Friday, October 28, 2011

Đỗ Mậu: Kẻ bán thầy ( Nhô Đình Diệm) lấy lon


LTS_ GHPGVNTN-AQ  và đám tam bao nô thường hay trích bài của Đỗ Mậu chửi chính quyền Đệ I,II VNCH và để che tội cho GHPGVNTN-AQ  Thích Trí Quang phá hoại VNCH, xoá đi thành tích Thích Đôn Hậu đi theo Tàu bán nước.  Đây là tài liệu của Việt Gian Đỗ Mậu được Việt Gian Cộng Sản cho in sách và ca tụng. 



Sent: Friday, October 28, 2011 5:25 PM
Subject: Fw: Đỗ Mậu: Kẻ bán thầy lấy lon



Đỗ Mậu
Đỗ Mậu là phản tướng
Ông ta tự cho mình là: "Sinh vi tướng, Tử vi thần" (sống thì làm tướng, còn khi chết thì làm thần)
Nhưng theo ký giả Lê Triết (báo Văn Nghệ Tiền Phong) thì Đỗ Mậu là "Sinh vi tướng cướp, tử vi thần trùng"

Đỗ Mậu: Kẻ bán thầy lấy lon.

Thưa ông Lê Kinh Luân,
Tài liệu lịch sử như sách, báo v.v… thường được hình thành qua hai cách: tham khảo từ tài liệu khác hoặc do nhân chứng kể lại. Còn vấn đề chính xác của tài liệu hay vô tư của nhân chứng thì xin ông cho biết làm sao khẳng định tài liệu nào chính xác hoặc nhân chứng nào vô tư ; nếu ca ngợi bừa bãi Đỗ Mậu là chính xác, còn vạch chân tướng phản chủ, hại thầy của Đỗ Mậu là không vô tư phải không ông? Những mẫu tự <> chỉ là địa chỉ e-mail mà tôi đã dùng cả chục năm qua, không phải là điều ông cần quan tâm, ông nên có ý kiến về nội dung bài viết của tôi tốt hơn là lái sang cái địa chỉ e-mail nầy. Tôi mạn phép đưa email của ông lên diễn đàn với chủ đề Đỗ Mậu như sau đây:  
Thật buồn cười cho ông, để bênh vực Đỗ Mậu, ông bảo tôi nên đọc hồi ký của… Đỗ Mậu, chẳng khác nào ông bênh vực Hồ Chí Minh mà bảo tôi nên đọc quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh!
. Về các hồi ký, nói chung tôi bảo đảm với ông rằng nếu ông Dương Vă n Minh và Nguyễn Vă n Thiệu viết hồi ký thì chắc chắn VNCH sụp đổ là do… ông Trời; ông Trời đích thị là thủ phạm, còn Minh, Thiệu thì vô can! Trong các hồi ký, có viên tướng lãnh hoặc ông chính khách VNCH nào ngu xuẩn nhận trách nhiệm làm tiêu tùng miền Nam Việt Nam đâu, trong đó có cả Đỗ Mậu?

Đỗ Mậu nhỏ học dốt, lớn viết hồi ký. Người ta ngờ rằng AI đó viết giùm các tác phẩm cho Đỗ Mậu vì viên tướng gốc lính khố xanh này học lực có bao nhiêu? Người ta cũng ngờ rằng Đỗ Mậu có thể là em ÚT của Đỗ Mười vì cha mẹ đông con quá nên tới khi sanh đứa con thứ 11 thì đặt là tên Đỗ  MẬU (Mậu có nghĩa là hết, dứt như mậu binh, mậu lúi!). Cùng huyết thống với tay thiến heo Đỗ Mười nên Đỗ Mậu học hành cũng chẳng ra chi, may mắn được TT Diệm trọng dụng, cho leo dần lên 3 mai bạc là quá ưu đãi. TT Diệm rất tin cẩn sự trung thành của Đỗ Mậu, giao chức Giám Đốc An Ninh Quân Đội mà không nhìn thấy sau gáy của Đỗ Mậu có phản cốt (tức cục xương phản chủ, giống Ngụy Diên thời Tam Quốc) đến nỗi ông bị thảm sát bởi đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963”.
Tuy dốt nát nhưng Đỗ Mậu đã lập công lớn… phản chủ, phản thầy, được đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963” cho lên Tướng ngay trong ngày anh em TT Diệm bị thảm sát. Rồi chỉ mấy tháng sau, dù học vấn không đầy lá mít Đỗ Mậu vẫn được giữ chức … Phó thủ tướng đặc trách Văn hóa-Xã hội! Thảo nào VNCH sụp đổ!   

CSVN in và bán sách của Đỗ Mậu: Truy tầm trên mạng, người ta thấy sách của Đỗ Mậu được VC trong nước in và bán. Một dẫn chứng điển hình: NXB Công An Nhân Dân xuất bản quyển Hồi ký Hòanh Linh Đỗ Mậu, Tâm  Sự Tướng Lưu Vong, giá bán 70.000 đồng VN.
Và đây là Lời Giới thiệu của Công ty Phát hành Sách T/p HCM (FAHASA): Hoành Linh Đỗ Mậu, do những đặc điểm có lợi thế riêng đã có cách nhìn, cách nghĩ khá độc đáo và phần nào xác thực nên qua hồi ký của ông, chúng ta có thể tham khảo để xem xét thêm những chuyện diễn ra phía bên kia trận tuyến của một giai đoạn lịch sử chống ngoại xâm quan trọng của đất nước mà chúng ta còn cần tiếp tục nghiên cứu. Qua tập hồi ký, bạn đọc sẽ có thêm một tài liệu tham khảo về con người, sự việc, một bức tranh sinh động về đời sống chính trị- xã hội miền Nam Việt Nam trước 1975.

 Việt Cộng và bọn Thân Cộng chia buồn cái chết của Đỗ Mậu: Website của nhóm Giao Điểm (Phật Giáo thân Cộng) mở trang tưởng niệm Đỗ Mậu, danh sách ghi rõ:

Đỗ Mậu khoe khoang và khóac lác:…Chế độ Diệm phải tiêu tan để từ nay quân dân miền Nam có thể ngẩng đầu không thẹn với non sông……Cho nên khi làm tròn nhiệm vụ vì dân vì nước đó trong những ngày đầu của tháng 11 năm 1963, quân đội đã được quần chúng tin tưởng và thương yêu đến độ “Hồ Chí Minh cũng phải công nhận cái uy tín lớn lao của tướng Minh và Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”.
Và tại Hà Nội, cấp lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt đã phải ý thức rằng:
 “… các tướng lãnh đã được nhân dân tin tưởng trao trọn quyền hành và tin rằng họ độc lập hơn gia đình Diệm-Nhu, vốn đã hành xử như một dụng cụ dễ bảo của chính sách Mỹ. Hà Nội đã lý luận một cách đơn giản: ai lật đổ chế độ bù nhìn thì không thể là bù nhìn được. Hà Nội biết được uy tín lớn lao của các tướng lãnh trong quần chúng từ nhiều nguồn tin khác nhau kể cả từ bản phúc trình của tôi”  (Việt Nam Khói Lửa Quê Hương Tôi, Đỗ Mậu, Chư ơng 17).
Thực tế, chế độ quân phiệt sau ngày cướp chính quyền 1-11-1963 đã làm cho Đệ II VNCH hòan tòan mất chính nghĩa. Đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963” trở thành những tên tay sai trung thành của Mỹ, hay giành ăn, tranh công, gây nên những xáo trộn chính trị liên miên. Miền Nam Việt Nam nhanh chóng biến thành chiến trường của hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ và quân đội Bắc Việt trong giai đọan gọi là  “Mỹ hóa” chiến tranh Việt Nam. Xã hội thời Đệ II VNCH đảo lộn nền móng đạo đức, bọn đĩ bợm và ác tăng lên ngôi, dìm đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963” xuống hạng bét: Nhất Đĩ, Nhì Sư Tam Cha, Tứ Tướng!

