Wednesday, March 3, 2010

TỘI ÁC HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN VÀ NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH

Hoàng Phủ Ngọc Phan tàn sát người tập thể năm Mậu Thân 1968

Hoang Phu Ngoc Phan voi Kieu bao va Que huong
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan (ngồi)


nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan tên thật là Hoàng Ngọc Hợp

tưởng hình hài anh bặm trợn lắm. Tưởng đâu đó sẽ là một ông có râu quai nón, mắt đeo kính Ray Ban đen...đó là một ông già người Huế (tuy là không già lắm, nhưng anh vừa về hưu) nhỏ thó, miệng luôn chúm chím cười (như muốn nói điều gì mà chưa thể) mà mỗi khi phát biểu, góp ý trong ban biên tập thì tay gãi đầu, xoa mặt liên tục.



From: thanh lien nguyenphuclienthanh nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan ghi tên thật của mình là Hoàng Ngọc Hợp


@gmail.com

Bà Nguyễn thị Thái Hòa nhân chứng sống của Mậu Thân 1968, nạn nhân của Hoàng phủ Ngọc Phan

TỘI ÁC HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN VÀ NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH
Wednesday, March 3, 2010, 3:00 PM

Liên Thành
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam
Kính gởi:
Đồng bào trong nuớc và hải ngoại
Các hệ thống truyền thông
Các Diễn Đàn Internet
Các hội đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại
Các hội đồng hương người Huế tại hải ngoại.
Thưa quý vị,
Nhằm phổ biến rộng rãi và truy tìm mọi tin tức liên hệ đến tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam, Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam xin gởi đến công luận lời tường thuật của một nhân chứng và cũng là nạn nhân vụ tàn sát Mậu Thân, hiện còn sống, về hành động giết người man rợ của hai tên sát nhân Việt Cộng nằm vùng: HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN, và NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH
Bà Nguyễn thị Thái Hòa Là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, gia đình trước 1975 ở tại đường Hàm Nghi, Huế, vừa là nạn nhân và thân nhân của những nạn nhân đã bị Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh sát hại tại Huế trong Mậu Thân năm 1968. Bà hiện đang sống tại hải ngoại
Chúng tôi xin tóm tắt lý lịch của hai tên nầy như sau:

1-HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Thời điểm năm Mậu Thân 1968 Hoàng Phủ Ngọc Phan là sinh viên y khoa năm thứ 2, đại học Y Khoa Huế.
1966 Phan là thành viên tranh đấu đắc lực trong lực lượng tranh đấu lãnh đạo bỡi Thích Trí Quang, trực thuộc lực lương Sinh Viên Quyết Tử của Nguyễn Đắc Xuân.
Y là cơ sở VC nằm vùng trong Tổng hội Sinh viên Đại Học Huế, cán bộ điều khiển y là Trung Tá điệp viên VC Hòang Kim Loan.
Cuối tháng 6 năm 1966, lực luợng phản loạn miền Trung của Thích Trí Quang bị Chính Phủ trung ương dẹp tan, Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng với anh là Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly lên mật khu.
Mậu Thân 1968 Phan cùng với Tường nằm trong đoàn An Ninh Bảo vệ Khu Phố theo chân quân chính quy của Quân Khu Trị Thiên và ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên của Tống Hoàng Nguyên cũng như Ban An Ninh Tỉnh Thị Ủy Huế của đại Tá Công An Nguyễn Đình Bảy trở lại thành phố Huế, thẳng tay tàn sát đồng bào. Y là tòng phạm trong vụ bắt và đem đi chôn sống 4 giáo sư Y khoa người Đức, là giáo sư Y khoa của trường Đại Học y khoa Huế, họ cũng chính là thầy dạy của y.
Cũng cần nói thêm, anh ruột của Y là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, cơ sở trí vận của cơ quan Thành ủy Việt Công Huế từ trước 1963. Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia trong phong trào Phật Giáo đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Hòa, hoạt đông tích cực cho Trí Quang trong cuộc dấy loạn miền trung năm 1966. Tháng 6 /1966 thoát ly lên mật khu. Mậu Thân 1968 trở lại Huế với chức vụ Tổng Thư Ký Lực Lượng Liên Minh Dân Chũ Hòa Bình mà Giáo Sư Lê văn Hảo là chủ Tịch, bà Đào Thị Xuân Yến, tức Tuần Chi làm phó chủ Tịch.
Quan trọng hơn cả chính Hòang Phủ Ngọc Tường ngồi nghế chủ tịch Tòa án Nhân Dân tại trường Trung học Gia Hội và đã ra lệnh cho Ban An Ninh và Đội Tự Vệ khu phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan chôn sống 204 thường dân vô tội tại trong khuôn viên của trường.
Hiện Tại thì Hoàng Phủ Ngọc Tường bị bán thân bất toại, sống tàn tạ tại Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Phan sau 1975 được làm ở Ban kiễm duyệt báo chí của Thành Ủy Sài Gòn

2-NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH:
Y thị là sinh viên dược khoa Đại Học Sàigòn, trước Mậu Thân 1968. Y thị về Huế nghỉ Tết để nhận trách nhiệm trong Mậu Thân. Y thị tham gia đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan. Cha của y thị là Nguyễn Đóa, Anh rễ là Tôn Thất Dương Tiềm . Cả ba, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Duơng Tiềm đều là những tên đại đồ tể, những kẻ giết người không kể xiết trong Mậu Thân 1968 tại Huế.
Còn nhớ rõ trong suốt thời gian Việt Cộng chiếm Huế, y thị mặc bộ đồ màu hồng , mang súng AK 47, đi xe Honda lùng bắt Ngụy Quân Ngụy quyền. Gặp bất cứ thanh niên , đàn ông nào, y thị cũng chận lại xét hỏi. Nếu ai vô phúc trả lời là Quân Nhân hay Cảnh sát, y thị nổ súng hạ sát ngay lập tức.
Sau Mậu Thân, y thị thoát ly ra Bắc, tiếp tục học dược khoa. Sau 1975 vào sinh sống tại Sài Gòn. Hiện nay Nguyễn Thị Đoan Trinh là một đại thương gia giàu có, sống nhỡn nhơ trên tội ác năm Mậu Thân
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam thiết tha mong mõi sự hợp sức của quý vị , bằng cách phổ biến sâu rộng mọi nơi, mọi giới đồng bào, lời tự thuật của Bà Nguyễn Thị Thái Hoà.
Những ai biết thêm về hành động sát nhân của Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, hoặc những tên khác, xin cung cấp tin tức cho chúng tôi, hầu có thêm những dữ kiện, bằng chứng cụ thể để, chúng tôi thiết lập hồ sơ đưa các tên sát nhân này ra tòa án Hình Sự Quốc tế và các tòa án quốc tế khác
Vì trách nhiệm phải bảo vệ an toàn cho nhân chứng, Ủy Ban chúng tôi không thể công khai phổ biến địa chỉ và số phone của bà Thái Hòa trong lúc này. Trong tương lai, bà Thái Hòa sẽ ra trước công luận để trình bày với quý vị và tòa án
Mọi chi tiết quý vị, nhất là các hệ thống truyền thông có uy tín, muốn biết thêm hoặc nói chuyện qua phone với bà Thái Hòa, xin liên lạc với UBTTTACS để sắp xếp
Hoặc email cá nhân tôi: nguyenphuclienthanh@gmail.com
Trận trọng
Thừa Ủy Nhiệm Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Liên Thành.
Dưới đây là lời khai của nạn nhân
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Cộng Sản Việt Nam
Thừa ủy nhiệm UBTTTACS, chúng tôi xin gởi đến đồng bào Việt Nam khắp thế giới nguyên văn lời khai của một nạn nhân vụ Mậu Thân, bà Nguyễn Thị Thái Hòa, nguyên sinh viên trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, trước ngụ tại đường Hàm Nghi quận 3, thị xã Huế
Nhân Chứng, Nạn Nhân Tội Ác Việt Gian Cộng Sản Tết Mậu Thân 68.
Kính thưa Ông Liên Thành,
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cã những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đãng Việt Gian Cộng Sãn, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
Thưa Ông,
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai , tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30 Anh hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng . Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết tứ ngỏ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai , bị rết ngang hông. Họ bắt tất cã chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cã những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nỗ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nỗ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn , rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “ con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “ từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chổ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà xơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngàyliền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nỗ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy xơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được.Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi , phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình .Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run , hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, Không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hải, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao , hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy, tôi khuỵu xuống .Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau.Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa, { nhà thờ Phủ Cam } nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu.Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đóVăn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh , Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải ,Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chổ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng , tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chổ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy.Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi.Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt.Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần , em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ , anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học.Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “ tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.
HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thìVăn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa , mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẫy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng,tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt , Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhã đạn xuống,Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại nồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn , Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “ đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nỗ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cã.Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cãnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưỏng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà , nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ? Lạy Chúa , lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nổi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi.Ông nội đứng im không nói.Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi , thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một,
hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn
em tau, tau xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp,
đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống,thò hai chân xuống trước,hai tay còn vịn trần
nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nỗ súng, đạn trúng ngay chính
giửa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính
lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng
khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẫy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh
người tôi tê cóng, đái ỉa ra cã quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai
mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa
thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đỗ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo.Còn lại một mình, tôi bò lại ôm
lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẩm máu,
máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào,
không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi , hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt
đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi
gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy
nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và
nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức đễ ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác
ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác
Hậu, vài người lối xóm nữa của với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách ,đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi.Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rủ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hởi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bộ bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui dào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cã bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội . Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chổ nhưng tai tôi vẫn nghe rỏ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đũ can đãm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rỏ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm rí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu ? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp,thì tôi nghe tiếng súng nỗ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu ,bức tai, giọng tức tửởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi lặng người,nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại , kễ cã tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cãi chi dễ mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nĩ tôi rán ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chổ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọnVC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể , dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn.Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lưong.
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cãi táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cữ hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn đươc nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngủ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng.Nhà ở 24 Hàm Nghi { gần dường rầy xe lửa } thì bán cho ai đó tôi không rỏ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau dớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cã đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân , buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tãn mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sãn ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sãn, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát
Tôi sẳn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết
Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :
Tên ông nội : Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Địa chỉ hiện tại của tôi :
Nguyễn thị Thái Hòa
xxxxxxxxxxxxxxxxxx
Phone: xxxxxxxxxxxxxxx
Cell: xxxxxxxxxxxxxxxxx

HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN PHẠM TỘI ÁC VẪN CÒN VÊNH VÁO

Phạm tội ác, vẫn còn vênh váo!
Bằng Phong Đặng Văn Âu
17-06-2009
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=6422
Trên trang mạng của ông Đào Hiếu mang tên Lề Bên Trái, có nghĩa rằng đây là một trang mạng có xu hướng đối lập với “Lề Bên Phải” – chủ trương chỉ đạo báo chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam – tôi thấy xuất hiện bài viết của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan dưới tựa đề “NHÂN ĐỌC BÀI "Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng" (1) để phản bác lại những gì do Thiếu tá Liên Thành vừa tiết lộ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (2).
Ông Đào Hiếu là một người quê quán ở Bình Định, theo cộng sản vì ông cho rằng Hồ Chí Minh là nhà cách mạng tranh đấu cho độc lập dân tộc; còn Ngô Đình Diệm chỉ là viên quan lại triều Nguyễn và sản phẩm của Đế quốc Mỹ. Ông Đào Hiếu cũng tiết lộ cho độc giả biết thân sinh của ông khuyên ông đừng đi theo cộng sản, nhưng ông vẫn không vâng lời. Vì “cá không ăn muối”, ông Đào Hiếu đã nhận ra là mình “Lạc Đường” khi chứng kiến những tráo trở, lật lọng, nhớp nhúa, gian tham, cướp bóc của cộng sản. Độc giả hải ngoại thích đọc những bài viết của Đào Hiếu vì ông ta tỏ ra phản tỉnh. Thiết nghĩ, là con người, ai cũng có thể phạm sai lầm. Dũng cảm xác nhận mình sai lầm, bỏ chỗ tối để ra chỗ sáng hoặc cải tà quy chánh là điều đáng khen ngợi. Không phân biệt quốc gia hay cộng sản.

