình của Dr.Vannema” như sau: (trích trong sách “Thảm Sát Mậu Thân ở Huế” tái bản lần thứ hai, tại California, Hoa Kỳ năm 2008 trang 229)
Tên địa diểm: Thời điểm phát hiện Số nạn nhân
Trường Gia Hội 26/02/1968 và 10/3/1968 203
Chùa Theravada 26/2/1968 43
Bãi Dâu 26
Cồn Hến 26/2/1968 101
Tiểu chủng viện 09/2/1968 06
Quận Tả Ngạn 10/3/1968 21
Phía Đông Huế 14/3/1968 và 6/1969 25
Lăng Tự Đức &
Đồng Khánh 203
Cầu An Ninh 01/3/1968 20
Cửa Đông Ba 05/5/1968 07
Trường An Ninh Hạ 17/3/1968 04
Trường Văn Chí 10/3/1968 08
Chợ Thông 01/3/1968 102
Lăng Gia Long 25/3/1968 200
Chùa Từ Quang 02/4/1968 04
Đông Di (Gi) 01/4/1968 110
Vinh Thái 01/1969 và 11/1969 135
Phù Lương 01/1969 và 11/1969 22
Phú Xuân 01/1969 và 11/1969 587
Thượng Hòa 07/1969 11
Thủy Thanh -Vinh Hưng 07/1969 70
Khe Đá Mài 07/1969 428
Tổng cộng 2326 sọ người
Tổng số người bị bắt mất tích hay bị chết khoảng từ 5.000 đến 6.000 người.
(16) Thái độ kỳ thị tôn giáo của Bảo Quốc Kiếm:
BQK gọi Linh Mục Bửu Đồng (đã bị Việt Cộng giết trong Tết Mậu Thân) là “Cần Lao Bửu Đồng”. Xin nói rõ: Trong Tết Mậu Thân, không phải chỉ có một Linh Mục là Gioan Baotixita Bửu Đồng bị Việt Cộng giết mà còn có Linh Mục Hoàng Ngọc Bang (73 tuổi) và 02 Sư Huynh Dòng La San là SH Agribert và SH Sylvestre cũng bị chôn chung một chỗ với Linh Mục Bửu Đồng tại Lương Viện (Sư Lỗ) quận Phú Thứ, tỉnh Thừa Thiên. (tìm được xác vào ngày 08 tháng 11/1969). Ngoài ra còn có 03 Sư Huynh Dòng Thánh Tâm là Thầy Bá Long, Thầy Mai Thịnh và Thầy Héc Man (Hermand) cùng 03 Linh Mục người Pháp là Cha Guy, Cha Urbain và Cha Cressonnier. (tìm được xác ngày 27/3/1968 gần lăng vua Đồng Khánh) . Ngày 9 tháng 2/1968, tiểu đoàn K.8 của Việt Cộng tấn công vào làng Dương Lộc, xã Triệu Thuận, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sau khi rút lui chúng bắt Linh Mục Giuse Lê Văn Hộ (62 tuổi) và hai em Nguyễn Tiếp (học sinh, 13 tuổi) và Nguyễn Lụt (15 tuổi) đem đi mất tích. Ngày 31/5/1969, nhờ đồng bào địa phương mách bảo, bà con đã tìm được xác Linh Mục Lê Văn Hộ tại vùng biển Chợ Cạn, Triệu Phong, Quảng Trị.
Linh Mục Bửu Đồng (1912-1968) là con trưởng của Cụ Ưng Trạo (công chức làm việc tại Kho Bạc tức Ty Ngân Khố từ trước 1945). Ngài là dòng dõi Hoàng tử Miên Thanh, con thứ 10 của vua Minh Mạng. Ngài sinh trưởng trong một gia đình đạo đức, hai người con trai làm Linh Mục và hai người con gái là Nữ tu. Không có người nào là sĩ quan hay viên chức Hành chánh từ Quận trưởng, Tỉnh trưởng trở lên. Cuộc đời Linh Mục của ngài chuyên phục vụ cho giáo dân nghèo. Ngài làm cha xứ tại Lương Viện (Sư Lỗ) là một vùng mất an ninh, dân Công Giáo ít và rất nghèo. Nhưng ngài vẫn không bỏ “con chiên” để trốn về Huế. Ngài thường đi xin thực phẩm của cơ quan từ thiện Công Giáo ở Huế đem về giúp dân nghèo ở đây. Tại sao Bảo Quốc Kiếm gán cho ngài là “Cần Lao Bửu Đồng”? Nói như vậy là có hậu ý gì?