Đỗ Mậu bị thất sủng: Đỗ Mậu lên đến tột đỉnh danh vọng, vượt quá sự mơ ước của một anh lính khố xanh Pháp thời xưa, học lực lớp ba trường làng, một sớm mọt chiều đổi đời lên Tướng và có chức trọng quyền cao Phó Thủ Tướng đặc trách Văn hóa-Xã hội. Nhưng Đỗ Mậu được vinh hiển không bao lâu thì bị các đồng đảng hạ bệ cái rụp, cho về vườn (giải ngũ). Đỗ Mậu uất ức, cao đầu mặc áo lam Phật tử, gia nhập đám ác tăng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (phe Ấn Quang), đi đầu đòan biểu tình, cầm bảng chống… độc tài Nguyễn Khánh gần Ngã Sáu Sàigòn.
Cảnh sát Dã chiến mạnh tay hốt đòan biểu tình, trói gô Đỗ Mậu như trói một con heo, quăng lên xe thớt, chạy ra ngọai ô Saigon , đạp xuống đường! Ôi thời oanh liệt nay còn đâu, thật nhục nhã cho Đỗ Mậu kẻ tư xưng là một thành viên quan trọng trong đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963”, nay bị đạp đít cái rột từ phó thủ tướng xuống…phó thường dân, nằm chỏng gọng trên xe thớt giữa trung tâm thủ đô Saigon của một thời ông ta hét ra lửa, mửa ra khói!

Đỗ Mậu bán thầy lấy lon: Với chức vụ Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Đỗ Mậu biết rõ sẽ có đảo chánh lật đổ Đệ I VNCH, nếu Đỗ Mậu trình lên TT Diệm thì cuộc đảo chánh có thể thất bại từ trong trứng nước. Như vậy Đỗ Mậu chắc chắn vừa lên Tướng lại vừa trả ơn TT Diệm.
Đỗ Mậu làm nghịch lại, chủ động tìm đồng đảng thực hiện cướp chính quyền Đệ I VNCH ngày 1-11-1963. Đảo chánh thành công Đỗ Mậu cũng được lên Tướng mà tương lai binh nghiệp sẽ sáng lạn vì thóat khỏi sự kềm chế của TT Diệm. Đỗ Mậu còn trả được mối hận khôn nguôi trong lòng đối với TT Diệm. Trong Hồi Ký, Đỗ Mậu tự nhận mình là thành phần quan trọng trong cuộc đảo chánh là đúng: Giả dụ trước đây TT Diệm gắn cho Đỗ Mậu hai sao thì tình hình VNCH đã có thể đổi khác, vì chưa chắc xảy ra ngày 1-11-1963!

Đỗ Mậu nhỏ nước mắt cá sấu: Khi cuộc đảo chánh sắp xảy ra mà thế nào Đỗ Mậu cũng biết sẽ gây phương hại đến sinh mạng TT Diệm. Nếu Đỗ Mậu còn nghĩ tình thầy trò với TT Diệm thì Đỗ Mậu bằng mọi cách thuyết phục đám “tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963” đừng giết TT Diệm. Nhưng hai ngôi sao sáng chói trên cổ áo đã làm Đỗ Mậu đánh mất lương tâm, bây giờ lại giở giọng xót thương trước thi hài TT Diệm thì càng chứng tỏ Đỗ Mậu là tên ba que xỏ lá, bắt chước cá sấu nhỏ vài giọt nước mắt sau khi thịt xong con mồi!

Đám tướng lãnh ngày 1-11-1963 có yêu nước không? Nhiều chiến hữu lấy làm khó chịu khi tôi gắn liền hai chữ yêu nước với các tướng lãnh thi hành cuộc cướp chính quyền Đệ I VNCH ngày 1-11-1963. Theo họ, đám tướng lãnh nầy yêu đô la, chứ yêu nước yêu nôi gì; họ đã làm theo lệnh quan thầy thái thú Henry Cabot Lodge mà thôi.
Đúng vậy, sau khi tiêu diệt được anh em TT Diệm, làm tiêu Đệ I VNCH theo đúng kế họach của Mỹ, đám tướng lãnh nầy, trong đó có Tân Thiếu Tướng Đỗ Mậu, hả hê thấy hiện tại đã có tiền và tương lai tiền (đô la) từ Mỹ ví như NƯỚC sẽ vô tràn túi nên gọi yêu nước, có nghĩa là yêu đô la Mỹ nên ngày 1-11-1963 cũng có thể gọi là ngày ô nhục, là một vết đen đậm trong Quân Sử VNCH.
Còn gọi ngày nầy là ngày cách mạng có nghĩa là đám tướng lãnh nầy đã cách cái mạng anh em TT Diệm và bao nhiêu chiến sĩ và đồng bào vô tội khác, rồi sau đó dẫn dắt dần miền Nam Việt Nam vào tử lộ vào ngày 30-4-1975. Nhưng chứng nào tật nấy, một số trong đám “tướng lãnh yêu ĐÔ LA ngày 1-11-1963” ra hải ngọai còn rán múa may quay cuồng, làm hề dễu dở, bị khán giá la ó bảo về nhà với con cháu, yên phận già để chờ ngày xuống địa ngục, trả lời Diêm Vương cái tội phản dân hại nước.
 
Chào ông,
Tuấn Phan


--- On Sun, 11/2/08, Le Kinh Luan  wrote:
From: Le Kinh Luan
Subject: Tài Liệu về ông Đỗ Mậu
To: ddpghh@yahoo.com
Date: Sunday, November 2, 2008, 9:43 PM

Ông nên đọc đoạn dưới đây trích từ trong sách "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi"
 
để biết rõ hơn để biết rõ hơn về mối liên hệ giữa ông Diệm và ông Đỗ Mậu. Xin ông cẩn thân hơn đừng dùng tài liệu không chính xác hay chỉ nghe nói lại rồi viết thì vừa hại uy tín caủ ông vừa hại cho diển đàn PGHH
Cám ơn ông.
 