Viết lời giới thiệu huê dạng về văn tài sắc sảo, bút pháp tinh tế, pha trộn tài tình giữa hài hước và sự uyên bác của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, ông Đào Hiếu cố tình hướng dẫn độc giả đánh giá bài viết dưới đây là một tác phẩm văn học có giá trị, trước khi độc giả đọc trọn bài.
Mở đầu bài viết, ông Hoàng Phủ Ngọc Phan tỏ lòng biết ơn ông Đào Hiếu, có lẽ vì được ông Đào Hiếu khen ngợi bằng lời giới thiệu huê dạng như tôi vừa nêu trên. Sau đó, tác giả viết tiếp:
“Thú thật tôi không hề có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác biệt. Nhưng vì bài viết của ông ấy chứa không ít sai lầm - đặc biệt là những sai lầm về nghiệp vụ chuyên môn của nghề làm cảnh sát quốc gia. Lại nhờ những sai lầm đó mà ông ta được chính quyền cũ đề bạt lên giữ những chức vụ quan trọng và gây thêm những hậu quả nghiêm trọng hơn. Nay nếu một người trong cuộc như tôi mà cứ im lặng mãi thì bạn bè và bạn đọc trong và ngoài nước sẽ không hiểu được sự thật.”
Con người uyên bác Hoàng Phủ Ngọc Phan (viết tắt: HPNP) tỏ ra trịch thượng “không có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác biệt”. Ông HPNP không hiểu ý nghĩa hai chữ “tranh luận” nên mới nói không thèm tranh luận với người có quá nhiều khác biệt. Chính vì sự khác biệt nên cần phải tranh luận để chứng minh điều gì đúng, điều gì sai, điều gì phải, điều gì trái. Còn đã “nhất trí” như trong Đảng Cộng sản rồi thì tranh luận làm “cái con mẹ” gì nữa? Do người cộng sản HPNP hiểu chữ “tranh luận” như thế, tôi cũng không dại gì tranh luận với ông ta trong bài viết này. Tôi chỉ có vài nhận xét về bài viết của ông HPNP với tư cách một độc giả. Hơn nữa, tôi chả có văn tài sắc sảo, bút pháp tinh tế như cái kiểu của ông HPNP!
Vừa xác nhận không có nhu cầu tranh luận, ông HPNP tương ngay chữ “NHƯNG” tiếp theo đó để có lý do phản bác chứng cớ Liên Thành viết hai anh em HPNT & HPNP trốn ra bưng từ nhà của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là sai sự thật. Ông HPNP viết:
“Sự thực là chúng tôi không hề ghé nhà Trịnh Công Sơn ở đầu cầu Phú Cam mà ghé nhà anh Nguyễn Kim Sơn ở gần Bưu Điện Thành Phố Huế. Nguyễn Kim Sơn là kỹ sư tốt nghiệp ở Mỹ, từng dẫn đầu đoàn biểu tình đọc tuyên cáo bằng tiếng Anh trước khi đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Huế vào ngày 23-01-1965. Cho đến lúc ấy và cả đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn chưa hề ở trong một tổ chức nào của cách mạng. Hiện anh sinh sống ở CHLB Đức và trước sau như một-là một phật tử thuần thành”.

Trong hồi ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, tuyển tập số 3 do nhà xuất bản Trẻ vào năm 2002, ở trang 161 Hoàng Phủ Ngọc Tường – anh ruột của HPNP – viết như sau:
“...Tôi và Phan biết ngay đã tới hồi "nguy biến" bèn quyết định đánh bài chuồn. Nhân hồi ức nhỏ nầy, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với anh chị Khánh Quỳnh, chủ hiệu sách ở ngã tư Anh Danh trong gia đình thầy Dương Kỵ và gia đình bác Chính (ở 66 Phan chu Trinh-Xí nghiệpDược bây giờ) là những cơ sở của thành ủy đã bố trí để che chở anh em tôi khi bị địch lùng bắt. Chúng tôi vào nhà bác Chính, ẩn náu chờ giải pháp. Tối hôm ấy tôi sang nhà Trịnh Công Sơn ở bên kia cầu phủ Cam (chỗ tôi ở bây giờ) ăn bữa cơm chia tay với gia đình, nhờ Sơn thưa lại với ba mẹ tôi rằng chúng tôi sẽ ra đi kháng chiến...”

Những gì ông anh của HPNP tiết lộ trong Tuyển Tập Hồi Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đều đúng như những gì Thiếu tá Liên Thành đã viết trong bài về Trịnh Công Sơn vừa rồi. Vậy Sự Thật ở về phía nào? Ông anh nói sự thật hay ông em nói sự thật? Chỉ riêng vấn đề này thôi, tôi nghĩ rằng ông HPNP không tranh luận với Thiếu tá Liên Thành là đúng, vì hai anh em họ Hoàng Phủ chưa …“nhất trí”. Từ điểm này trở đi, những gì ông HPNP viết đều vô giá trị về sự kiện lịch sử. Phải chăng ông Đào Hiếu cũng biết anh em nhà họ Hoàng Phủ nói dối, cho nên ông Đào Hiếu mới giới thiệu đây là một bài có giá trị văn học nhờ bút pháp sắc sảo; chứ không có giá trị chuẩn xác về sự kiện lịch sử?

Tôi không nhớ vào năm nào xảy ra sự kiện ông Hoàng Phủ Ngọc Tường được cái Hội Yêu Huế gì đó ở Pháp mời một số nhân vật tên tuổi của Huế sang thăm Paris. Khi Hoàng Phủ Ngọc Tường ra sân bay Nội Bài để đi Pháp thì tòa Đại sứ Pháp thu hồi Visa của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, vì một bài báo của giáo sư Lê Văn Hảo tố cáo bàn tay dính máu của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Tết Mậu Thân. Hư thực thế nào, anh em nhà họ Hoàng Phủ, ông Lê văn Hảo là những người còn sống sót có dám đủ can đảm công khai nói sự thật hay không? Ông Lê văn Hảo dạy Đại học Huế, theo cộng sản phá họai Miền Nam. Rồi khi va chạm thực tế thì ông Hảo mới mở mắt, phải cầu cứu người Pháp để rời Việt Nam.

Nhân nói đến Hội Yêu Huế ở Pháp, tôi xin nhắc đến một nhân vật trí thức hiền hòa của Huế, vì nhân vật này cũng được Hội Yêu Huế mời sang Pháp đến hai lần. Đó là giáo sư Bửu Ý. Trong một cuộc họp ở Huế sau 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng anh Bửu Ý thường chê ông Tường chạy theo cộng sản. Bửu Ý nghe thế, bèn tỏ vẻ sợ sệt quyền hành của Tường, đi lên phía micro nhỏ nhẹ nói: “Dạ thưa anh Tường, anh nói như rứa là oan cho tui quá! Xin qúy vị lắng nghe cho rõ tui đã nói về anh Tường như ri nì: “Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là người luôn luôn chạy theo liếm đít cộng sản”. Cũng bằng cử chỉ rụt rè, Bửu Ý đi về chỗ ngồi với vẻ mặt bình thản. Cả hội trường đều phục cái can đảm của Bửu Ý, trong khi đó Tường chết trân vì xấu hổ, mà không biết cách gì phản ứng. Bửu Ý sang Paris được bạn bè thông cảm hoàn cảnh túng thiếu, nên họ quyên góp giúp anh ta một số tiền khoảng ba, bốn ngàn đô la. Từ Pháp trở về Việt Nam, trước khi về Huế, Bửu Ý ở chơi tại nhà Trịnh Công Sơn tại Sài Gòn mấy bữa để kể chuyện đường xa, kể chuyện bạn bè tình nghĩa có lòng giúp đỡ. Khi rời Sài Gòn để trở về Huế, Bửu Ý mới khám phá số tiền bạn bè ở Pháp quyên giúp nhét dưới gối kê đầu ở nhà Trịnh Công Sơn tự nhiên không cánh mà bay mất tiêu. Thế là tiền Bửu Ý mang về nuôi vợ con thành mây khói. Câu chuyện này được các nghệ sĩ truyền miệng nhau từ Sài Gòn ra tới Huế, không ai là không biết. Từ ngôi nhà của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn có lắm giai thoại vui lắm. Nếu ai không tin điều tôi kể, xin cứ việc kiểm chứng với nhà trí thức Bửu Ý thì sẽ rõ.

Trong bài phản bác những gì Thiếu tá Liên Thành nêu ra, ông HPNP đều cố gắng trình cho độc giả thấy hai anh em nhà Hoàng Phủ là những người hiền lành, nhân đức, có súng chỉ để đó không bao giờ dùng, bàn tay không hề vấy máu đồng bào Huế như người ta cáo buộc. Tôi không ở Huế lúc bấy giờ, không có bằng chứng chính xác để buộc tội hai ông. Nhưng qua câu trả lời của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường với ký giả Stanley Karnov – tác giả VietNam: A Historykhi được hỏi về nạn thảm sát hàng ngàn người dân vô tội ở Huế, ông Tường đáp với đại ý như sau: “Giết những người (nạn nhân) đó cũng giống như giết những con rắn độc”. Nếu là con người hiền lành thì không bao giờ trong đầu óc lại coi việc giết người vô tội cũng giống như giết con rắn độc, ông Tường có hiểu điều đó không?