Trang 253 sách “Huế Ơi! Oan Nghiệt!”, khi kể lại chuyện Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên trong những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, khi Việt Cộng tràn vào, đã trốn vào bệnh viện...Bảo Quốc Kiếm viết:“Ông Tỉnh trưởng...để cuối cùng phải chui vô tay áo bà Xơ ở Bệnh viện Trung Ương Huế đến 7 ngày đêm”...Xin hỏi ông Bảo Quốc Kiếm “Bà Xơ đó là ai? tên gì? Ông có chứng kiến chuyện nầy hay đã nghe ai nói lại như thế?” Loại ngôn ngữ mà ông sử dụng như thế có đáng để gọi ông là một Phật tử chân chính hay không?
(17) Trong sách “Huế ơi! Oan nghiệt!” Bảo Quốc Kiếm đã lý luận rằng: “Vụ Mậu Thân, ông Thiệu biết trước nhưng làm ngơ để mở đường cho Việt Cộng vào giết dân Huế để trả thù vì dân Huế tranh đấu chống Thiệu-Kỳ...”
Nói như vậy nghe có được hay không? Những người bị VC giết trong Tết Mậu Thân là ai? Xin thưa: Đó là những binh sĩ VNCH, Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, Cán bộ Chiêu Hồi, hồi chánh viên (tức những ngừơi từ bỏ VC trở về với Quốc Gia), Cảnh Sát QG, các Linh Mục và tu sĩ Công Giáo, giáo dân ở làng Phủ Cam, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt CM, một số thanh niên, sinh viên học sinh (trước đây không theo phe Tranh Đấu). Không có thành phần Tranh Đấu nào bị bắt hay bị giết (ngoại trừ sinh viên Trần Mậu Tý trước đây theo Tranh Đấu sau rời bỏ hàng ngũ Tranh Đấu và gia nhập Đại Việt ?) Chúng tôi cũng chưa hề biết có nhà sư nào bên Phật Giáo bị bắt, bị giết như các Linh Mục và tu sĩ Công Giáo! Những người tên tuổi trong chính quyền và chính đảng bị giết như các ông: Trần Đình Thương (Phó Thị Trưởng), Thiếu Tá Từ Tôn Kháng (Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT), ông Bảo Lộc (Phó Tỉnh Trưởng, bị bắt đưa ra Bắc), ông Nguyễn Văn Đãi (Phụ Tá Đại Biểu CP Vùng I, bị bắt đưa ra Bắc)...Lê Ngọc Kỳ (VNQDĐ), Phạm Đức Phác (VNQDĐ), Hồ Thúc Tứ (VNQDĐ), Trần Ngọc Lộ (Bí thư Quận Bộ Phú Vang, Đại Việt CM),v.v...những người đó có phải là những người đi theo các Phong Trào Tranh Đấu chống Thiệu-Kỳ không?
Và còn nhiều điều “bất công” “chụp mũ” xuyên tạc” “âm mưu chia rẽ” trong sach “Huế Ơi! Oan Nghiệt” của bảo Quốc Kiếm tức Trương Khôi mà chúng tôi không có thì giờ trả lời cho hết. Đế đây, chúng tôi nghĩ rằng cũng đã quá nhiều lời rồi! Xin qúy vị độc giả thông cảm cho. Xin thành thật cám ơn.