 
 
 
Trích VN Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu
 
Tôi về nhà, nằm xuống cố chợp mắt để bù lại một đêm thức trắng căng thẳng hôm qua nhưng vẫn không ngủ được vì những hình ảnh sống động và hân hoan của dân chúng Sài Gòn. Bốn giờ chiều, tôi quyết định trở lại Bộ Tổng Tham mưu. Khi xe ngừng trước công thự chính, tôi thấy một chiếc thiết vận xa đậu xéo trên sân cỏ, cửa sau mở toang, tôi hối hả bước đến gần thấy xác hai ông Diệm Nhu nằm giữa sàn xe.
Nhìn thi thể ông Diệm tôi sững sờ và không tin đó là sự thực, đó là kết quả của quyết định sáng hôm nay của các tướng lãnh sau khi tôi, Thiện và Khang bỏ về. Tôi đứng yên rưng rưng nước mắt rồi đưa tay chào vĩnh biệt người lãnh tụ đã cùng tôi kết ước từ hơn hai mươi năm về trước. Càng thương ông Diệm tôi càng căm giận tập đoàn Cần Lao Công Giáo và những người anh em ruột thịt của ông, vì chính họ đã làm cho ông và tôi tan vỡ mộng ban đầu. Rồi tự hỏi ngày nay tôi thương khóc ông nhưng rồi đây, mai sau, 10 năm, 100 năm, 300 năm nữa thiên hạ ai người nhỏ lệ khóc thương tôi ?
 
 
 
2-11-1963: Ngày TỨ MÃ phân thây.
Trong bài hôm qua "1-11-1963: Cách mạng hay cướp chính quyền?", tôi có đề cập danh từ CÁCH MẠNG mà không định nghĩa nó là gì, chỉ đưa thí dụ nên có thể không làm sáng tỏ vấn đề một cách trọn vẹn! Thật ra danh từ này không có ý nghĩa gì cao siêu khó hiểu, chẳng qua là hành động làm thay đổi một tình trạng hiện tại thành một tình trạng khác hay hơn, tốt hơn, ích lợi hơn trong nhiều lãnh vực. Thí dụ, về khoa học thì có cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật thì có cách mạng kỹ thuật, về tư tưởng thì có cách mạng tư tưởng v.v…, thậm chí ngay cả con người thì có cách mạng bản thân.
Xem đó, cách mạng không chỉ hạn hẹp ở lãnh vực chính trị; và theo tôi biến cố 1-11-1963 đưa đến tình trạng xáo trộn trầm trọng về chính trị, suy đồi về đạo đức xã hội của Đệ II VNCH nên không thể gọi là cách mạng, đúng hơn là một cuộc đảo chính quyền, ngay cả có thể gọi là một vụ cố sát có chủ mưu! Nạn nhân của vụ cố sát có chủ mưu nầy là hai anh em ông Diệm và ông Nhu bị giết tàn nhẫn trong ngày ngày nầy của 43 năm trước.
Ai giết họ? Tổng quát là bốn phe giết họ mà tôi ví von là TỨ MÃ thi hành bản án PHÂN THÂY thì họ vô phương thóat khỏi: Mỹ, VC miền Bắc, Thầy Chùa phe Ấn Quang (tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và đám "Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963". Họ bị giết cách nào, theo kế họach ra sao v.v… đã được nhiều sách vở tài liệu mô tả đầy đủ nên tôi miễn lập lại. Trong thủ phạm tập thể giết anh em TT Diệm là phe "tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963", lại có hai thủ phạm sát nhân trực tiếp và gián tiếp là Trung tướng Dương Văn Minh và Đại tá Đỗ Mậu, còn Đại úy Nguyễn Văn Nhung chỉ là kẻ thi hành bản án.
Hôm nay tôi nói về Đỗ Mậu, ngày khác sẽ nói về Dương Văn Minh. Khi xác hai ông Diệm và Nhu đưa về Bộ TTM thì các "tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963" đến xem, trong đó có Đỗ Mậu. "Tướng Mậu mô tả: Tôi theo TT Diệm từ năm 18 tuổi, bao nhiêu tình cảm sâu xa giữa tình thầy trò…Thấy xác hai ông tôi không còn khóc được, đau quá…đau đến cùng độ". (Làm thế nào để giết một tổng thống, Cao Thế Dung & Lương Khải Minh, trang 588). Có thật vậy chăng? Hay là Đỗ Mậu mừng quá, không khóc được vì đã trả xong mối hận riêng tư?
Theo người hiểu chuyện kể rằng:
Đỗ Mậu đúng là theo phò ông Diệm từ thuở thanh niên, rất trung thành và được ông Diệm xem như con cháu, cất nhắc lần hồi lên tới cấp Đại tá, giao chức Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội. Đỗ Mậu không chịu dừng ở cấp bậc và chức vụ nầy mà nếu không là ông Diệm thì ông ta khó có được nhưng ông ta lại có tham vọng làm… tướng!
Có lẽ ý muốn làm tướng của Đỗ Mậu thấu tới tai Đại tướng Lê Văn Tỵ, TTM Trưởng QĐ/VNCH. Đại tướng Tỵ lại đóan rằng TT Diệm cũng muốn cho Đỗ Mậu lên tướng nhưng ngại dư luận nên ông mới đích thân gặp TT Diệm và ngỏ lời đề nghị nếu TT Diệm đồng ý thì ông với quyền hạn TTM Trưởng sẽ ký quyết định thăng cấp cho Đỗ Mậu. Nào ngờ, TT Diệm vốn đối đãi Đỗ Mậu như con cháu nên thẳng thừng nói với Đại tướng Tỵ đại ý: Đỗ Mậu lên tới Đại tá là quá lắm rồi. Hắn quá dốt mà cho hắn lên Tướng thì còn ra thể thống quốc gia gì nữa, ngọai quốc nó cười cho!
 Lại cái nào ngờ thứ hai làm Đỗ Mậu ôm mối hận khôn nguôi với TT Diệm khi Đại tướng Tỵ, vốn mang tính thẳng ruột ngựa của người miền Nam và nghĩ rằng Đỗ Mậu lúc nào cũng xem TT Diệm vừa là ân nhân vừa là cha mình, nên ông thuật cho Đỗ Mậu nghe nguyên văn lời nói của TT Diệm! Dịp may đưa đến và cũng để giải tỏa mối hận trong lòng, khỏang nửa tháng trước biến cố 1-11-1963, Đỗ Mậu gọi điện thọai cho Tướng Trần Văn Đôn: "Đàn em được biết các đàn anh sắp làm một cú làm ăn rất lớn, cho đàn em tham gia được không?".
Tướng Đôn tóat mồ hôi khi nghe Đỗ Mậu, đương kim Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội xin xỏ tham gia kiểu chết người như vậy, không cách gì hơn là đồng ý. Đỗ Mậu nắm trong tay lon tướng nên hòan tòan im lặng để đám "tướng lãnh yêu nước ngày 1-11-1963" thi hành bản án Tứ Mã Phân Thây. Quả nhiên, khi bản án thi hành xong, Đỗ Mậu góp công lớn, được lên Tướng ngay!
Còn Dương Văn Minh có hận thù gì TT Diệm mà ra lệnh tên cận vệ khát máu Nguyễn Văn Nhung đi theo đòan xe "đón" (?) hay đưa anh em TT Diệm về hưởng nhan Thánh Chúa? Có thể là có, xin để kỳ sau.
Ngòai ba con ngựa tham gia phân thây anh em TT Diệm là Mỹ, VC, đám "Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963", con ngựa thứ tư tuy miệng luôn niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tay lần chuỗi bồ đề nhưng tâm chứa đầy dao găm, mã tấu, lựu đạn kể cả súng…ngựa trời, đó là những tên GIẶC THẦY CHÙA phe Ấn Quang tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Vì có góp công lớn làm sụp đổ Đệ I VNCH nên đám ác tăng nầy trở thành kiêu tăng, ngồi trên đầu đám "Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963", chỉ ở dưới bọn Đĩ trong bảng sắp hạng Nhứt Đĩ, Nhì SưTam Cha, Tứ Tướng!
Thành công trong đại cuộc tứ mã phân thây anh em TT Diệm và Đệ I VNCH bằng nhiều cuộc đốt xác người tàn bạo mà bọn ác tăng Ấn Quang dám gọi là…cúng dường đạo pháp (!?), bọn ác tăng Ấn Quang dưới tên mới làGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiếp tục con đường dùng mái chùa thay vì "che chở hồn dân tộc", chúng che chở bọn trốn lính, cán binh VC nằm vùng cùng dao găm mã tấu, K 54, AK 47 v.v… , quậy nát Đệ II VNCH bằng nhiều cách bẩn thỉu kể cả không ngần ngại đem bàn thờ Phật xuống đường!
"Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963" cũng nghĩ đến công ơn của giặc trọc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong đại công thảm sát anh em TT Diệm và cướp chính quyền Đệ I VNCH nên đối đãi rất nồng hậu, coi như muốn gì được nấy: lập Nha Tuyên Úy Phật Giáo mà Giám đốc có cấp bậc tới Đại tá, còn hàng đống tên giặc trọc trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được bổ nhiệm làm Tuyên Úy ở các đơn vị quân đội tòan cõi VNCH.
Nhưng bọn giặc trọc trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do được lãnh đạo bởi những tên tuy mang họ Thích nhưng gốc họ… Hồ (Chí Minh) vẫn tiếp tục thi hành lệnh của bọn VC miền Bắc "tranh đấu" cho đến thành công là ngày 30-4-1975. Nhưng sau ngày nầy, giặc trọc trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cứ tưởng bở bọn VC miền Bắc sẽ sợ chúng  như "Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963" nên ra sức chống lại VC khi yêu sách của chúng không được thỏa mãn! Và như mọi người đều thấy bọn giặc trọc trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tranh đấu như thế nào suốt 33 năm qua mà tên văn nô bồi bút Vi Anh Bùi Văn Nhân dám mở miệng đội Huyền Quang lên …niết bàn, còn Quảng Độ thì để râu tóc bạc phơ trông giống "bác Hồ" hơn là một trưởng tử Như Lai!
Nhân hôm nay, ngày chết của anh em TT Diệm cũng là ngày tàn của Đệ I VNCH, tôi đề nghị kẻ nào còn sống sót trong đám "Tướng Lãnh yêu nước ngày 1-11-1963" và trong cái gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên có một cử chỉ hối tiếc trước công luận dù là bề ngòai cũng được, về tội lỗi tham gia đại cuộc Tứ Mã Phân Thây ngày 2-11-1963 và 12 năm sau là sự sụp đổ VNCH vào ngày 30-4-1975.
Hai phe nầy dùng nghi thức tôn giáo của mình để làm một cái lễ tưởng niệm vong linh hai anh em TT Diệm và vong linh hàng vạn, hàng triệu nạn nhân do hành vi của họ đã trực tiếp hay gián tiếp làm tay sai cho ngọai bang, cho VC, gây hậu quả đau thương cho dân tộc và đất nước Việt Nam.
Mong thay!
Tuấn Phan