Ông HPNP kể mấy thước phim ghi lại sinh hoạt gia đình của Nguyễm Kim Sơn có hình ảnh anh em nhà họ Hoàng trong đó, không đủ sức thuyết phục, vì băng thu hình thời bấy giờ chưa có kỹ thuật số để xác định thời điểm thu. Ông HPNP lại nói ông Nguyễn Kim Sơn là người đốt Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ cũng không đúng. Vì theo chỗ tôi biết, Đảng Đại Việt nhận thấy Hoa Kỳ không nhìn ra sự gây rối của Trí Quang là nhằm mục đích đuổi Mỹ về nước, nên Đảng phải cài đảng viên của mình là Trần Mậu Tý vào phong trào tranh đấu, ra lệnh cho Trần Mậu Tý đốt Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ thì mới làm cho Mỹ hiểu rằng phong trào tranh đấu này chống cả Mỹ nữa, chứ không phải chỉ chống chính phủ Sài Gòn mà thôi. Khi thấy ngọn lửa bùng lên ở Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ, Trí Quang rên rỉ khóc than: “Thầy lạy các con, các con làm như thế là chết thầy rồi!” Trí Quang tưởng đệ tử hăng tiết vịt làm bậy, chứ không hề biết đó là âm mưu của Đại Việt. Sau khi Tòa Lãnh sự bị đốt, Mỹ mới chịu nghiêng về phía chính phủ Sài Gòn. Về sau phong trào tranh đấu biết được Trần Mậu Tý là đảng viên Đại Việt nằm vùng trong tổ chức của họ, do đó Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý vào hồi Tết Mậu Thân để trả thù.

Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan vẫn có luận điệu xấc láo gọi người lính VNCH như thời chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” là quân của Thiệu – Kỳ. Chỉ có lính cộng sản mới hãnh diện làm Bộ Đội Cụ Hồ, quân nhân Miền Nam đi lính để bảo vệ chế độ tự do của Miền Nam, chứ không bao giờ tự nhận mình là lính của ai cả. Chủ trương miệt thị đối phương là ngón nghề của Việt Cộng, để biến đối phương thành phi nghĩa và giành chính nghĩa về phía quân xâm lược.

HPNP liệt kê ra một danh sách gồm: Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Văn Giàu, Trần Xuân Kiêm, Thái Kim Lan, Vĩnh Kha, Trần Anh Tuấn, Thái Thị Ngọc Dư … để nói rằng những người này chỉ là những Phật tử thuần thành (!), chứ không phải là Việt Cộng nằm vùng cũng không có giá trị khả tín, vì đó là lời nói thoát ra từ miệng lưỡi … Việt Cộng! Rồi HPNP cho biết Ngô Kha chỉ là một người phản chiến như những người phản chiến trên thế giới. Bọn phản chiến thế giới không hiểu nguyên nhân vì sao có cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Còn làm người Việt Nam, lại có ăn có học thì phải biết rằng sở dĩ có chiến tranh là vì cộng sản ở Miền Bắc giương lên lá cờ giải phóng dân tộc để đánh lừa dư luận thế giới hầu có chính nghĩa xâm lăng. Bọn Việt phản chiến này, nếu không là đảng viên cộng sản thì cũng là công cụ của cộng sản trong mục tiêu xâm lăng Miền Nam. Chúng còn nguy hiểm hơn. (Chú thích của người viết: Ngô Kha là anh em thúc bá với Tướng Ngô Du, chứ không phải em ruột như HPNP viết).

Bọn nội loạn buôc tội Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo là bọn lưu manh, dối trá. Tôi là một đoàn viên gia đình Phật tử Chơn Tuệ ở Chùa Ba La, dưới sự lãnh đạo của anh Hồ Viết Lợi và Bác Thị Loan cố vấn. Những khuôn hội Phật giáo mọc ra như nấm, chùa chiền được trùng tu nhiều hơn nhà thờ Công giáo, trường Bồ Đề tự do giảng dạy giáo lý. Cái gọi là đàn áp Phật giáo là do Võ Đình Cường (một cán bộ cộng sản tuyên thệ vào đảng từ năm 1943) và do Trí Quang âm mưu phịa ra để người Mỹ sai bọn Tướng lãnh tôi tớ lật đổ chế độ. Phật tử thuần thành cái quái gì mà mang bàn thờ Phật xuống đường để không cho quân đội di chuyển, gìn giữ an ninh cho dân chúng?

Tôi mới bắt liên lạc được với bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh ở tiểu bang Louisiana, sau nhiều năm xa vắng. Bác sĩ Tuấn Anh là thầy thuốc riêng của cố Tổng thống Diệm. Bác sĩ Tuấn Anh cho biết ông Diệm chỉ thị cho bác sĩ Trần Kim Tuyến bảo ông mỗi tuần hai lần đến chăm nom sức khỏe cho ông Hà Thúc Ký, người lập chiến khu Ba Lòng chống ông Diệm và cũng là người âm mưu ám sát ông Diệm. Ngoài ra, ông Diệm còn mật lệnh cho ông Cao Xuân Linh, em ông Cao Xuân Vĩ (hiện sống ở Orange County, California) ngầm giúp đỡ tài chánh cho bà Hà Thúc Ký để có phương tiện cho các con ăn học. Khi ông Hà Thúc Ký ra tù, được biết nghĩa cử của ông Ngô Đình Diệm thì lấy làm cảm động vô cùng, nhưng không có cách gì để đền ơn ân nhân! Đối xử với một người tù âm mưu ám sát mình, lập chiến khu Ba Lòng chống mình mà nhân đức như thế thì làm sao dám bảo ông Ngô Đình Diệm là Cần Lao ác ôn? Thử hỏi ở Miền Bắc một người nào dám hành động phản nghịch chống lại Hồ Chí Minh mà toàn mạng và gia đình không tan nát? Chỉ cần sơ ý phát biểu một câu “nghịch nhỉ” cũng đủ tàn mạt suốt cả một đời. Người thi ân cho cách mạng như bà Nguyễn thị Năm ở Hải Phòng, cũng bị Hồ Chí Minh giết!

Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí cho xuất bản cuốn sách Trăm Hoa Đua Nở Trên Đât Bắc, chắc hẳn anh em nhà họ Hoàng Phủ đã đọc, đã biết số phận của những văn nghệ sĩ nổi danh từng có công với Việt Minh cỡ như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Hữu Loan, Văn Cao còn bị đày đọa thể xác, bị chà đạp nhân phẩm như thế nào chứ? Vậy mà họ vẫn đi theo cộng sản để đem “Bộ Đội Cụ Hồ” về tàn sát người dân vô tội của xứ Huế là vì trong con người họ mang bản chất ÁC, coi mạng người dân giống như rắn độc cần phải giết! Đáng lý ra hai anh em nhà họ Hoàng Phủ và những kẻ phạm tội khác như Nguyễn Đắc Xuân phải tự sám hối, thực tâm bày tỏ sự ăn năn thì đồng bào Huế sẽ tha tội. Đừng tìm cách chối quanh càng làm cho cái nghiệp “hiếu sát” thêm nặng nề.


Ông Ngô Đình Diệm không phải là người có đầu óc gia đình trị. Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Dương Đôn đổi tên trường Quốc Học thành trường Ngô Đình Khả – phụ thân của Tổng thống – để lấy điểm ông Diệm. Tôi còn nhớ lõm bõm mấy câu thơ đầu như sau:
“Trường Quốc Học ấy ai xây dựng,
Mấy mươi năm vẫn đứng giữa trời?
Đế đô nhắc nhở tên Người
Cụ Ngô Đình Khả muôn đời tiếng thơm
Lòng yêu nước gặp cơn suy bỉ
Lo bảo tồn quốc túy quốc hoa
Một nền giáo dục gồm ba …”

Đến khi biết được điều này, ông Ngô Đình Diệm ra lệnh Bộ Quốc Gia Giáo Dục lấy lại tên Quốc Học cho trường. Vậy thì, nếu có xảy ra sai phạm trong chế độ là do cấp dưới thuộc loại “bảo hoàng hơn vua” thi hành. Khác với Miền Bắc, Hồ Chí Minh phạm vào tội ác trong Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, truất chức Tổng Bí thư của Trường Chinh Đặng xuân Khu chiếu lệ để yên lòng bá tánh, thì liền gieo ngay tội ác xuống đầu văn nghệ sĩ chỉ khép nép xin lãnh đạo nới lỏng kiểm soát tư tưởng trong vụ án Nhân văn Giai Phẩm. Giới văn nghệ không đòi lật đổ chính quyền mà đã bị trừng phạt tối đa.

Ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính nên mới từ chối đòi hỏi của Hoa Kỳ đưa quân bộ chiến vào Việt Nam. Ông Ngô Đình Nhu là người đa mưu túc trí, chắc chắn ông cũng biết khuyên anh nhượng bộ đòi hỏi của Hoa Kỳ để rảnh tay tiêu diệt bọn Trí Quang và các sư sãi cùng Phật tử tranh đấu rồi tính sau, giống như Hồ Chí Minh ký hiệp ước chấp nhận Thực dân Pháp trở lại Đông Dương để có thì giờ diệt các đảng phái Quốc gia. Nhưng ông Diệm, ông Nhu quyết giữ vững lập trường không chấp nhận cho qnân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam để khỏi bị hậu thế kết tội mãi quốc cầu vinh. Hai anh em đã bị giết bởi những bàn tay bọn phản phúc của Tướng lãnh. Phật Giáo dù được cộng sản yểm trợ tối đa cũng không thể nào đủ sức lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Chỉ có Hoa Kỳ dùng tiền mua chuộc mấy Tướng lãnh phản chủ mới có khả năng lật đổ mà thôi. Ngày nay bọn văn nô, bồi bút cộng sản bôi bẩn ông Ngô Đình Diệm là để tôn vinh Hồ Chí Minh là Cha Già Dân Tộc … Việt Cộng. Nhưng thực tế ngày nay, Trung Cộng lấn đất, lấn biển, chiếm đảo mà bọn cầm quyền dùng vũ lực đàn áp nhân dân phản đối thì đó là thành quả cách mạng suốt một đời hoạt động của Hồ Chí Minh không thể chối cãi.

HPNP phủ nhận tin đồn bị “đối phương” cáo buộc ông ta là thủ phạm giết các bác sĩ người Đức dạy Đại Học Y Khoa Huế. Vậy HPNP là người trong cuộc, chắc chắn phải biết thủ phạm giết các vị giáo sư là ai chứ, thế thì tại sao không nói ra để giải oan cho mình? Nhờ có học vấn, ông HPNP có khá nhiều mưu mẹo để qua mắt độc giả. Ông ta thách thức nếu ai có hình ảnh ông giết người như Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công Bảy Lốp, thì ông sẵn sàng tự tử ngay tức khắc. HPNP biết không ai có thể có tấm hình ông giết người để chứng minh, vì Việt Cộng chẳng bao giờ cho ký giả đi theo hành quân để chụp hình nên mới thách thức.. Hoặc nếu có ký giả đi theo chăng nữa mà chụp những tấm hình bất lợi cho tuyên truyền của Cách Mạng (!) là cái Mạng của ký giả sẽ bị … Cách ngay.

