LTS- Chúng tôi đăng bài viết này để thêm tài liệu về tội ác của VGCS xâm lược Huế và tàn sát nhân dân Huế với bàn tay đắt lực GHPGVNTN-AQ. Chúng tôi hoàn toàn không ủng hộ phương rhức đường lối đấu tranh của LM Nguyễn Hữu Giải, LM Phan Văn Lợi có lợi cho VGCS. Vụ thảm sát Khe Đá Mài là do một học sinh kể lại cho LM Nguyễn Hữu Giải. Chúng tôi tin rằng gia đình của nạn nhân của Khe Đá Mài vẫn còn sống tại VN, và khi nào toàn bộ tập đoàn VGCS bị tiêu diệt thì gia đình của nạn nhân tại Khe Đá Mài sẽ mạnh dạn lên tiếng đòi công đạo.
VỤ THÃM SÁT TẠI KHE ĐÁ MÀI
MẬU THÂN 1968.
Linh Mục Nguyễn Hữu Giải
=====================================
Trong 19 địa điểm Thảm Sát trong vụ Mậu Thân 68 tại Thành Phố Huế và Tỉnh Thừa Thiên, thì chỉ có hai nơi, nạn nhân đã trốn thoát được. Đó là tại Trường Trung Học Gia Hội thuộc Quận Tả Ngạn Thành Phố Huế. Nơi đây Ông đã chứng kiến tận mắt cảnh hải hùng, man rợ.
- Suc Vat Ho Chi Minh tham sat dan Viet o Khe Da Mai
Không phải Ðức Quốc Xã; Không phải Khờ Me Ðỏ;
Mà là tội ác cộng sản Việt Nam tại Khe Ðá Mài 1968
Suc vat Ho Chi Minh tham sat dan Viet o Khe Da Mai Mau Than 1968
Khe Ðá Mài, nơi tìm thấy 428 nạn nhân.
Ðịa điểm tìm thấy sau 19 tháng.
Địa điểm thứ hai mà hai nạn nhân đã trốn thoát trước khi hành quyết 30 phút là Khe Đá Mài. Nơi đây hai Ông chỉ nghe tiếng lựu đạn, đại liên, trung liên và ánh sáng bùng lên cả một góc trời, nhưng họ đã rợn tóc gáy vì quá hãi hùng đến như ngất xỉu ! Đó là đêm mồng 7 rạng mồng 8 Tết Mậu Thân khoảng quá 12 giờ khuya.
Chắc chắn là 17 địa điểm còn lại, có thể còn rùng rợn hơn hai địa điểm nầy nhiều, nhất là trên những bải cát ở Quận Phú Thứ mà nạn nhân lên đến 800 người.
Mời Quý Vị nghe nhân chứng sống thuật lại qua cuộc phỏng vấn.
Khe Ðá Mài, nơi tìm thấy 428 nạn nhân.
Ðịa điểm tìm thấy sau 19 tháng.
Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học
sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê
chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy
Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ
mấy năm trước.
Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi
cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng
trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc
hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ.
Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng
hai tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo
của chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào
toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình
tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành
phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về
mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rất cao) cũng
như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo
người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam già trẻ, linh
mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó
lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa
phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép
hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ
hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình… Cuộc chiến đấu xem ra rất ác
liệt!
Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực
lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành
phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải
rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng
mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và
lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết chúng có ý lùng bắt cha xứ
mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai
mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ
viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại nhiều nơi khác
trong thành phố Huế lúc ấy.
Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi
dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ
(gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi
măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp
(nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy
lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc.
Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên kia. Một câu nói được lặp
đi lặp lại:
- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các
em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi!
Không sao đâu!!!
Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ
15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân
hay công chức…. Tiếng kêu khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con
khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học
tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục
quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng
Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện.
Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm
hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một
số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh niên hay học
sinh gặp nạn.
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai
tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ
Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa
Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành
chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi
lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời
là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để
nghỉ.
Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng
còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo
trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên
chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc
phục vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam .
Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4
gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi.
Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người
bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh
Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói:
- Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi!
May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng:
- Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát!
Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về.
Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải
khai rõ tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi,
bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan
hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu
sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tĩnh nên đã khai hoàn toàn
giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi chi tiết khác, như nghề
của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân
thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm tra chéo bằng
cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì
tôi cũng rồi đời tại chỗ!
Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả
ngày mồng 7 Tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về
thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh,
con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại
trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau
này người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh
sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù đã bắt đem theo lên
đây.
VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà,
nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn
bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ
(khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi)
để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì
có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó
được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với
tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy
thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ
Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo
với bà con là ai có thân nhân “đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa
Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá
thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà
chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại.
Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn
mà đi giết người tiếp!!
Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy
trong số thanh niên Phủ Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh
Trị tây lai con ông Ngọc đàn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc
Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang
thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà
một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại
chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của
cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy
Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi…
Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và một tên tuyên bố:
- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho
thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường!
Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại
trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành
chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm
được trên 25 chùm, tức hơn 500 người.
Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường
Phan Bội Châu hiện giờ), chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân
sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã
khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc này không phải là VC nằm vùng, địa
phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để
đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh
chúng tôi mà nói:
- Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ!
-
Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo, nhưng
lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa
phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau
đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền
lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều
đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn
chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!
Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi
vào đường Tam Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng
đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường
trước lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa
(lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông
Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời mờ sương và
giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi
ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng ngày Xuân, giữa kỳ hưu
chiến!?!
Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua
phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long, thuộc
vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào
khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi,
lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng
lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên
bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm.
Đến khoảng 11g rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn
uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát 1
vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy. Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn
nổi. Riêng tôi làm 2 vắt.
Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi
ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên
như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết
sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi
đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong
vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả
người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15
phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu
nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không
được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các bạn
của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự
giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước
mặt: “Tụi mình rán mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn
chết hết đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ
trời vừa mưa vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút
buộc lỏng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc
dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi
vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng
bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!”
Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn:
- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng,
hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ
cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ
lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!
Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc
ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì
mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy
cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi
đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn
nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên
tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp,
khá cách quãng mấy tên khác.
Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi
nghe có tiếng nước róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi
vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và
nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào
gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy!).
Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: “Bắt!
Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng mấy
chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến nỗi tối đen như
mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn: “VC nó kêu,
nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc sau, tôi
nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng
sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”.
Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa,
chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng
15-20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ
vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một
góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu
sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng- khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và
chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: “Rứa là chết cả
rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng 12 đến 12g30 khuya
đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn. Sao lại như
thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm
súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn
chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không?
Sau này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc
chiến Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ- in hằn vào
lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không
bao giờ cùn và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội.
Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất
chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho
mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những
người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết quá oan ức, đau đớn, thê thảm.
Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay có thể
gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông, ngược lên thượng
nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới chỗ vắng, tôi hỏi
thằng bạn:
- Mày biết bơi không?
- Không!
- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm một cây
xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm thật
chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời này lạnh tao không lặn xuống
cứu mày được mô!
Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh
buốt. Thời tiết ấy kéo dài cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày
tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa
bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền
dốc, hòa vào giòng nước sông Tả trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây
lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ?
Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ
đây, xuôi dòng sẽ về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc
gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử
chúng tôi nhắm hướng bắc, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt
đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi
gạt ngay:
- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo đường mòn!
Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn:
- Chừ gặp dân thì mày trả lời ra răng, nói tao nghe.
- Nhờ anh chứ tôi thì chịu!
Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng nói:
- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính
của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt
cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến
khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói
nữa. Mấy em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai
anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá!
- Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng!
Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào
rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để
nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn
lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta
rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó
khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực VN
Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng dạc vang vọng:
- Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó!
Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói:
- Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt lên rừng
từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai
đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia
chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng : xin đồn
phát súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa.
Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng:
- Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là
biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần, xức thuốc xức men, ăn uống thoải
mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!!
Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn
không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần.
Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo
xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi
quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải
báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo.
Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe
tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!
Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt
được và khai thác mấy tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội
ác chính là Khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam
Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được
bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng
lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng
thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ, với
những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì bên dưới. Bên
dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là
nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất. Công binh đã phải bỏ
hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn
đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy Dù Quân lực
VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy
cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam
Tử lộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay xương
chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen
vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành
chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ
chỗ vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi,
lọ dầu nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật
này mà một số nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật
được chở về trường tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn
sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước
mắt. Tất cả òa khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền
rủa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái
chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man
như thế? đã tạo ra những con người giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn
như thế?
Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400
bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam
thành phố Huế, khá cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam
(đất của Công giáo). Nghĩa trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên,
phía trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo
đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán
làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày
mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân.
Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản nhưng chúng tôi không bao
giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: “Forgive
yes! Forget no!”
Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền
Nam , Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một
phát súng vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến
bao giờ họ mới được siêu thoát đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng
tiếc nữa là trong Đại hội thường niên từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà
Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước đề nghị Giáo
hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 biến cố này, theo như Thỉnh nguyện
thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục và giáo dân khác đã viết
hôm 29-09-2007.
Kể lại cho hai cha Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi trong tháng kính các đẳng linh hồn, 11-2007
No comments:
Post a Comment