Liên Thành -Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963


Liên Thành -Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963


Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963 
 
Tác Giả:  Liên Thành  
 
 
Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy, sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh.

Thành phố Huế có 3 quận đó là quận I, II, III. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội). Tỉnh Thừa Thiên có 10 quận, từ Bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía Nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía Tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng côïng có 73 Xã. 
Dựa theo hệ thống tổ chức địa dư và hành chánh của Chính Phủ VNCH, Phật giáo Ấn Quang có 73 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, 13 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Quận, và Tỉnh hội Phật giáo.
 Ngoài ra, trong chính quyền, Phật giáo Ấn Quang còn có các tổ chức ngoại vi : Công Chức Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Sư Đoàn I thì có Quân nhân Phật Tử (Chiến Đoàn Nguyễn đại Thức), Cảnh Sát Quốc Gia thì có Cảnh Sát Phật Tử, đặc biệt hơn nữa là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba.
Lãnh đạo Phật giáo miền Trung và Thừa Thiên Huế là thầy Thích Đôn Hậu, trụ trì Chùa Linh Mụ, với chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh.

Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và lá bài tối quan trọng của cộng sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan.
Mậu Thân 1968, trong những ngày đầu chiếm Huế, Hà Nội tưởng đã thắng, nên cho thầy tu Thích Đôn Hậu xuất đầu lộ diện, trong lực lượng ngoại vi của cộng sản : Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình.
Những ngày kế tiếp, khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Cảnh Sát Quốc Gia và lực lượng Hoa Kỳ phản công mạnh, tái chiếm Huế, Hoàng Kim Loan đã phái cán bộ hộ tống Thích Đôn Hậu qua ngã Chợ Thông, Văn Thánh lên mật khu và từ đó đi ra Bắc.

Tại Hà Nội, Đôn Hậu cùng với các tên cộng sản nằm vùng tại Huế trước 1966, như Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm v.v.. theo lệnh Trung Ương Đảng, thành lập phái đoàn Đại Diện Trí Thức và Tôn Giáo Miền Nam đi Trung Cộng, Tây Tạng, truyên truyền cho Hà Nội. Đến 1975 y trở lại trụ trì tại Chùa Linh Mụ. Nhân vật thứ hai đầy quyền uy, không những đối với Phật Giáo đồ miền Trung, mà toàn cả Phật Giáo đồ miền Nam Việt Nam, đó là Thích Trí Quang – Ông này tên thật là Phạm Văn Bồng. Quê quán làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cùng quê với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Xuất gia từ năm 14 tuổi, trước 1955, y đã trú ngụ tại Chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm nằm về phía Tây thành phố Huế cạnh dốc Nam Giao và dốc Bến Ngự, sát bên nhà thờ cụ Phan Bội Châu. Trụ trì chùa Từ Đàm là Thích Thiện Siêu cũng là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Sau năm 1975 Thiện Siêu được Hà Nội cho làm Dân Biểu trong Quốc Hội của chúng.
Theo hồ sơ của sở Liêm Phóng, tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và sau này tin tức thẩm vấn cán bộ Việt cộng được cập nhật thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên côïng sản. Thích Trí Quang gia nhập đảng cộng sản Việt Nam vào 1949, tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu, Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phía Tây lăng vua Gia Long, cách làng Đình Môn khoảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam. 

Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng cộng sản.