Minh chứng anh em nhà Hoàng Phủ vô tội trong vụ thảm sát Huế xong, ông HPNP nói đến tại sao Miền Nam thua trận thư hùng với Miền Bắc, bằng cách dẫn chứng lời của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Mc Namara như sau: “chúng ta thua vì đã đánh giá thấp lòng yêu nước của người Việt nam.” Ông Mc Namara có thể là một nhà tài chánh giỏi, một nhà quản trị tài ba, nhưng ông không thể nào hiểu được sự gian manh láu cá của cộng sản Việt Nam. Ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan theo đuổi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, nhưng nay thấy câu nói của ông Mỹ có lợi cho mình là vồ lấy ngay. Miền Bắc thắng Miền Nam là nhờ lừa bịp giỏi và tàn ác hơn Miên Nam, chứ không vì yêu nước.

Sau tháng Tư năm 75, người anh Cả của tôi ở Miền Bắc là một bác sĩ vào Miền Nam thăm ông em – một người anh khác của tôi – ở Miền Nam, mang theo mấy cái bát, mấy đôi đũa, gói nhỏ đường, bột ngọt để cho em, vì nghe nói ở Miền Nam bị đế quốc Mỹ bóc lột đến độ không có lấy một cái bát để ăn. Khi vào đến sân nhà người em thì ông anh Cả tôi thấy một biệt thự nguy nga ở đường Tú Xương với chiếc xe Hoa Kỳ lộng lẫy đậu. Ông anh Cả bèn len lén ném mấy cái bát, gói đường, gói bột ngọt vào thùng rác, trước khi bấm chuông cửa. Hồi chưa mất nước, anh em chúng tôi ở Sài Gòn thường mua vợt, giày, áo quần Tennis gửi sang Paris, rồi nhờ người quen chuyển các thứ ấy về Hà Nội. Tất nhiên ông anh Cả phải hiểu rằng các em mình ở trong Nam phải khá giả lắm mới có thể tiếp tế cho mình các thứ hàng “xịn” đó.

Nhưng sự nhồi sọ của cộng sản giỏi đến độ biến một người bác sĩ không có nổi cái suy luận tối thiểu. Nhà văn Dương Thu Hương là một chiến sĩ yêu nước tình nguyện lên đường chống Mỹ, tới khi bà đặt chân vào Sài Gòn, ghé vào Nhà sách Khai Trí bày đủ các loại tác phẩm cộng sản trên giá sách thì bà ngồi phệch xuống lề đường, rồi ôm mặt khóc nức nở vì biết mình bị lừa. Tù binh cộng sản xuất phát từ Miền Bắc cung khai: “chúng em tình nguyện vào Nam chiến đấu vì được phát quần áo bộ đội và gia đình đỡ một miệng ăn.” Nếu bảo cán binih cộng sản yêu nước thì tại sao phải dùng dây xích sắt khóa chân của lính vào ghế ngồi chiến xa?

Là nhà văn có bút pháp sắc sảo và tinh tế, HPNP hư cấu cái chuyện ông Nguyễn Kim Sơn chứng kiến cảnh tượng binh sĩ Hoa Kỳ sàm sỡ khám xét thân thể các cô gái khiến cho một nông dân long mắt lên sòng sọc lộ vẻ căm thù thì cũng giống như Trần Huy Liệu hư cấu chuyện cậu bé Nguyễn văn Tám tẩm xăng vào người biến thành ngọn đuốc chạy vào kho đạn Thực dân Pháp thôi! Đó là ngón nghề vẽ rắn thêm chân của văn công bồi bút Việt Cộng, chỉ có kẻ nào ngây thơ mới tin.

Theo tôi, một lý do rõ ràng nhất để khiến Miền Nam thua Miền Bắc, vì Miền Nam giữa lúc đánh nhau một mất một còn chống kẻ thù mà nhân đạo quá! Nếu Miền Nam thi hành một chính sách phi nhân như Miền Bắc thì cái thứ như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân không bao giờ có chỗ dung thân, đừng nói tới có cái may mắn bước chân vào Đại Học để làm loạn.

Cuối bài, HPNP viết: “Tại trung tâm lưu trữ Aix-en Provence ở Pháp có một bức thư bằng chữ Hán được mật thám Pháp dịch ra tiếng Pháp, gần đây đã được các nhà nghiên cứu sử học dịch ra tiếng Việt như sau:
Ngày 17 tháng 12 năm 1931. Gửi đồng chí Nguyễn Ái QuốcTôi vừa được biết đồng chí đang ốm nặng tại Hồng Kông và tin này làm tôi vô cùng lo lắng. Cho phép tôi gửi đồng chí kèm theo đây 300 yên để đồng chí mua thuốc men. Mong đồng chí tích cực chữa bệnh. Điều đó cần cho sự nghiệp của tổ quốc.
Chúc đồng chí sớm bình phục. PHÚC ĐAN

Phúc Đan là tên hiệu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, nội tổ của Thiếu tá Liên Thành. HPNP trích đăng mẩu thư trên để có ý nói rằng đến Ngài Kỳ Ngoại Hầu Cường Để còn trân qúy “Cụ Hồ” như thế, mà tại sao hàng hậu duệ Liên Thành lại chống Cộng quá vậy? Nhưng qua sự trích dẫn của Hoàng Phủ Ngọc Phan, chúng ta càng thấy rằng người quốc gia vốn có lòng nhân, dù không đồng chính kiến vẫn nghĩ đến sự giúp đỡ lẫn nhau. Cũng giống như Thủ tướng Trần Trọng Kim được ông Đại sứ người Nhật đề nghị giúp tiêu diệt trọn vẹn tập đoàn cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo vào năm 1945, mà cụ Trần trọng Kim đã phản đối, vì không muốn người Việt bị ngọai nhân giết. Lòng nhân đạo của phe Quốc Gia đôi khi dùng không đúng chỗ, cho nên đã đưa đến “Chánh Thua Tà”. Nhưng rút cục, Tà cũng sẽ bị sức mạnh của SỰ THẬT tiêu diệt thôi.

Nhân đây, người viết bài này cũng có một câu chuyện bên lề do một nhà danh họa gốc Miền Nam thường ăn ở, giao du trong cái Tuyệt Tình Cốc của anh em nhà họ Hoàng Phủ, kể lại:
“Rời xa Huế tính đến nay đã non nửa thế kỷ, tôi vẫn còn nhớ khuôn mặt của ông HPNP mà hồi đó bạn bè trong trường Quốc Học thường mô tả anh ta có tướng mạo Việt Cộng: môi thâm, mắt trắng, da xám bủng như mặt Việt Cộng được lôi lên từ hầm bí mật. Đặc biệt, anh ta có nụ cười vừa mới nở ra liền tắt ngay. Theo tướng học, đó là loại người có máu lạnh, giết người không gớm tay. Dù anh ta cứ chối bay, chối biến không hề nhúng tay vào máu, thì nội cái việc dẫn đường cho cán binh Việt Cộng về thành phố Huế để giết hàng ngàn lương dân vô tội cũng đủ cho anh ta bị đọa xuống chín tầng địa ngục. Tấm hình của HPNP trên trang mạng Đào Hiếu đã được kỹ thuật photoshop sửa sang cho dễ nhìn thôi.”

Hiện nay, Hòa thượng Quảng Độ bị quản chế bởi cái chế độ bất nhân thì chẳng thấy các Phật tử thuần thành theo Việt Cộng tranh đấu vì Đạo Pháp ngày xưa đâu cả! Bất công xã hội ngày nay bằng vạn lần dưới thời VNCH, cũng chẳng thấy các Phật tử thuần thành tranh đấu, đệ tử của Trí Quang, dám hé môi nửa tiếng. Phải chăng lương tâm của chúng bị rụng hết răng hay sao mà không thấy cắn rứt?

Thiết nghĩ anh em nhà Hoàng Phủ và phe nhóm nếu không thể nói lời sám hối, thì nên im lặng là hơn. Bao lâu các ông còn cố gắng chạy tội, tôi tin chắc rằng sẽ có nhiều người biết hơn tôi những “thâm cung bí sử” của những kẻ đứng núi này trông núi nọ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” tởm lợm gấp trăm lần những gì tôi tường thuật.



Vài lời của web HT: Chúng tôi phổ biến bài viết này, trong mục đích nối tiếp luồng dư luận trong thời gian qua, với cuốn “Biến Động Miền Trung…” – “TCS - và những hoạt động nằm vùng…” của Liên Thành, “TCS.. và tham vọng chính tri..” của Trịnh Cung v.v.. và những phản biện chung quanh các bài viết đó của các ông Đặng Văn Âu, Hoàng Phủ Ngọc Phan (trong nước) … Chúng tôi có chú ý đặc biệt về bài viết của ông HPNP –với vài điểm trong nội dung của nó mang tính chống Mỹ, như một tiêu biểu cho tinh thần ‘bài Mỹ’ nói riêng hay ‘bài ngoại’ nói chung của một vài phần tử thanh niên trí thức Huế trong thi gian chiến tranh (chúng tôi nói một vài ‘phần tử’ vì trong thực tế không thể nghĩ toàn thể người Huế đều như thế!), trong đó tác giả ẩn chứa tiềm tàng một “inferiority complex” (chúng tôi tạm gọi là “mặc cảm tự ngã”, tương tự như mặc cảm ‘Filipino complex’, mặc cảm của người da đen với phụ nữ da trắng, mặc cảm của một người dân thuộc địa với chủ nghĩa/ thống trị (người) thực dân da trắng như trong “Colonialism Experienced” của ông Trương Bửu Lâm có đề cập đến. Vì vậy, trong câu chuyện ông Hoàng Phủ Ngọc Phan kể lại hình ảnh một người lính Mỹ đánh chết một cách tàn bạo một anh thanh niên (Việt cộng trá hình thường dân) chỉ vì ánh mắt căm thù của anh ta trước người lính Mỹ ấy đã có những hành động sàm sở, vô tư cách với một phụ nữ Việt. Chúng tôi không dám quyết đoán ông HPNP viết láo, nhưng trong đó bộc lộ tính xúc cảm cường điệu, không hoàn toàn đúng với sự thật. Chúng tôi mong có dịp đề cập thêm chi tiết về vấn đề này… -nvh.

_____________________________________________________________

nhân đọc bài "trịnh công sơn -

NHỮNG HOẠT ĐỘNG NẰM VÙNG”

Hoàng Phủ Ngọc Phan.

nguồn:

http://daohieu.com/website/?pg=cs&id=732

LTS: Sau bài viết của họa sĩ Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn, đã có quá nhiều tranh luận trên diễn đàn mạng trong nước cũng như ngoài nước, nhiều đến nỗi có người đã kêu lên: “Đừng nói về Trịnh Công Sơn nữa! Quá đủ rồi!”. Thế nhưng gần đây bỗng nhiên trên mạng lại truyền đi một bài viết khá dài, khá chi tiết của Liên Thành, một người tự nhận là “nguyên trưởng ban an ninh, tình báo Thừa Thiên Huế”. Trong bài ấy, ông Liên Thành lại “phát hiện” những tin động trời về TCS khiến cư dân mạng xôn xao, hoang mang, không biết chân giả thế nào.