Viết xong ngày 02 tháng 12 năm 2010
Nguyễn Lý-Tưởng
Cựu Dân Biểu VNCH
Cưụ Tù Nhân Chính Trị 14 năm dưới chế độ CSVN (1975-1988 và 1992-1993)
hiện định cư tại California, USA
http://groups.yahoo.com/group/PhoNang/message/162979
Thưa Ông Nguyễn Lý Tưởng,
1.Kể từ lần đầu tiên khi bà làm thơ Phạm Hoài Việt chuyển bài của Nhúm Cư sĩ
Phá hại Giáo hội PGVNTN với mấy cây Kiếm chém người, tôi đã nhận ra ý đồ đằng
sau các bài viết lê thê với văn phong của người thiếu tử tế, hay nếu nói rằng họ
là phật tử thì loại phật tử tham sân si đầy mình. Theo thông tin của ông Liên Thành
tác giả quyển sách Biến Động Miền Trung, thì ông cái gì Bảo Kiếm từng là cảnh
sát bị sa thải vì chứa chấp bài bạc. Cũng vì cái quá khứ thiếu phật tử đó, tôi suy ra
ông Bảo Kiếm này bán tên cho những kẻ thuộc nhóm phật-tử-tranh-đấu còn sót lại
sau những cuộc bể dâu của đất nước VN do ác đảng VC tạo nên. Quyển sách '' Huế ơi Oan Nghiệt '' mang tên Bảo Kiếm nhưng tôi nghi ngờ đám Giao Điểm đứng đằng sau
'' sáng tác '' và viết dùm. Tôi nghi ngờ vì Hoàng văn Giàu vốn là một huynh trưởng Phật tử thuộc nhóm tranh đấu, Trần Kiêm Đoàn cũng là huynh trưởng Phật tử ở Huế và cả hai anh này đều ở trong nhóm Giao Điểm. Tôi có một số thắc mắc:
-Tại sao cái Nhúm Cư sĩ kia tỏ ra thù hận quyển sách BĐMT của LT một cách kịch liệt
như thế đến nỗi phải ra 1 quyển sách để '' đối đầu '' lại ?
-Tại sao sách Liên Thành chỉ đích danh sư Trí Quang là VC cùng vài sư VC khác đã
phá hoại Miền Trung, trong khi cái Nhúm Cư sĩ kia nhất định gom chung sư Trí Quang vào phái PG Ấn Quang rồi kết tội Liên Thành đã khẳng định Phật giáo là VC !
2.Qua những chứng cớ do Ông Nguyễn Lý Tưởng đưa ra chứng minh là một số dữ kiện
trong sách Huế ơi oan nghiệt hoàn toàn BỊA. Như vậy tôi có thể kết luận rằng sách
của Nhúm Cư sĩ phá hại PG này chỉ là loại tiểu thuyết rẻ tiền không thể thuyết phục
một ai.
3.Qua luận điệu của Nhúm Cư sĩ này, tôi cảm nhận bàng bạc tư tưởng chống phá Thiên Chúa giáo, trong khi vào lúc này đây đáng lẽ tín đồ Phật giáo và tín hữu Thiên
Chúa giáo phải chung lưng đấu cật để giải trừ pháp nạn ấy là lật đổ ác đảng VC trong
nước và phá tan hành động thực thi NQ36 của VC tại hải ngoại.
Tuy nhiên Nhúm Cư sĩ này có một điểm son ấy là có công viết bài lật mặt xấu xa sân
si của các nhóm Về Nguồn, Già Lam v.v...là đám quốc doanh.
Kết luận :
Quyển sách Huế Ơi Oan Nghiệt ra đời mục đích '' trả hận '' đối với quyển sách BĐMT
khi Ông Liên Thành chỉ đích danh tổ chức do VC điều khiển và đặc biệt sư Trí Quang
là VC, một tay gián tiếp nhuốm máu người dân Huế vô tội trong thời gian những năm 60, để cuối cùng là thảm họa cho miền Nam vào Tháng Tư Đen 1975.
Tại sao Nhúm Cư sĩ Phá hại GHPGVNTN lại thù hận sách BĐMT của LT đến thế nếu
không phải vì quyển sách đó đã đánh trúng tử huyệt của '' nhóm phật-tử-tranh-đấu
miền Trung '' hành động dưới trướng sư VC Trí Quang ?
Quyển sách '' trả hận '' Huế Ơi Oan Nghiệt '' có giá trị của một tiểu thuyết rẻ tiền không thuyết phục được ai, vì chi tiết lịch sử mà lại có nhiều hư cấu.
Nhắn riêng Ông Nguyễn Lý Tưởng : bé gái bị chết thảm ở đài phát thanh Huế do vụ nổ là con vợ kế của Lê cảnh Thâm, và Lê Cảnh Thâm là em ruột Lê Cảnh Đạm, người mà Ông Liên Thành qua sách BĐMT cho biết đã từng giúp VC trong việc đưa Hoàng Phủ Ngọc Tường đi trốn .
Tôn-thất Sơn
No comments:
Post a Comment