Tên Việt Côïng thứ 3 đội lốt thầy tu, tối nguy hiểm, đó là Thích Chánh Trực
, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang. Thích Chánh Trực tu tại Chùa Tường Vân, nằm giữa chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao. Chùa Tường Vân là nơi tu hành của Ngài Thích Tịnh Khiết Giáo Chủ Phật Giáo V. N.
Thích Chánh Trực hoạt động bề nổi, mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, lên đường xuống đường, đều có mặt Thích Chánh Trực. Trực là cơ sở Tôn Giáo Vận của Hoàng Kim Loan đã từng đưa Hoàng Kim Loan vào ở với y tại Chùa Tường Vân trong hơn 1 năm. Tên này dáng dấp cao to, mắt trắng môi thâm, nhìn thẳng vào hắn thấy rõ 3 chữ : Tham, Sân, Si, hiện trên nét mặt, khuôn mặt của kẻ lưu manh gian ác. Hắn đã lén lút có một đứa con trai với một nữ tín đồ, chuyện này Hoàng Kim Loan biết rõ hơn ai hết.
Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên cộng sản :
Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây.
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v...v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa Thiên – Huế, đều phải có sự chấp thuận của chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu.
Trong khi đó thì tên điệp báo Việt cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật giáo. Từ Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân sự, Hành chánh của chính phủ Việt Nam Côïng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào.
Ngay khi tiếng súng đảo chánh 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ.
Thừa Thiên - Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu, hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được.
Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương, cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về, hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ, phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng này là của một giai nhân quý phái nào đó ở đất Thần Kinh.
Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những điệp vụ ngoài Bắc. Những điệp viên của cơ quan này tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội.
Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc, vào năm 1956, là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này.
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh này đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm, thì cũng nghĩ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những điệp vụ phía Bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một bông hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam.
Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung, kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền Bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận.
Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế, đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên sĩ quan:
- Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh. Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:
- Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó, Thiếu tướng lo cho họ. Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy móc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ, trước khi căn nhà màu hồng này bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc.
Các cuộc biểu tình hoan hô “cách mạng”, đả đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quý Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm.
Trước 1963, ít ai nghe và cũng chẳng ai biết địa danh Chín Hầm. Chín Hầm nằm về phía Tây thành phố Huế, ngay phía sau lăng Vua Khải Định và cạnh dòng tu Thiên An. Đó là một dãy 9 hầm của quân đội Nhật, rồi đến quân đội Pháp dùng để chứa đạn, đúng nghĩa đó là 9 hầm chứa đạn, kho đạn.
Sau khi nguồn tin được tung ra là các Thầy bị giam tại Chín Hầm, đã có người hướng dẫn, hằng ngàn thiện nam, tín nữ, sinh viên, học sinh, các bà tiểu thương chợ Đông Ba ào ạt kéo lên Chín Hầm giải thoát cho quý Thầy.
Màn kịch diễn ra tại Chín Hầm thật thương tâm, khiến người thiệt thà, ngây thơ đứng xem phải rơi lệ. Soạn giả và diễn viên của vở kịch này quá xuất sắc. “Quý Thầy” được các tín đồ đưa từ các hầm giam ra ngoài, có thầy quá đuối sức đi không nổi phải có người dìu đi. Quý Thầy đều mặc áo nâu sồng, đầu cạo láng bóng. Tín đồ nhào vào, nhất là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, ôm chầm quý Thầy, khóc lóc thảm thiết. Nào ai biết được, tất cả là đồ giả, quý Thầy là đồ giả. Bọn chúng là đám Việt cộng thứ thiệt, thứ cao cấp bị bắt giữ.
Trước đó một vài hôm, cơ sở của bọn chúng đã đem áo nâu sồng vào cho bọn chúng mặc, cạo đầu láng bóng, ngồi đợi để được giải thoát. Mà quý Thầy được giải thoát thật, nhưng sau khi được giải thoát, quý Thầy không về chùa, mà lại lên núi tu hành tại các mật khu, để rồi Mậu Thân 1968, tu hành đắc đạo xuống núi bắn giết đồng bào Huế. Ra lệnh chôn sống hơn 5000 ngàn thường dân trong những mồ chôn tập thể, trong số hơn 5000 ngàn nạn nhân đó, số lượng phật giáo đồ chân chính không phải là nhỏ, rồi đến 1975, bọn này lại bắt bớ tù đày biết bao nhiều người dân Huế.
Màn bi kịch Chín Hầm vừa nói trên, đạo diễn là Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Diễn viên là nhân viên do Hoàng Kim Loan và các cơ sở của hắn đã cài vào trong hàng ngũ Phật giáo. Bọn chúng đã hoàn tất nhiệm vụ mà Hà Nội giao phó: giải thoát tất cả các cán bộ cộng sản cao cấp bị lực lượng An ninh của Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa bắt giữ .
Những ngày kế tiếp, dưới áp lực của quý Thầy, Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Ông Phan Quang Đông ra xử.
Theo hồ sơ số 95 ngày 8-5-1964 lưu trữ tại Văn khố BCH/Thừa Thiên Huế, thì người hỏi cung Phan Quang Đông là Trần Văn Cư, Chủ sự phòng Cảnh sát thuộc Nha Cảnh Sát miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần và Tư Pháp Cảnh Lại là Nguyễn Văn Mão, làm thư ký .
Như vậy có khác gì chùa và Việt cộng phối hợp hỏi cung trùm Tình báo miền Nam Việt Nam Phan Quang Đông đâu, vì Trần Văn Cư là đệ tử ruột của Thích Đôn Hậu và Nguyễn Văn Mão nguyên là Phái khiển Tình báo Chiến Lược, bị bắt trước đảo chánh 1963. Sau này Trần Văn Cư được phong làm Phó Giám đốc CSQG vùng I .
Với tội danh: Mật Vụ Nhu, Diệm, đàn áp Phật giáo, thủ tiêu, bắt giam và hành hạ dã man, tàn bạo quý Thầy và tín đồ Phật giáo. Với tội danh bị vu cáo này, toà tuyên án tử hình Phan Quang Đông. Và Ông đã bị xử bắn tại sân vận động Tự Do, tức sân Vận Động Bảo Long tại Huế.
Đồng ý khi bước chân vào nghề Tình báo, nghề của một Điệp Viên, sinh nghề tử nghiệp đó là chuyện thường tình khi bị sa vào tay địch. Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống cộng sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông, nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có Ông biết, chiến hữu của Ông biết, Trời biết, Đất biết, Hồn Thiêng Sông Núi biết và..Tổ Quốc Ghi Công. Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm, Công Tố là những Sĩ Quan, là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính Phủ miền Nam Việt Nam. Giờ này họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem Ông Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngoài Bắc ra xử bắn.
Các ông đã quá hèn hạ, sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo, như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hoàng Kim Loan, là Cục 2 Quân báo và Nha Liên Lạc, tức Cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội. Rồi đây, lịch sử sẽ phê phán, định tội các ông.
Sau ngày 1-11-1963, hệ thống tình báo hữu hiệu của miền Nam đối đầu với 2 cơ quan Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của Cộng sản Hà Nội hoàn toàn bị sụp đổ.
Cơ quan Tình Báo phụ trách miền Bắc của ông Phan Quang Đông và Đoàn Công Tác Đặc Biệt phụ trách an ninh miền Nam của ông Dương Văn Hiếu bị địch dùng bàn tay người quốc gia: “Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng” đánh phá tan tành, kẻ bị bắt tù đày, kẻ bị sa thải. Tất cả đều mang tội danh Mật Vụ của Nhu, Diệm đàn áp Phật giáo..
Thử nhìn lại một vài thành quả công tác của hai cơ quan này, để thấy có phải họ là Mật Vụ đàn áp Phật giáo hay không:
Vụ nhân dân Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế hoạch và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay, tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn chưa thể tiết lộ.
Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu chỉ huy. Trách nhiệm của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những điệp viên thuộc hai cơ quan tình báo miền Bắc gởi vào Nam : Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc.
Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của cộng sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là: Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa.
Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa.
Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân Báo đóng tại vùng núi Cao nguyên Trung phần, thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy Trưởng.
Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy mạng lưới Quân Báo các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài Gòn, đến nhà Phạm Bá Lương để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Phạm Bá Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm Bá Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức vụ Công Cán ủy Viên. Bộ trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975 Lê Câu giữ chức Vụ Tổng Thanh Tra ngành Công An Việt cộng .
Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm Trưởng lưới điệp báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.
Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài Gòn .
Tư Hùng, Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là đảng viên cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung.
Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5, gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của đảng cộng sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.
Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saigòn.
Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy trưởng Tổng Cục Tình Báo Chiến lược Việt cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục Tình báo Chiến Lược Việt cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần Ngọc Trí tức Mười Hương. Mười Hương là Khu Ủy Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại miền Nam, đồng thời phân tích và lượng giá tình hình quân sự và chính trị của chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười Hương đã bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1958.
Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo chiến lược Việt cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958.
Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp, bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sàigòn y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.
Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh. Cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Sàigòn - Chợ Lớn cộng sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Sàigòn. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
Lê Thanh Đường, phái khiển Tình Báo, thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam . Nghề nghiệp hợp pháp tại Sàigòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sàigòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.
Tôn Hoàng, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam. Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959 .
Dư Văn Chất, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Saigòn. Chức vụ Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Saigòn.
Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.
Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958.
Hoàng Hồ, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàigòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa y là Dân Biểu (!?)
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàigòn. Sau đó bị Trung Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và toán Đặc Biệt của ông bắt giữ và triệt tiêu Cụm A 22 Cục Tình Báo Chiến Lược, khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ cộng sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản, bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ, đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao Thừa Phủ ( Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm.
Những ngày đầu của cuộc đảo chánh 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình Báo, điệp viên Hoàng Kim Loan, đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm. Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng đưa vào SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả tự do cho bọn côïng sản này, vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong quân đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng, kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng, đến các chỉ huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự, cũng như Tình Báo Quân đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân khu, có gan to bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ cộng sản thứ thiệt và đám Việt cộng đội lốt thầy tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ : Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư đảng Cần Lao, đàn áp quý Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu tình đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch hướng chỉ đạo của ông ta.
Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán nhau tranh dành ngôi báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại Saigòn, nay đảo chánh, mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm do bàn tay của Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản đạo diễn.
Ngày19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng cộng sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được trung ương đảng Côïng sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên này là điệp viên của Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược Cộng sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố. Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công của Đại tá Việt cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K 1, K 2, tấn công quận lỵ Nam Hòa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Hòa cách thành phố chưa đầy 10Km. Cuộc tấn công của Việt cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Hòa phản công và đẩy lui.
Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là hai nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán vì đương sự có bằng Cử Nhân Luật, ngạch Quận Trưởng (Commissioner), đương sự có anh ruột là cán bộ cộng sản “quân hàm” Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng, cán bộ điều khiển của y là Hoàng Kim Loan.
Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Trần văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau).
Thời gian này hai Ty Cảnh Sát chưa sát nhập, một bên là Ty Công An Thừa Thiên, một bên là Ty Cảnh Sát thị Xã Huế. Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy.
Về Quân sự, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên- Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn I. Ông đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận, không phải là một nhà chính trị, vì thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên này báo cáo đầy đủ lên Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm. Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và Đôn Hậu thì có thể dùng lực lượng đông đảo Phật giáo đồ tại Huế và miền Trung, để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông, thế nhưng ông Tướng đã lầm, lầm to, lầm lớn - Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tròng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I BB của Ông làm lực lượng nòng cốt, trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để rồi phải gánh chịu hậu quả, là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, ai cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lãnh đảo chánh thành công, ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất bình chính phủ Trung Ương, ông lên máy bay vào Sài Gòn đảo chánh, vì thế ông Tướng mới có biệt danh là Vua đảo chánh .