Trong tình hình “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng” ấy, chúng tôi buộc phải lên tiếng, mà người lên tiếng đầu tiên là nhà báo Hoàng Phủ Ngọc Phan, một người từng bị ông Liên Thành nêu đích danh trong bài viết với những cáo buộc “nổi da gà”.

Hoàng Phủ Ngọc Phan còn có bút danh khác là Hoàng Thiếu Phủ, là một nhà văn, một nhà báo rất nổi tiếng. Ông được nhiều người đọc nhờ sự sắc sảo, tinh tế trong bút pháp, và sự pha trộn tài tình giữa hài hước và sự uyên bác đã khiến cho các bài báo của ông luôn là những tác phẩm văn học có giá trị.

Bài “phản biện” sau đây của Hoàng Phủ Ngọc Phan là câu trả lời khá nóng bỏng của một người trong cuộc. LỀ BÊN TRÁI.

(hình HPNP, daohieu.com)

Xin cảm ơn anh Đào Hiếu đã chuyển cho tôi xem bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” của Liên Thành và đề nghị tôi có ý kiến phản hồi.

Thú thật tôi không hề có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác biệt. Nhưng vì bài viết của ông ấy chứa không ít sai lầm - đặc biệt là những sai lầm về nghiệp vụ chuyên môn của nghề làm cảnh sát quốc gia. Lại nhờ những sai lầm đó mà ông ta được chính quyền cũ đề bạt lên giữ những chức vụ quan trọng và gây thêm những hậu quả nghiêm trọng hơn. Nay nếu một người trong cuộc như tôi mà cứ im lặng mãi thì bạn bè và bạn đọc trong và ngoài nước sẽ không hiểu được sự thật.

Tôi gọi Liên Thành bằng đại danh từ “ông” chỉ là để thể hiện sự tôn trọng bạn đọc, không muốn tra tấn họ bằng những ngôn từ hằn học của thời chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh. Nếu LỀ BÊN TRÁI là một diễn đàn có thể chấp nhận đăng tải những bài viết có chính kiến khác nhau thì xin cứ đăng bài của tôi để bạn đọc rộng đường dư luận. Với tư cách của người trong cuộc tôi xin nói rõ những sự thật sau đây:

1.Về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

- Ông Liên Thành nói rằng ngày 11-6-1966, ông chỉ huy các điệp viên bám sát tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, thấy rõ chúng tôi vào nhà Trịnh Công Sơn ăn cơm chiều rồi trở ra ngồi trên một chiếc xe hơi màu trắng để trốn ra rừng …

Lúc bấy giờ quân của Nguyễn Cao Kỳ - Nguyễn Ngọc Loan đã kiểm soát tình hình ở Huế. Lệnh truy nã anh em chúng tôi đã được đọc ra rả trên đài phát thanh. Vậy Liên Thành còn sợ gì mà không ra tay bắt lấy chúng tôi để lãnh thưởng mà lại để chúng tôi lọt lưới? Sự thực là chúng tôi không hề ghé nhà Trịnh Công Sơn ở đầu cầu Phú Cam mà ghé nhà anh Nguyễn Kim Sơn ở gần Bưu Điện Thành Phố Huế. Nguyễn Kim Sơn là kỹ sư tốt nghiệp ở Mỹ, từng dẫn đầu đoàn biểu tình đọc tuyên cáo bằng tiếng Anh trước khi đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Huế vào ngày 23-01-1965. Cho đến lúc ấy và cả đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn chưa hề ở trong một tổ chức nào của cách mạng. Hiện anh sinh sống ở CHLB Đức và trước sau như một-là một phật tử thuần thành. (Tôi sẽ nói thêm về trường hợp Nguyễn Kim Sơn trong phần cuối bài này). Không hiểu vô tình hay cố ý, Liên Thành đã làm lộn hai ông Sơn nói trên, vu cho Trịnh Công Sơn tội danh Việt Cộng để hành hạ nhạc sĩ này triền miên và bắt người tràn lan. Đây không phải “bé cái lầm” mà là loại sai lầm chết người.

Lúc chúng tôi tạm trú ở nhà anh Nguyễn Kim Sơn, anh Sơn có cái máy quây phim 8mm đang quây cảnh sinh hoạt gia đình, tình cờ có lọt cả hình ảnh hai anh em chúng tôi trong đó. Sau năm 1975, anh Kim Sơn có dịp chiếu cho tôi xem lại những thước phim này. Nếu ông Liên Thành liên hệ được với Kim Sơn, chắc chắn sẽ tìm được bằng chứng ngoại phạm của Trịnh Công Sơn.

-Người lái xe đưa chúng tôi ra khỏi thành phố để vào chiến khu không phải là anh Lê Cảnh Đạm mà là một đại úy quân cảnh ở Huế. Những ngày ấy, thành phố Huế bị giới nghiêm cả ngày lẫn đêm và chúng tôi đi vào buổi trưa chứ không phải lúc nhá nhem tối. Phải là một đại úy quân cảnh mới có thể đưa chúng tôi qua lọt các chốt chặn xét. Liệu ông Liên Thành có cần biết viên đại úy ấy là ai không nhỉ?

Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ được nhiều người hâm mộ. Trong số các fan của anh có những người ở phía bên này và những người ở phía bên kia. Nhưng không phải hễ chơi với tả thì thành tả, chơi với hữu thì thành hữu. Thực tế, Trịnh Công Sơn chưa hề tham gia một tổ chức bí mật nào của cách mạng để gọi là “nằm vùng”. Anh có vẻ dị ứng với mọi thứ kỷ luật, tổ chức, đảng phái, âm mưu, thủ đoạn…Việc ông Liên Thành ép cung rồi buộc TCS làm mật vụ cho cảnh sát hoặc ai đó nói TCS là C.I.A, âm mưu đảo chánh, có tham vọng làm bộ trưởng, có giấc mộng vào Đảng để mưu cầu lợi lộc…đều chứng tỏ họ không hiểu gì nhiều về con người TCS và chắc cũng không hiểu gì lắm về nhạc Trịnh. Người ta có cả trăm cách để lừa dối nhau nhưng không ai có thể lừa dối tâm hồn mình bằng âm nhạc. Nếu tâm hồn của Trịnh dung nạp được những thứ chuyện như thế này thì sao còn có chỗ để nuôi dưỡng thứ nhã nhạc kia?

-Mộ của Trịnh Công Sơn được chôn ở nghĩa trang chùa Quảng Bình của Hội Ái Hữu Quảng Bình - kế nghĩa trang Gò Dưa (Quận Thủ Đức. TPHCM) chứ không phải ở Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) Đây là sự lựa chọn của gia đình TCS. Gia đình anh theo đạo Phật và có gốc Quảng Bình. Mẹ anh đã được chôn ở đấy. Mộ Trịnh Công Sơn được thiết kế theo một kiểu cách lập dị nằm kế bên mộ mẹ. Lễ tang Trịnh Công Sơn có Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Bí thư Thành Ủy Nguyễn Minh Triết đích thân đến phúng điếu. Nếu gia đình có nguyện vọng đưa anh vào nghĩa trang Thành Phố, chẳng lẽ hai nhân vật thế lực ấy không giúp được sao?

Đối với Trịnh Công Sơn, những lời khen chê bấy lâu nay đều có chỗ đúng, chỗ sai nhưng như thế đã quá đủ. Xin hãy để cho anh ấy yên giấc nghìn thu, có được không hở ông Liên Thành?

2. Về quán BẠN (Chứ không phải là quán BẠN TÔI).

Quán của chúng tôi nằm trên đường Đào Duy Từ, nhìn ra đường Hàng Bè trên bờ sông Đông Ba chứ không phải bên phía Đập Đá. Nhóm chúng tôi mở quán nầy chỉ vì ham vui. Chỉ có vài ba người là Việt Cộng còn những người như vợ chồng giáo sư Đỗ Long Vân, nhà văn Túy Hồng, chủ quán Lê Văn Sâm… đều vô can. Khách đặc biệt của chúng tôi là những nhà báo chống Cộng chuyên nghiệp như Thế Uyên, Trần Dạ Từ …từ Sài gòn ra để …đấu võ mồm với Việt cộng. Thừa biết bổn quán thường xuyên bị mật vụ theo dõi nên chúng tôi không dại gì dùng nơi nầy làm chỗ liên lạc với tổ chức cách mạng. Liên Thành gọi đây là một “căn cứ lõm” mà lại mang quân đi đánh phá một cái Quán Bạn Tôi nào đó ở bên Đập Đá, thế là thêm một vụ án oan!

3. Chụp mũ cộng sản cho Phật giáo.

Trong danh sách cán bộ cộng sản nằm vùng mà Liên Thành nêu trên có những người như: Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Văn Giàu, Trần Xuân Kiêm, Thái Kim Lan, Vĩnh Kha, Trần Anh Tuấn, Thái Thị Ngọc Dư, …. và rất nhiều nữa. Sự thực tất cả những người nêu trên không có ai là Việt cộng nằm vùng cả. Họ đều là những phật tử thuần thành, tích cực tranh đấu cho đạo pháp từ những mùa pháp nạn dưới chế độ Diệm. Sau năm 1975 họ đều sống như những công dân bình thường - ai cộng, ai trừ bà con đều biết. Làm gì có chuyện Nguyễn Khắc Từ là đại tá VC? Cho đến những ngày Thiệu - Kỳ - Loan thẳng tay đàn áp phong trào Phật giáo ở các tỉnh miền Trung, Nguyễn Đắc Xuân vẫn chưa hề có mối liên lạc với bất kỳ một tổ chức nào của cách mạng. Bị nêu tên truy nã trên đài phát thanh, anh phải cạo đầu giả làm sư, trốn về vùng quê ở Giạ Lê - Hương Thủy lánh nạn chứ không chịu ra trình diện. Chúng tôi bắt được liên lạc, viết thư mời anh lên rừng mà trốn cho an toàn. Ở trong chiến khu cả nửa năm trời, Nguyễn Đắc Xuân vẫn tiếp tục ăn chay và được đối xử như khách tỵ pháp nạn. Chiến khu Thừa Thiên - Huế đã đón rất nhiều khách tỵ nạn như Nguyễn Đắc Xuân. Ông Nguyễn Văn Cán, quận trưởng Cảnh sát cũng là phật tử. Tết Mậu Thân ông không dám ra trình diện với chính quyền cách mạng. Biết ông là người trí thức (cử nhân Luật), chúng tôi thuyết phục ông đứng đầu danh sách một tổ chức gọi là Nghĩa Binh bao gồm những người đã ra trình diện. Tổ chức này chỉ là để hư trương thanh thế. Sau khi trình diện, chúng tôi cấp giấy chứng nhận rồi cho phép họ trở về nhà chăm sóc gia đình trong những ngày binh lửa. Chỉ có thế mà Liên Thành gán cho ông Cán tội danh là cơ sở tình báo rất quan trọng của trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan. Bản lãnh làm án oan của Liên Thành chắc là học được từ các tay trùm mật vụ của Ngô Đình Cẩn như Phan Quang Đông, Hoàng Trọng Bá, Dương văn Hiếu… Cứ nghe cái giọng điệu của Liên Thành ca tụng anh em nhà Ngô Đình Diệm và đám thủ hạ đắc lực của Ngô Đình Cẩn thì có thể hiểu vì sao ông ta chụp mũ cộng sản lên đầu toàn bộ phong trào đấu tranh của Phật giáo. Chính là để có cớ đàn áp, tiêu diệt thế lực của Phật giáo, trả thù cho Ngô triều. Chẳng cần gì phải là người cao minh cũng có thể chỉ ra rằng đó chính là sự vận hành của “chế độ Diệm mà không có Diệm”.

4. Vụ sát hại nhà thơ Ngô Kha.

Là nhà thơ nổi tiếng, dạy Việt văn ở trường Quốc Học Huế, chủ tịch Mặt trận văn hóa Miền Trung. Anh rất gắn bó với phong trào tranh đấu của sinh viên học sinh Huế. Hai lần thầy trò anh xuống đường, bị Liên Thành trực diện đàn áp, đã quyết liệt phản kích khiến Liên Thành mang thương tích. Liên Thành thù Ngô Kha từ đó. Ngày 6-3 năm 1972, Liên Thành dẫn hai cố vấn Mỹ cùng bộ hạ bao vây, lục soát nhà Ngô Kha rồi bắt anh đưa đi đâu mất tích. Sau năm 1975, Công An Huế lấy lời khai của đám bộ hạ Liên Thành - theo đó thì chỉ trong đêm 6-3, Ngô Kha đã bị Liên Thành tra tấn đến chết rồi ném xác vào bồn axit để phi tang. Tôi ở Huế đã lâu nhưng không hề nghe nói ở đâu có những bồn axit như thế. Chuyện cái bồn axit chưa chắc có thật nhưng một trưởng ty cảnh sát như Liên Thành muốn giết người phi tang, hủy thi diệt tích thí còn thiếu gì cách, đâu cần đến bồn axit. Cũng xin nói thật, Ngô Kha không phải là Việt Cộng nằm vùng. Anh hoạt động như những người phản chiến chống Mỹ trên khắp thế giới. Chính vì vậy mà sau năm 1975, bạn bè ở Huế đã gặp không ít khó khăn khi làm thủ tục xác nhận liệt sĩ cho anh. Chuyện này ở Huế rất nhiều người biết. Ngô Kha là trung úy động viên rồi biệt phái trở về dạy lại trường Quốc Học. Anh là em ruột của tướng Ngô Du trong quân đội VNCH.

Nếu tôi là tướng Ngô Du thì dù Liên Thành kia có đi đến chân trời góc biển nào tôi cũng sẽ tìm đến - nếu không phải để hỏi tội thì ít ra cũng để năn nỉ một câu: “Trên đời này chỉ có ông mới biết Ngô Kha chết như thế nào. Xin làm ơn làm phước cho biết nắm xương tàn của em tôi hiện ở nơi đâu?”

5. Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái là đặc công!

Liên Thành cho rằng Nguyễn Hữu Thái là đặc công thuộc Thành ủy Sài gòn, thủ phạm tung lựu đạn vào xe Nguyễn Văn Bông. Lại sai nữa. Anh Nguyễn Hữu Thái chưa bao giờ là Việt cộng, lại càng không thể là đặc công. Người ném lựu đạn vào xe Nguyễn Văn Bông, chủ tịch đảng Cấp Tiến là một sinh viên thuộc Lực Lượng Biệt Động. Tên tuổi và thành tích của sinh viên ấy đã được giới thiệu công khai trên một số sách báo ở trong nước, muốn biết người ấy là ai cũng không khó.

6. TÔI KHÔNG HỀ GIẾT AI.

Sau chiến dịch Mậu Thân báo chí ở Sài gòn thường nhắc đến anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai tên đồ tể khát máu, giết người không gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra. Tánh anh Tường rất hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi. Cơ quan cấp cho anh một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới đến nỗi súng han rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác. Người này làm mất súng khiến anh Tường bị phê bình –đúng ra đây là một khuyết điểm đáng phải bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức được điều đó. Anh cứ cãi khơi khơi là tại cơ quan giao súng cho anh chứ anh đâu có yêu cầu. Công tác của anh chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà có thể giết ai được?

Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ:

-Giết người không phải là chuyện nhỏ, không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền đó.

-Giết người không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng có bản lĩnh đó. Mặc dầu trong chiến tranh, trên chiến trường và ngay bây giờ vẫn không thiếu gì những kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi một kẻ đáng tội nào đó bảo tôi giết thì nói thật… không dám đâu.

Chúng tôi theo cách mạng trước tiên là vì không thể sống chung với cái ác. Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy vào các binh chủng rằn ri của Thiệu - Kỳ hay đầu quân dưới trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?

Từ sau Tết Mậu Thân đến nay, đối phương không ngừng vu khống cho anh em tôi đã tàn sát đồng bào vô tội ở Huế. Tôi nguyên là sinh viên Y khoa nên họ còn trút luôn lên đầu tôi cái tội khi sư diệt tổ là giết các giáo sư người Đức ở Đại học Y khoa Huế. Lúc đầu thì có nhiều người tin nhưng hơn ba mươi năm nay, bà con bạn bè trong nước và cả những người ở nước ngoài có dịp đi về đều đã hiểu được sự thật. Tất cả chỉ là tin đồn do những người có ác ý gieo rắc, không cần chính xác và không ai phải chịu trách nhiệm. Nhưng Liên Thành, là người cầm đầu nhiều cơ quan công lực, rất có điều kiện để kiểm chứng các tin đồn. Vậy xin hỏi Liên Thành: ông nói tôi say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội nhưng chính xác tôi đã giết những người nào? lúc nào? ở đâu?

Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết người thì chắc chắn đó là kẻ ăn gian nói dối.

Còn nếu Liên Thành hay bất kỳ ai đưa ra được bằng chứng không thể chối cãi rằng tôi đã giết người - như kiểu tên ác ôn Nguyễn Ngọc Loan giết anh Bảy Lốp - thì tôi xin tự vẫn ngay trước mặt họ để tạ tội với đồng bào và khỏi làm nhục lây đến bà con dòng họ.

Chuyện Mậu Thân hãy còn nhiều điều mà tôi cần nói, nhất là về cái chết của các giáo sư người Đức ở Huế. Nếu có dịp tôi sẽ xin phép được trình bày với bạn đọc cũng trên diễn đàn Lề Bên Trái này.

Gần đây, một số người ở nước ngoài về Việt Nam thăm gia đình có kể rằng vào những năm cao điểm của phong trào vượt biên, những gia đình thuyền nhân khi đến vùng đất hứa đều rất sợ phải qua thêm một cửa ải của ông Liên Thành. Hễ ông ghét người nào thì liệt họ vào danh sách lý lịch xấu. Có người như giáo sư Châu Tâm Luân, Hoàng Văn Giàu… còn bị ông nhồi cho bầm dập như cái mền. Mặc dầu đây chỉ là những thông tin chưa được kiểm chứng nhưng chắc cũng không sai sự thật bao nhiêu. Những thuyền nhân ấy phần lớn đều đã trải qua trăm cay nghìn đắng, có người mất cả tài sản và tính mạng người thân ngoài biển khơi. Họ có còn dính dáng gì đến chế độ cộng sản nữa đâu mà ông thù dai đến thế ?. Ông từng giữ một lúc nhiều chức vụ quan trọng như: Quận trưởng Quận 3 - Phó trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt - Trưởng ban An ninh - Tổng thư ký điều hành Ủy ban Phượng Hoàng Thừa Thiên Huế… Lúc này những chức vụ đó đã không còn giá trị sử dụng. Vậy ai trả lương và cho phép ông hành động như một tên đại bàng, đầu gấu ở các trại tỵ nạn? CIA chăng? Nếu đúng như thế thì tôi sẽ nói thêm vài điều có liên quan đến cái nghề CIA của ông để giúp ông giải đáp câu hỏi: Tại sao Miền Nam VNCH lại thua?

7. Tại sao Miền Nam VNCH lại thua?

Ông Liên Thành viết: “Kể từ ngày 30-4-75 đến nay trong tâm khảm của tất cả người Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: tại sao miền Nam VNCH lại thua, Tại sao cái đúng lại thua cái sai, cái ác lại thắng cái thiện?... ” Đây là câu hỏi lớn đã được các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự, các nhà lý luận, chiến lược hàng đầu của cả hai bên - bên thắng và bên thua nghiên cứu rất kỹ. Có lúc hai bên đã cùng tỉnh táo ngồi lại với nhau trong những cuộc hội thảo khoa học để bổ sung cho đáp án của mình. Và câu trả lời thuyết phục nhất về phía Mỹ đã được Mac Namara cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ phát biểu trong tập hồi ký của mình: “chúng ta thua vì đã đánh giá thấp lòng yêu nước của người Việt nam.” Câu nói ngắn gọn đó chứng tỏ ông Mac Namara đã hiểu được vấn đề. Nhưng Liên Thành thì chưa chắc đã hiểu vì cho đến nay ông ta vẫn chỉ có thể suy nghĩ theo những luận điệu nông cạn như: Cộng sản Bắc Việt là tay sai của Nga-Tàu, VNCH thua vì bị Mỹ cúp viện trợ, thiếu vũ khí đạn dược, Huế nổi loạn là do Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan và đại tá Việt cộng Nguyễn Khắc Từ điều khiển chùa Từ Đàm… Để Liên Thành hiểu lòng yêu nước ấy như thế nào, tôi xin kể vài chuyện như sau:

Một hôm anh Nguyễn Kim Sơn (người đã cho anh em Tường - Phan trốn tại nhà trước khi thoát ly) ngồi trên xe hàng đi từ Huế vào Đà Nẵng. Đến đoạn đường trước căn cứ Mỹ ở sân bay Phú Bài, mọi người đều phải xuống xe để cho lính Mỹ khám xét thân thể. Vài cô gái bị lính Mỹ giở trò sàm sỡ. Một thanh niên có vẻ nông dân trừng mắt nhìn bọn chúng một cách căm thù. Lính Mỹ thấy thế liền lôi người thanh niên ra khám xét. Ai ngờ trong mình thanh niên nầy rơi ra một cây súng ngắn. Thì ra đó là một “tên Việt cộng”. Lập tức anh ta bị lính Mỹ bẻ hai tay ra sau lưng như bẻ cánh gà rồi chỉ vài cái lên gối là miệng anh ta hộc máu ra như suối, ngã sụm xuống đất. Lính Mỹ dẫm giày đinh nát cả mặt, gãy cả đôi chân rồi đá anh qua một bên lề đường. Nguyễn Kim Sơn kể chuyện ấy rồi than thở: nhìn thấy đồng bào mình bị nó giày xéo như con giun con kiến mà không làm gì được thật là xót xa tủi nhục. Nguyễn Kim Sơn được ăn học ở Mỹ nhưng chính cái thảm cảnh ngày hôm ấy đã khiến anh trở thành người đầu tiên đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ và đấy là tòa Tổng lãnh sự Mỹ đầu tiên trên thế giới bị đốt. Không phải chủ nghĩa cộng sản - vì cho đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn vẫn không phải là người của chế độ cộng sản - mà chính là lòng yêu nước thương nòi của người Việt nam đã nổi lửa đốt cháy tòa Tổng Lãnh sự Mỹ. Hôm chúng tôi trốn ở nhà Nguyễn Kim Sơn thì các em của anh cũng như anh, cả nhà chưa ai tham gia cách mạng. Nhưng sau khi thành phố Huế bị Nguyễn Ngọc Loan và Liên Thành khủng bố trắng, bàn thờ Phật bị xe tăng xéo nát, các em của anh đều bí mật tham gia cách mạng trong tổ chức Thành Đoàn Sài Gòn. Chính Liên Thành chứ không ai khác đã đẩy họ về phía Việt Cộng. Phật tử trở thành Việt Cộng, Việt Cộng nằm trong hàng ngũ phong trào tranh đấu của Phật giáo là chuyện có thật và đó là lôgich phát triển của lòng yêu nước chứ chẳng phải mưu ma chước quỷ gì cả.