Wednesday, October 26, 2011

Càng Cao Đạo càng lưu manh như Sư tăng GHPGVNTN-AQ


From: Ao NhaBinh <ao_nhabinh@yahoo.com>
Date: 2011/10/25
Subject: vừa ăn cướp vừa la làng chĩ có bọn lưu manh.



 
Kính thưa tất cã những vị trưởng thượng.
Kính thưa những vi trong ban ngành truyền thong báo chí .
Kính thưa những vị có quan tâm.


Đánh Phá Tôn Giáo là tiếp tay cho Việt Cộng !!!
ợn Áo Tu Sỉ làm chuyện lưu manh là tiếp tay cho Việt Cộng !!!

Bao nhiêu ngày tháng qua, chúng tôi lên tiếng về hành vi xão ngôn vô đạo đức cũa 2 vị Sư (HT. Thich Hộ Giác & TT. Thích Giác Đẳng) có mượn 200‘000.- Sfr ..  quan thụy sỉ cũa Chùa Phật Tổ Thích Ca rồi Quịt đả trên 16 năm, nay lại có hành vi lưu manh vu khống Phật Tử đuổi (Sư) cướp Chùa, với không ngoài mục đích lươn lẹo vừa ăn cướp vừa la làng.
            Chúng tôi chứng minh hành vi lưu manh cũa 2 ông Sư nói trên bẳng văn kiện ký vay tiền cũa 2 đương sự, và chứng minh Phật Tử lên án hành vi ngụy biện cũa Sư Thích Giác Đẳng bằng audio.
Trong một Audio Thich Giác Đẳng lươn lẹo nói có mượn 200’000.- , nhưng số tiền 200‘000.- không phải tiền cũa Chùa PTTC, chúng tôi nhiều lần yêu cầu Sư Thích Giác Đẳng chứng minh nguồn tiền đó cũa hội PGNT như Thich Giác Đẳng nói, cho đến nay Sư vẩn im hơi lặng tiếng (ở thụy sỉ nếu hội đoàn nào sinh hoạt tư nhân có dính đến tiền bạc đều phải đăng ký và đóng thuế và số tiền nói trên là 200‘000.- Sfr số tiền khá lớn không thể để trong nhà hay trong túi mà nó phải được để trong Bank, cho nên tiền đó phải có chứng minh).
Thích Giác Đẳng phải chứng minh 200‘000.- Sfr  là tiền cũa hội PGNT, số  tiền mượn đó phải chuyển ngân từ Account cũa hội PGNT vào Account  tư nhân cũa Thích Giác Đẳng, (giấy xác nhận chuyển ngân cũa Bank).
Sư Thích Giác Đẳng nói: có 1 biến cố xảy ra , có một nhóm người và 1 thế lực nào đó họ đuổi (Sư) cướp Chùa.  Yêu cầu Sư Giác Đẳng phải chứng minh, vì nhận thấy hành động vu khống PT là 1 trọng tội nếu kẽ đó là những người đã quy y Tam Bảo như Sư Thich Giác Đẳng,  Ông Nguyễn Văn Nghiêm làm việc trong NPĐ-PTTC với tư cách 1 người làm Phật Sự cũng như người quản Gia , có lảnh lương cũa hội từ thiện Caritas. Bởi vì ông Nghiêm bị phát hiện với một người đàn bà trong NPĐ-PTTC, vì hổ thẹn về việc làm cũa mình, sau đó vào 1 đêm không trăng & sao ông Nghiêm bõ trốn không một lời từ giã, ông Nghiêm còn đem theo 1 số tiền, cũng như những giấy tờ cuốn sổ Vàng PT đóng tiền cúng dường để xây dựng Chùa ..v.v..