Tôi còn một dẫn chứng khác rất đáng chú ý đối với Liên Thành.

Tại trung tâm lưu trữ Aix-en Provence ở Pháp có một bức thư bằng chữ Hán được mật thám Pháp dịch ra tiếng Pháp, gần đây đã được các nhà nghiên cứu sử học dịch ra tiếng Việt như sau:

Ngày 17 tháng 12 năm 1931.

Gửi đồng chí Nguyễn Ái Quốc

Tôi vừa được biết đồng chí đang ốm nặng tại Hồng Kông và tin này làm tôi vô cùng lo lắng.

Cho phép tôi gửi đồng chí kèm theo đây 300 yên để đồng chí mua thuốc men. Mong đồng chí tích cực chữa bệnh. Điều đó cần cho sự nghiệp của tổ quốc.

Chúc đồng chí sớm bình phục.

PHÚC ĐAN

Nguyễn Ái Quốc tức là người mà chúng tôi gọi là Bác Hồ. Còn người ký Phúc Đan, tên là Nguyễn Phúc Đán tức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để chính là tổ phụ (ông nội) của Liên Thành. Thư đề tháng 12 năm 1931, tức sau khi Đảng Cộng Sản của Nguyễn Ái Quốc ra đời hơn một năm rưỡi. Biết tin Nguyễn Ái Quốc bị bệnh nặng ở Hồng Kông, Kỳ Ngoại Hầu ở Nhật lo lắng gửi tiền bạc chăm sóc và gọi bằng hai tiếng đồng chí rất quí mến. Nguyễn Ái Quốc và Kỳ Ngoại Hầu thuộc hai con đường, hai thế hệ nhưng vẫn cư xử với nhau như đồng chí vì họ có chung một tấm lòng yêu nước. Chính truyền thống yêu nước lâu đời của người Việt Nam đã làm nên chiến thắng ngày 30-4-75 chứ chẳng phải Nga sô - Trung Cộng nào cả. Ai đúng, ai sai, ai thiện, ai ác, ai thắng, ai thua - chỉ cần Liên Thành chịu khó đọc sách nhiều nhiều một chút, nhất là những trang sử vẻ vang của gia tộc mình chắc sẽ tự tìm được câu trả lời, chậm hơn Mac Namara một chút mà đúng cũng không sao. Lại mong ông Liên Thành không vì tổ phụ mình viết bức thư nói trên cho Nguyễn Ái Quốc mà liệt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và nhóm chí sĩ Đông Du vào tội danh tiếp tay cho Cộng sản rồi làm báo cáo mật nộp cho CIA.

CIA mà dựa trên những nguồn tin láo toét và trật lất như bài Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng của ông, hèn chi Mỹ thua cũng phải.

HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN.

hoangphungocphan@yahoo.com.vn

nguồn:

http://daohieu.com/website/?pg=cs&id=732

Tài liệu CS viết ca tụng tội ác của HPNP

Bức ảnh quý về khí phách sinh viên Huế 1975

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong một lần soạn lại sách vở tư liệu gia đình, đã phát hiện ra trong thùng đựng ảnh cũ của gia đình bức ảnh thầy giáo siêu hình học Trường Quốc Học Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường đang diễn thuyết trong một cuộc đấu tranh, với câu khẩu hiệu rất “ác chiến” sau lưng “CHÚNG TÔI THÁCH ĐỐ MỌI SỰ ĐÀN ÁP CỦA THIỆU - KỲ”.

Thấy bức ảnh giá trị, Mỹ Dạ bèn ra phố scan lại rồi phóng to treo đầu giường anh Tường nằm. Trong ảnh có rất nhiều sinh viên và “cán bộ phong trào” đứng cạnh anh Tường. Trong ảnh còn có một người mặc xê-vin trắng, thắt cà vạt đứng phía tay trái anh Tường, mắt nhìn xuống. Tôi hỏi anh Tường: "Người này là ai ?”

Tường bảo: "Đó là một vị đại diện bên Ty cảnh sát cử sang để “theo dõi” cuộc mít –tinh”. Mới hay, chính quyền Thừa Thiên Huế những ngày đó cũng rất ngại lực lượng sinh viên xuống đường, nên họ đã không ra tay đàn áp cuộc “xuống đường”, mà chỉ “theo dõi” !

Theo nhà thơ Trần Hữu Lục, thời kỳ đó có nhiều “tổ chức” sinh viên Huế độc lập với nhau xuống đường đấu tranh lắm. Ngô Kha cùng Trần Quang Long lập ra nhóm đấu tranh, gọi là “Nhóm thanh niên chống xa hoa phóng đãng” và “Quán bạn”, tham gia xuất bản tờ tin “lực lượng” kêu gọi tuổi trẻ đấu tranh, đòi hòa bình dân chủ.

Họ luôn bám trụ ở Trụ sở Tổng hội Sinh viên (22 Trương Định, Huế) để phát động đấu tranh. Họ xuất bản tập san “Tự quyết”, thành lập Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung do Ngô Kha làm chủ tịch, tổ chức triễn lãm tội ác của Mỹ tại Huế.

Có một nhóm sinh viên yêu nước (Cộng Sản) khác gọi là NHÓM VIỆT, hoạt động công khai Những năm 1967, 1968, đang là sinh viên đại học, Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trịnh Công Sơn… đã ra tờ báo Thân Hữu ( ĐHSP Huế, 1967), Sinh viên Huế (1968) do Trần Hữu Lục làm chủ biên.

Nhóm Việt sau Mậu Thân 1968 vẫn hoạt động công khai bằng cách phối hợp làm trang văn nghệ cho tạp chí Đối Diện , luôn chủ trương tìm về nguồn cội dân tộc, chống lại khuynh hướng lai căng, vong bản. Đến năm 1975, Nhóm Việt mới giải tán.

Hoàng Phủ Ngọc Tường hăng hái làm chủ bút, phóng viên, biên tập viên của nhiều tờ báo như Dân (Tiếng nói đấu tranh của Trí thức Huế), Tiếng nói sinh viên, Việt Nam, Cứu lấy quê hương (Liên minh Huế).

Tất cả các nhóm sinh viên xuống đường đều do cách mạng chỉ đạo. Họ đấu tranh bằng thơ và bằng cả những đêm không ngủ: Tôi muốn hát cho cây cỏ nghe/ Lời giun dế khóc trong đêm lửa cháy...(Thái Ngọc San); Bị bắt vô tù, họ vẫn sục sôi: Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa ( Võ Quê)… Bị địch đàn áp, bắt bớ, bị lộ, nhiều trí thức sinh viên Huế đã “lên xanh” và trở thành những cây bút xuất sắc của cách mạng như (VG) Hoàng Phủ Ngọc Tường, (VG) Nguyễn Đắc Xuân, (VG) Trần Vàng Sao…

Nhìn tấm ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường đứng dõng dạc kêu gọi đấu tranh đòi hoà bình, chống Thiệu - Kỳ ngay giữa đường phố Huế ban ngày ta hình dung được phần nào sự “quyết tử”, sự “dấn thân” của một thế hệ trí thức sinh viên Huế xuống đường đấu tranh vì hoà bình và độc lập của dân tộc.

http://danluan.org/node/3892

Tài liệu CS viết ca tụng tội ác của HPNP

Bức ảnh quý về khí phách sinh viên Huế 1975

09/01/2010 06:47:15

- Nhìn tấm ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường đứng dõng dạc kêu gọi đấu tranh đòi hoà bình, chống Thiệu - Kỳ ngay giữa đường phố Huế ban ngày, ta hình dung được phần nào sự “quyết tử”, sự “dấn thân” của một thế hệ trí thức sinh viên Huế.

Nhắc đến sinh viên Huế, không ai quên một thời “xuống đường” rực lửa đấu tranh đòi hoà bình, chống Mỹ, chống chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, chống chính quyền Thiệu - Kỳ, chống văn hoá ngoại lai với những tên tuổi lừng danh cho đến hôm nay như Trần Quang Long, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Trần Hữu Lục, Bửu Chỉ, Thái Ngọc San, Lê Văn Ngăn, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Phan Hữu Lượng, Trịnh Công Sơn, Nguỵ Ngữ, Đông Trình, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Trần Phá Nhạc, Bửu Chỉ...

Ảnh
Bức ảnh được nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ tìm thấy trong thùng đựng ảnh cũ của gia đình

Thế hệ sinh viên Huế ấy nhiều người bị tù đày, hy sinh oanh liệt trong chiến tranh, còn đa số họ hôm nay đã vào tuổi 65 - 73, trở thành những người trí thức văn nghệ sĩ tiếng tăm của đất nước. Phải nói rằng, đó là “thế hệ vàng” của Huế. Tôi rất cảm phục chí khí và tài năng của họ, đã đọc những tác phẩm của họ và viết chân dung văn học của rất nhiều người trong số họ. Nhưng mới đây, một bức ảnh đã làm tôi rất xúc động. Đó là bức ảnh chụp trực tiếp không khí hừng hực xuống đường đấu tranh ngày ấy…

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong một lần soạn lại sách vở tư liệu gia đình, đã phát hiện ra trong thùng đựng ảnh cũ của gia đình bức ảnh thầy giáo siêu hình học Trường Quốc Học Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường đang diễn thuyết trong một cuộc đấu tranh, với câu khẩu hiệu rất “ác chiến” sau lưng “CHÚNG TÔI THÁCH ĐỐ MỌI SỰ ĐÀN ÁP CỦA THIỆU - KỲ”.

Thấy bức ảnh giá trị, Mỹ Dạ bèn ra phố scan lại rồi phóng to treo đầu giường anh Tường nằm. Trong ảnh có rất nhiều sinh viên và “cán bộ phong trào” đứng cạnh anh Tường. Trong ảnh còn có một người mặc xê-vin trắng, thắt cà vạt đứng phía tay trái anh Tường, mắt nhìn xuống. Tôi hỏi anh Tường: "Người này là ai ?”