Sư Thích Giác Đẳng nói:  ông Nguyễn Văn Nghiêm là (Sư) trụ trì Chùa Phật Tổ Thích Ca với mục đích gì ? trong khi đó chính quyền thụy sỉ cũng như tất cã cộng đồng người việt ty nạn CS ở  thụy sỉ đều biết ông Nguyễn Văn Nghiêm được vào thụy sĩ  ở  do vợ  cũa đương sự là bà Lương Thanh Thủy bão lảnh từ Pháp qua. như vậy luật mới cũa Phật Giáo chấp nhận cho Sư sãi có vợ được trụ trì Chùa phãi không quý vị..? hay là (Sư quốc doanh ?).
Sư Thích Giác Đẳng nói:  ông Nguyễn Văn Nghiêm là người thành lập ra Chùa Phật Tổ Thích Ca vì  ông Nghiêm là (Sư) Nam Tông.. với ý đồ gì ? trong khi đó ai cũng đều biết Chùa Phật Tổ Thích Ca do một vị Ni Sư sáng lập ra vào thập niên 80 và sau đó ông Nghiêm mới đến sinh hoạt. (một người có vợ làm (Sư) trụ trì và sáng lập ra Chùa PTTC). ???
Sư Thích Giác Đẳng nói:  sau khi thành lập xong ngôi Chùa đầu tiên là (Chùa) Chơn Minh Tịnh Xá  từ Chơn Minh Tịnh Xá họ mới lập ra ngôi Chùa thứ 2 có tên là Chùa Phật Tổ Thích Ca., đây cũng là cách nói  lươn lẹo cũa  Sư Thích Giác Đẳng, ngụ ý mẹ đẽ ra con, vì Chơn Minh Tịnh Xá chưa bao giờ là 1 ngôi Chùa cả, và chỉ là 1 căn hộ được bà Lương Thanh Thủy (vợ ông Nghiêm)  dùng căn hộ 4 phòng cũa mình mướn trong một chung cư đề xưng là NPĐ – CMTX và điều hành cũng như sinh hoạt không có liên hệ với nhau và NPĐ – CMTX đã dẹp bõ đã lâu vì bà Lương Thanh Thủy đã trở về VN (về nguồn).
            Thưa tất cã quý vị, những gì chúng tôi nêu lên đây là do Sư Thích Giác Đẳng nói, và chúng tôi lấy những lời do chính Sư Thích Giác Đẳng nói để  chứng minh đương sự là 1 tên ngụy biện lươn lẹo mượn tiền rồi Quịt,  vu khống PT cũng như  thái độ xem thường Phật Tữ và xem thường nhận thức cũa mọi người bằng hình thức vu khống Phật Tữ đuổi (Sư) cướp.
Chúng tôi yêu cầu  Sư Thích Hộ Giác và Thích Giác Đẳng phãi hoàn trã  lại món nợ  200'000.- Sfr mà qúy vị đã thay mặt đại diện và chịu trách nhiệm cho chùa PHAP LUAN đã ký vay mượn cũa Chùa Phật Tổ Thích Ca.  cũng như làm đúng theo biên bãn vay nợ là số tiền lãi mỗi năm 7.200.-Sfr nhân thêm lên 16 năm ..
t í dụ:   16 x 7.200             115‘200  << tiền lời
                                                200‘000  << tiền mượn
                                                315‘000.-   tổng số tiền phãi trả.
quý Ngài nên nhớ ngày xưa khi quý Ngài cần tiền xây chùa chúng tôi cũng như phật tữ đã vui lòng giúp quý Ngài thật tận tình, ngày hôm nay vì chuyện phật sự chúng tôi yêu cầu quý Ngài phãi hoàn trã lại số tiền nói trên theo như văn kiện đã ký, chúng tôi cũng mong ban trị sự Chùa PHAP LUAN cũng nên giúp chúng tôi một tay, để làm sáng tỏ vấn đề cũa số tiền 200.000.-Sfr , số tiền đó có dùng vào việc Phật Sự như HT_Thich Hộ Giác & TT-Thích Giác Đẳng nói trước khi mượn tiền ?, hay số tiền đó vào túi riêng cũa qu ý  Ngài TT- Thích Giác Đẳng và HT-Thích Hộ Giác ? và cũng nên nhắc lại những vị trong nhóm người được gọi là LLCSCHPG nên lấy sự khách quan cũng như kiến thức ra làm việc nhé, đừng có hồ đồ như lần trước mà ông thục vũ nhóm quý vị đã  dựng chuyện nói láo trong việc kiễm chứng với quý ngài rồi, quý vị nên kiễm chứng lại những gì mà Thích Giác Đẳng đã nói, và hãy yêu cầu Thích Giác Đẵng đưa ra những bằng chứng cụ thể như chúng tôi đã làm, còn như những lời cáo buộc cũa quý vị cho là chúng tôi đánh phá Tôn Giáo & bôi nhọa danh dự quý Ngài không có thuyết phục 1 tí nào cã, bởi vì chúng tôi chỉ dùng nguyên văn lời nói cũa Sư Thích Giác Đẳng để chứng minh là Thich Giác Đẳng  ngụy biện, lươn lẹo để chạy nợ cũng có nghĩa là vừa ăn cướp vừa la làng..
và cũng như chúng tôi chỉ nói đơn thuần về chuyện 2 con người mượn tiền rồi Quịt, và 2 người đó là HT_Thich Hộ Giác & TT_Thích Giác Đẳng, chúng tôi chả có nói gì về Tôn Giáo, cũng như chuyện tu hành cũa 2 vị nói trên, còn việc làm cũa nhóm người được gọi là LLCSCHPG thật sự thì hãy nên bình tỉnh, không nên nhảy dựng lên như Gái ngồi phải cọc khi quý  vị nghe cá  nhân chúng tôi đưa chuyện quý  Ngài ra ánh sáng, hãy nói với quý Ngài là đã có mượn tiền thì hãy trã lại đi khi lúc cần tiền người ta đã giúp quý Ngài hết lòng rồi, tại sao lại giữ những cái không thuộc về cũa mình ?? và nếu quý vị tự cho mình là bão vệ chánh pháp & tam bảo thì không cần phải đi dựng chuyện nói láo vu khống cho người khác  mà quý vị chĩ cần lấy một chút thời gian ngồi nghe lại những Audio cũa PT nói gì về quý Ngài, và hãy nghe lại Audio do Thích Giác Đẳng nói, và hãy xem văn kiện vay nợ.. chắc chắn nó  sẽ  giúp cho quý vị sẽ nhìn thấy sự thật cũa những sự thật.
Kính thưa quý vị đây cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ phãi nói, không có ai muốn làm những chuyện như vạch áo cho người xem lưng, nhưng như đã hứa chúng tôi chĩ chấm dứt chuyện nầy khi 2 đương sự nói trên chịu trã nợ và nói lời công đạo cho PT nói chung và cá nhân chúng tôi nói riêng.
NayK ính
MinhDung
http://minhdung-ch.blogspot.com/   << bằng chứng Audio & văn kiện vay tiền
**********
 
**********
 

Tuesday, October 25, 2011

Tuan Phan-QUẢNG ĐỘ CỬU ĐIỀU (9) TRẢM SỚ.






Quảng Độ
Quảng Độ dâm tụ đầu đá đeo
Bất tuân dân sự đợi Nobel
Hoài công dài cổ cầu không đến
Trái gió cho nên lộn cái vèo

QUẢNG ĐỘ CỬU ĐIỀU TRẢM SỚ.
                                                                                -------------
1.- Quảng Độ (thích – Đặng Phúc Tuệ) từng vào mật khu hội họp với Việt Cộng, là đồng chí thân thiết và họat động chung lâu năm với các lãnh tụ Sư Việt Cộng như Trí Quang, Nhất Hạnh, Đôn Hậu….
2.- Quảng Độ đã phá hủy truyền thống Phật Giáo Việt Nam khi ông ta với cương vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tự tiện (hay làm theo lệnh Việt Cộng?) để râu tóc bất chấp dư luận.
3. - Quảng Độ tự thú nhận “Giáo Hội PGVNTN là CON THUYỀN đưa đến bờ DANH VỌNG, LỢI LỘC”, có nghĩa tương tự như một đảng phái, tổ chức tranh danh đọat lợi núp dưới mái chùa, che bởi lớp áo cà sa, đeo chuỗi bồ đề…giả dạng tu hành để lừa bịp người đời.   
4. - Quảng Độ mưu toan sửa đổi lịch sử Phật Giáo và Dân Tộc khi rêu rao “Giáo Hội PGVNTN kế thừa 2000 năm lịch sử Phật Giáo, đấu tranh vì Đạo Pháp và Dân Tộc” (sic), trong khi Giáo Hội nầy thành lập hồi năm 1964 và đã có nhiều hành vi tội ác gây ra cho Đạo Pháp và Dân Tộc.
5. - Quảng Độ là một trong các lãnh tụ chóp bu của Giáo Hội PGVNTN (hậu thân của Giáo Hội Ấn Quang), là tổ chức từng giết người có dự mưu bằng nhiều cách: tưới xăng đốt (tự thiêu?), tra tấn, bắn, chém, đâm, đập đầu…, dùng phương tiện bạo lực chống phá VNCH, tiếp tay VC chiếm đọat VNCH vào ngày 30-4-1975!
6. - Quảng Độ cấu kết với tên cán bộ thông tin Việt Cộng Võ Văn Ái, dung dưỡng sự chung sống vô đạo đức của cặp Võ Văn Ái – ả Tây lai Penelope Faulkner (Ỷ Lan), - một tên phản bội vợ, một ả cướp chồng người!
7 - Quảng Độ theo lệnh Việt Cộng, ký tên Lời Kêu Gọi chiêu dụ Người Việt Hải Ngọai đầu hàng Việt Cộng qua cái gọi là “Yêu Cầu thứ ba”: “Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.” Việt Cộng đã loan báo sẽ thực hiện “Yêu Cầu” trên của Quảng Độ bằng Đại Hội 650 Việt Kiều + 350 Việt Cộng tại Hà Nội vào tháng11-2009!
8. Quảng Độ phạm tội Vọng Ngữ nặng nề khi ông ta quả quyết: “Lời Kêu Gọi Bất Tuân Dân Sự & Biểu Tình Tại Gia ngày 29-3-2011” sẽ được 30 triệu người dân trong nước (mỗi miền là 10 triệu trong 10 ngày) hưởng ứng thi hành trong tháng 5-2009! Sự thật không có gì hết!
9. Quảng Độ NÓI....,Việt Cộng...LÀM. Ngòai 8 điểm nói trên, ngày 3-10-2009 Quảng Độ lại ra “Lời Kêu gọi Không dùng Hàng hóa Trung quốc”, được tên cán bộ thông tin Việt Cộng Võ Văn Ái từ Paris phát loa la làng khắp nơi ngày 5-10-2009. Thì:
Ngày Chủ Nhật 11-10-2009, Cựu Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam (tức Việt Cộng) Trương Mỹ Hoa cầm đầu 16.000 người tham gia đi bộ tại khu vực trước Dinh Thống Nhất (Dinh Độc Lập cũ) Thành Hồ với chủ đề "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Chủ đề này có nghĩa kêu gọi dân Việt Nam hạn chế hoặc không dùng hàng ngọai quốc, trong đó hàng Trung Cộng tràn ngập ở Việt Nam . Không thể có sự trùng hợp ngẫn nhiên giữa Lời Nói của Quảng Độ ĐI ĐÔI với Việc Làm của Việt Cộng! Tại sao Quảng Độ biết trước Việt Cộng sẽ tổ chức Đại Hội Việt Kiều + Việt Cộng tại Hà Nội vào tháng 11-2009? Tại sao Quảng Độ biết trước Việt Cộng sẽ tổ chức Đi Bộ kêu gọi dùng hàng hóa Việt Nam ngày Chủ Nhật 11-10-2009 tại Thành Hồ?
Có phải Quảng Độ là…”Thánh” tăng tiên tri như…Thần? Không!!! Quảng Độ nói, Việt Cộng làm vì miệng của Quảng Độ chính là miệng của Việt Cộng, vì Quảng Độ là Sư Việt Cộng! Đàn em của Quảng Độ ở hải ngọai là tên cán bộ thông tin Việt Cộng Võ Văn Ái, làm loa khuếch đại lời của Quảng Độ cũng là lời của Việt Cộng!
Bài bản “Quảng Độ nói Việt Cộng làm” đã rõ như ban ngày vì Quảng Độ và Việt Cộng tuy hai mà…MỘT! Nếu là một nhà sư tu hành chân chính và có lập trường Quốc Gia Dân Tộc thì không làm các điều kể trên, do đó khẳng định 100% Quảng Độ là Sư Việt Cộng.
                                                                Người lập Sớ: Tuấn Phan