Tường bảo: "Đó là một vị đại diện bên Ty cảnh sát cử sang để “theo dõi” cuộc mít –tinh”. Mới hay, chính quyền Thừa Thiên Huế những ngày đó cũng rất ngại lực lượng sinh viên xuống đường, nên họ đã không ra tay đàn áp cuộc “xuống đường”, mà chỉ “theo dõi” !

Theo nhà thơ Trần Hữu Lục, thời kỳ đó có nhiều “tổ chức” sinh viên Huế độc lập với nhau xuống đường đấu tranh lắm. Ngô Kha cùng Trần Quang Long lập ra nhóm đấu tranh, gọi là “Nhóm thanh niên chống xa hoa phóng đãng” và “Quán bạn”, tham gia xuất bản tờ tin “lực lượng” kêu gọi tuổi trẻ đấu tranh, đòi hòa bình dân chủ.

Họ luôn bám trụ ở Trụ sở Tổng hội Sinh viên (22 Trương Định, Huế) để phát động đấu tranh. Họ xuất bản tập san “Tự quyết”, thành lập Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung do Ngô Kha làm chủ tịch, tổ chức triễn lãm tội ác của Mỹ tại Huế.

Có một nhóm sinh viên yêu nước khác gọi là NHÓM VIỆT, hoạt động công khai Những năm 1967, 1968, đang là sinh viên đại học, Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trịnh Công Sơn… đã ra tờ báo Thân Hữu ( ĐHSP Huế, 1967), Sinh viên Huế (1968) do Trần Hữu Lục làm chủ biên.

Nhóm Việt sau Mậu Thân 1968 vẫn hoạt động công khai bằng cách phối hợp làm trang văn nghệ cho tạp chí Đối Diện , luôn chủ trương tìm về nguồn cội dân tộc, chống lại khuynh hướng lai căng, vong bản. Đến năm 1975, Nhóm Việt mới giải tán.

Hoàng Phủ Ngọc Tường hăng hái làm chủ bút, phóng viên, biên tập viên của nhiều tờ báo như Dân (Tiếng nói đấu tranh của Trí thức Huế), Tiếng nói sinh viên, Việt Nam, Cứu lấy quê hương (Liên minh Huế).

Tất cả các nhóm sinh viên xuống đường đều do cách mạng chỉ đạo. Họ đấu tranh bằng thơ và bằng cả những đêm không ngủ: Tôi muốn hát cho cây cỏ nghe/ Lời giun dế khóc trong đêm lửa cháy...(Thái Ngọc San); Bị bắt vô tù, họ vẫn sục sôi: Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa ( Võ Quê)… Bị địch đàn áp, bắt bớ, bị lộ, nhiều trí thức sinh viên Huế đã “lên xanh” và trở thành những cây bút xuất sắc của cách mạng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao…

Nhìn tấm ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường đứng dõng dạc kêu gọi đấu tranh đòi hoà bình, chống Thiệu - Kỳ ngay giữa đường phố Huế ban ngày ta hình dung được phần nào sự “quyết tử”, sự “dấn thân” của một thế hệ trí thức sinh viên Huế xuống đường đấu tranh vì hoà bình và độc lập của dân tộc.

Ngô Minh


Tài liệu CS viết ca tụng tội ác của HPNP

Trần Văn Tích
thu 7282



Trách nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường


Năm 1882, khi Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai thì Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tận. Phụ tá cho Hoàng Diệu lúc bấy giờ là Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng. Quan Tuần vũ tuyệt thực, nhưng sẽ ngưng nhịn ăn khi Khâm sai Ðại thần Trần Ðình Túc mang lệnh vua Tự Ðức ra bảo chấm dứt tuyệt thực. Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng là cố nội của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan và cố ngoại của tôi. Theo liên hệ họ hàng thì tôi ở vai anh.

Nhưng tôi chỉ gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường có một hai lần ở Sài Gòn, còn Hoàng Phủ Ngọc Phan thì tôi chưa hề giáp mặt. Loạt bài viết và nhất là loạt ý kiến ngắn trên talawas liên quan đến vụ thảm sát do phía cộng sản chủ mưu vào dịp Tết Mậu Thân 1968 ở Huế hầu như thường xuyên nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua bài của tác giả Ngô Minh (talawas 04.03.08, "Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường"), tôi được biết thêm chi tiết mới là chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đọc lời hiệu triệu của “cách mạng“ vào dịp tấn công cố đô. Tôi liên tưởng đến tiếng hát bài “Nối vòng tay lớn" trên đài phát thanh Sài Gòn sáng hôm 30.04.75. Người nhạc sĩ quá cố chỉ đánh đàn và hát, nhưng tiếng đàn lời ca đã trở thành một tác nhân gây ác mộng cho rất nhiều người dân Sài Gòn, tôi tin chắc như thế. Phần cá nhân tôi, đến nay đêm ngủ vẫn thỉnh thoảng còn bị tiếng hát giọng ca đó trở về gây kinh hoàng khủng khiếp, lắm đêm vật vã tháo mồ hôi lạnh. Như vậy, lời hiệu triệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong vụ thảm sát Mậu Thân bắt buộc phải trở thành triệu chứng của chấn thương tâm thần Verfolgungswahn, Verfolgungsjagd (chứng kinh sợ bị theo dõi, bị tróc nã) của rất nhiều cư dân Huế sau Mậu Thân, ngay cả khi các đồng hương này đã thoát ách cộng sản. Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể phủ nhận vai trò tác nhân gây bệnh cho hàng ngàn, hàng vạn đồng hương của mình. Tất nhiên đây chỉ là một khía cạnh rất nhỏ bé trong vấn đề trách nhiệm to lớn của người con Quảng Trị nhưng đã được thành phố Huế cưu mang. Trên talawas, một số các cây bút khác đã đặt vấn đề cụ thể, thích đáng rồi.

Tôi muốn nói thêm về trách nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Phan. Khi thoát ly lên chiến khu, Hoàng Phủ Ngọc Phan đang học y khoa năm thứ năm. Sau Mậu Thân, tôi ra Huế giảng dạy cho Trường Y khoa. Mỗi khi có dịp ngồi nói chuyện cùng sinh viên, tôi nhiều lần được sinh viên trình bày ý kiến là Hoàng Phủ Ngọc Phan phạm tội giết thầy. Các vị thầy học nạn nhân được đề cập đến ở đây là bác sĩ Nguyễn Văn Ðệ và ba vị giáo sư y khoa do Ðại học Freiburg ở Ðức gửi sang phụ trách giảng dạy ở Huế. Anh Ðệ ra trường trước tôi ba bốn khoá, bị bộ đội cộng sản bắt mang lên chiến khu cùng với ông Nguyễn Văn Ðãi (gia đình tôi quen gọi là ông Trợ Ðãi) người Quảng Trị, lúc bấy giờ là Ðại biểu Chính phủ tại Trung phần Việt Nam. Trong hồi ký Ánh sáng và bóng tối dưới bút hiệu Hoàng Liên, ông Ðãi đã kể lại những ngày tù tội sống chung cùng bác sĩ Nguyễn Văn Ðệ. Bác sĩ Ðệ đã vĩnh viễn từ giã Huế sau Mậu Thân. Ba vị giáo sư người Ðức bị “bộ đội giải phóng“ thanh toán. Ðiều này cũng đã trở thành sự thực lịch sử. Tội giết thày càng rõ rệt hơn vì như ông Lê Văn Hảo cho biết, Hoàng Phủ Ngọc Phan có mặt tại trận tiền những ngày đầu năm Mậu Thân 1968. Tất nhiên nói như thế không hề có nghĩa là chính bản thân Hoàng Phủ Ngọc Phan đã cầm AK 47 xử tử các nhân viên giảng huấn y khoa Huế đồng hương và ngoại quốc.

Một khía cạnh trách nhiệm khác của hai anh em Tường - Phan là sự tàn phá các công sở của cố đô, cụ thể là sự phá hoại Trường Ðại học Y khoa Huế. Sau Mậu Thân, trường y Huế tưởng chừng không hồi sức được. Sinh viên được gửi vào Sài Gòn, và phải đi thực tập ở các quân y viện Sài Gòn. Tất nhiên trong những điều kiện giảng huấn như thế, việc trang bị kiến thức chuyên môn cho người bác sĩ tương lai phải bị ảnh hưởng. Và cũng vì tình trạng bi đát của Y khoa Huế sau Mậu Thân (Ðại học Freiburg đình chỉ việc gửi giáo sư qua giúp Huế, giáo sư cơ hữu bị bắt mang lên chiến khu) nên cá nhân tôi mặc dầu đang hết sức bận rộn với những công việc công tư ở Sài Gòn cũng đành phải nhận lời ra Huế tiếp sức với các đồng nghiệp địa phương, tuy rằng gia đình cực lực phản đối. Tôi nghĩ tôi có bổn phận đối với Huế.

Nhiều người trên talawas đã phân tích những hạn chế của tác giả Ngô Minh khi cố gắng trình bày về trách nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với cố đô Huế. Phần tôi chỉ thấy buồn khi được biết là Tường gia nhập Đảng Cộng sản vào thời điểm một số người khác trả lại thẻ đảng.

Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho lý tưởng để rồi trong tư cách là nhà văn, hai anh em đã được lãnh tụ chính trị công khai tuyên bố cởi trói. Tôi không rõ trong lịch sử nhân loại, có kẻ cầm quyền nào dám sử dụng ngôn ngữ ngạo mạn và khinh bạc như vậy đối với giới cầm bút hay không.

Nhiều khi tôi đã liên tưởng đến Simone de Beauvoir trong các hồi ký của bà khi nghĩ đến Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chấm dứt loạt hồi ký tự sự Mémoires d’une jeune fille rangée, La Force de l’âge La Force des choses, người bạn thân và bạn đời của Sartre viết ba chữ: J’ai été flouée (Tôi đã bị phỉnh).

Cố ngoại (của tôi) và cố nội (của Tường) có lẽ không thể ngờ được là mình có hai đứa chắt theo hai con đường đời đối nghịch. Trong khi Tường chống Mỹ cứu Huế thì tôi theo Mỹ giữ Huế. Trong khi Tường được Giải thưởng Nhà nước thì tôi nhận huy chương Army Commendation Medal của Washington. Tôi đã để mất Huế của tôi. Nhưng còn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan? Tôi được gia đình cho biết Hoàng Phủ Ngọc Tường không được khoẻ sau khi bị tổn thương xuất huyết sọ não và hiện sống ở Ðà Nẵng; còn Hoàng Phủ Ngọc Phan thì đang sống ở Sài Gòn, có một nhà in nhỏ ở đâu miệt Thủ Ðức. Tôi biết tội của tôi đã để mất Huế. Nhưng tôi cũng biết là Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ có thể nói với Huế như nhân vật nữ chính trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Xét mình công ít tội nhiều.

Westpreußenstr., 14.03.08

No comments: