Monday, July 27, 2009

PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VÀ CÔNG CỤ TUYÊN TRUYỀN.

PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VÀ CÔNG CỤ TUYÊN TRUYỀN.


TRƯƠNG MINH HÒA

Ngày 26 tháng 7 năm 2009, thi hài của binh nhì Ronalado, 22 tuổi, được vận chuyển bằng phương tiện hàng không quân sự, từ chiến trường A Phú Hãn trở về nước Úc, với nghi thức long trọng, quốc kỳ phủ áo quang tài, có cả dàn quân chào danh dự, có mặt cả vị tướng thay mặt quân đội, tổng trưởng quốc phòng và một số giới chức, thân nhân, ra tận phi trường để tỏ lòng kính trọng với một quân nhân, thuộc quân đội Hoàng Gia Úc, đã hy sinh trong công tác chống giặc khủng bố mà toàn thế giới đang phải đương đầu, được lưu tâm và nâng cấp thành Giặc, kể từ sau ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Được biết, vài ngày trước đó, sau khi được hung tin từ chiến trường gởi về, toàn nước Úc thương tiếc và những người có trách nhiệm như thủ tướng Kevin Rudd, thủ lãnh đối lập Malcom Turnbull, tổng trưởng quốc phòng Faulkner, tổng tham mưu trưởng là tướng không quân Angus Houston...xuất hiện trên toàn hệ thống truyền hình toàn quốc và tiếng nói của những nhân vật chóp bu trong chính quyền đã vang vang trên các đài phát thanh tư nhân, được hấu như các tờ báo lớn đăng tải tin tức. Trong quốc hội lưỡng viện, khi nhóm họp cũng có những lời chia buồn của các chánh khách đối với gia đình người chết. Sau cuộc chiến Việt Nam, quân đội Hoàng Gia Úc đã tham chiến tại Đông Timor, chiến trường A Phú Hãn và nhất là Iraq, dù có nhiều tranh cải, nhưng khi binh nhì Jack Kosco bị tử thương ( hình như là tai nạn cúp cò), cũng được chú ý từ chính phủ đến dân chúng và được đới xử trang trọng bằng lễ nghi quân cách, âu cũng là niềm an ủi đối với thân nhân.

Binh nhì Ronaldo là người quân nhân Úc thứ 11 hy sinh trên chiến trường A Phú Hãn xa xôi và được chính phủ, dư luận quần chúng tỏ lòng thương tiếc, kính trọng như một anh hùng và đương nhiên tên của anh được khắc ghi nơi những đài tưởng niệm, tồn tại mãi mãi. Sự kiện nầy, khiến nhiều cựu chiến binh Úc từng sang Việt Nam tham chiến trong lực lượng đồng minh, tuy nhiên vào thời điểm ấy cảm thấy bị phản bội đáng kinh tởm do một số kẻ" ăn cơm tự do, đội mo Cộng Sản"; lý do là sự hy sinh cao quí của họ cũng là" phục vụ cho đất nước" như hai cuộc thế chiến, chiến trường Triều Tiên.... nhưng đã bị công luận quay lưng, dù đây là cuộc chiến chống" KHỦNG BỐ" gần nhất đối với nước Úc, so sánh với A phú Hãn xa xôi như hiện nay. Ngày xưa, bọn khủng bố Việt Cộng rất nguy hiểm gắp trăm lần Al Qaeda, vì Việt Cộng được sự viện trợ vũ khí công khai, ào ạt từ khối Cộng Sản Quốc Tế, do Nga Tàu lãnh đạo, có cả bom nguyên tử, có đai diện tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc; trong khi Al Qaeda thì không có quốc gia nào dám chứa ngoài chính phủ Hồi giáo trị Taliban đã bị đánh đuổi khỉ A Phú Hãn năm 2001.

Cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa tự do tại miền Nam trước sự đánh phá, khủng bố của giặc Cộng, trong đó có cả việc bảo vệ quyền lợi và nền an ninh của nước Úc; nhưng bất hạnh là đã bị phong trào phản chiến khuynh tả xuyên tạc, mà hầu hết các phương tiện truyền thông ở nước Úc hay tại Hoa Kỳ, Âu Châu đều bị ảnh hưởng, bịt mắt bởi những kẻ" núp bóng yêu chuộng hòa bình, để binh vực Cộng Sản"; do đó, những cơ quan truyền thông tại các nước dân chủ biến thành công cụ tuyên truyền, đâm sau lưng những người xả thân trên chiến trường Việt Nam, ngăn chận làn sóng đỏ và đây là trận chiến chống khủng bố sớm nhất sau đệ nhị thế chiến.

Sau đệ nhất thế chiến, thế giới chán ghét cảnh chiến tranh, chết chóc, nên từ đó manh nha phong trào chống chiến tranh, hay còn được gọi là" phản chiến". Phong trào lớn mạnh dần, được nhiều người trên thế giới ủng hộ, nên vào năm 1933, đại hội đầu tiên được tổ chức tại Amsterdam, Hòa Lan và từ đó sức mạnh càng lớn; tuy nhiên, những người yêu chuộng hòa bình không thể ngăn cản được chế độ đệ tam Reich của nhà độc tài Hitler, nên đệ nhị thế chiến xảy ra từ năm 1939 đến 1945, làm hàng chục triệu người chết, tàn phá nhiều nhất ở chiến trường Âu Châu. Cuộc chiến tranh lạnh tiếp diễn, sau khi đế quốc Cộng Sản Liên Sô lớn mạnh nhờ lôi cuống nhiều nước nghèo, cựu thuộc địa và các nước Đông Âu. Bản chất hiếu chiến của người Cộng Sản bộc lộ qua câu nói chỉ đạo của Lenin:" Ngày nào ngọn cờ đỏ chưa phất phới trên toàn cầu, là ngày ấy người Cộng Sản không ngừng đấu tranh". Cho nên trong cuộc chiến tranh lạnh có một số điểm nóng như Việt Nam, Triều Tiên, Đài Loan, Đông và Tây Đức.... đe dọa nền an ninh thế giới, đưa các nước có cùng quyền lợi và nền an ninh chung vào thế đồng minh.

Đặc biệt cuộc chiến tại Việt Nam được coi là ác liệt nhất, với sự tham dự của nhiều nước đồng minh, dưới sự lãnh đạo của Hoa kỳ như: Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan và có cả một số chuyên viên Đài Loan...tuy nhiên, phong trào phản chiến bị thành phần khuynh tả do Cộng Sản giựt dây, đã lái mục tiêu cao đẹp của những người yêu chuộng hòa bình thành tiếp tay cho kẻ gây chiến là VC. Do đó, thành phần nầy thường tổ chức những cuộc biểu tình, có khi gây bạo động để tạo tiếng vang tại các thành phố các nước dân chủ và được các cơ quan truyền thông loan tải tin tức, gây thêm bất lợi cho miền Nam Việt Nam.
Trong khi đó, chẳng thấy những kẻ" yêu chuộng hòa bình" khôn nhà dại chợ nầy bày tỏ thái độ biểu tình để gây áp lực đòi Nga, Tàu phải ngưng viện trợ vũ khí cho Việt Cộng và yêu cầu Cộng Sản Bắc Việt ngưng ngay những đợt chuyển quân với nhiều sư đoàn vào nam qua đường mòn mang tên Hồ Chí Minh.

Phong trào phản chiến khuynh tả được sự hổ trợ của những nhà truyền thông ngây thơ, hợp cùng khuynh tả, các đảng cánh tả, tổ chức công đoàn... đã tung hỏa mù, đầu độc dân chúng bằng lối truyền thông sai lạc: thường tung những tin tức, bình luận bất lợi cho miền Nam và đồng minh; trái lại dấu nhẹm những tội ác của bọn khủng bố Việt Cộng, nên cuộc thảm sát hơn 4 ngàn dân Huế trong trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 ít được nhắc đến, ngày nay chìm trong quên lảng. Trong thời kỳ đó, những quân nhân Úc tham chiến tại Việt Nam bị xuyên tạc với những luận điệu là giết thường dân vô tội, nên khi họ hy sinh 507 nhân mạng, vẫn bị dư luận nguyền rủa, nên hơn 50 ngàn quân nhân từ Việt Nam trở về vào năm 1972, thường có mặc cảm, khiến nhiều người không dám đến sinh hoạt trong tổ chức R.S.L ( Returned Services League) tại các nơi trên toàn quốc.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do vì thảm họa Cộng Sản, đánh thức những người ngây thơ, khi nạn nhân sống bên cạnh họ, đem những kinh nghiệm xương máu về Cộng Sản, nên dư luận nhạt dần và danh dự người quân nhân Úc được phục hồi; sự kiện tập trung hàng chục ngàn quân nhân Úc tham chiến tại Việt Nam ở N.S.W vào năm 1989, có thủ tướng Úc ( Lao Động) đến tham dự là một diễn biến thuận lợi, nhằm đánh tan những hỏa mù mà thành phần phản chiến đầu độc dư luận trong suốt cuộc chiến Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, sau bao năm bị truyền thông huynh tả xuyên tạc và bị dân khinh miệt sau thời Jimmy Carter nhu nhược tiếp tục làm mất uy thế siêu cường qua vụ khủng hoảng con tin ở Iran; sang thời tổng thống Ronald Reagan, danh dự các chiến sĩ Hoa Kỳ được phục hồi và ngày nay tên của 58 ngàn quân nhân được dựng lên ở bức tường đá Hoa Cương đen.

Trong cuộc chiến Việt Nam, truyền thông đóng góp vai trò rất quan trọng tại các nước đồng minh và ngày tại Việt Nam. Một số kẻ núp bóng từ bi, là đám
tăng ni Ấn Quang (*) đã đem thông tin sai lạc đầu độc Phật tử, gây thù hằn giữa các tôn giáo, nhất là kích động thù Công Giáo để làm xáo trộn hậu phương miền Nam. Khai thác sự thiên vị của tổng thống Ngô Đình Diệm để xúi dục bạo loạn, vu khống đàn áp Phật Giáo một cách thô bỉ, nếu chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa đàn áp thì đám tăng ni Ấn Quang không thể ra khỏi chùa, chứ đừng nói là xuống đường biểu tình, tự thiêu...hình như các cơ quan an ninh thời tổng thống Ngô Đình Diệm đã biết Việt Cộng trà trộn, giả dạng tu hành, nằm trong một số chùa nên theo dõi, thế là đám Việt Cộng nằm vùng hay thành phần thân Cộng sợ bị bể nên mới vùng lên, kích động Phật Tử chống chính phủ, để tạo thành bức tường thành tôn giáo, vừa bảo vệ bọn nằm vùng đột lớp tăng sĩ trong chùa và làm suy yếu chính quyền. Thời Nguyễn Cao Kỳ, làm chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, ông vốn là" đứa con Phật" thì làm gì có đàn áp tôn giáo?.

Tuy nhiên tên Thích Trí Quang và đồng bọn lại gây ra cuộc bạo loạn 1966 ở miền Trung, lấy chiêu bào" pháp nạn", gây bao nghiệp báo, để rồi năm 1968, có màng thảm sát tại Huế. Tại hải ngoại, phát ngôn viên Ấn Quang là Thích Nhất Hạnh đã dùng truyền thông như CÔNG CỤ để phục vụ tối đa như CU-CỘNG, dùng diễn đàn tôn giáo để xuyên tạc, điển hình là cuốn" Hoa Sen Trong Biển Lửa" năm 1967, hắn cùng với cư sĩ Võ Văn Ái, hoạt động chống chính phủ miền Nam trong phong trào phản chiến tại Pháp và Âu Châu. Đó là những tay Goebbels Việt Nam, nói láo, nói láo lâu dần thành thật, đâm sau lưng chiến sĩ và nhân dân Việt Nam.

Sau 1975, nhiều kẻ giúp VC thành công bị vắt chanh bỏ vỏ, trong đó có dân oan khiếu kiện, Việt Cộng phục viên, đám tăng ni Ấn Quang....nên một thành viên Ấn Quang là huề thượng Thích Quảng Độ phản ứng. Cư sĩ Võ Văn Ái thay đổi thầy, sang phò Quảng Độ, vì tình hình có lợi hơn nhiều, nếu cứ ôm cứng" thầy" Nhất Hạnh là không ổn. Cư sĩ Võ Văn Ái đúng là một Goebels tái thế, lập cái phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới và cơ quan truyền thông" Quê Mẹ" để chuyên chở những tin tức, phần lớn là từ trong nước, thật giả chưa ai biết, phổ biến rộng rải về: Phật giáo trong nước bị đàn áp, huề thượng bị ngăn chận làm từ thiện, đi thăm viếng thầy Huyền Quang cũng bị chận, Thanh Minh Thiền Viện bị bao vây tứ bề ( mà tin vẫn gởi đều đều), đi gặp dân oan bị sách nhiễu,......thỉnh thoảng còn đưa cả hình ảnh lên, tung ra hải ngoại, được nhiều cơ quan truyền thông" chuyển vận" vì tin là nguồn tin có giá trị.

Thế nên Goebells Võ Văn Ái đã thành công trong việc đưa một người từng vào liên lạc với Việt Cộng trước 1975, thuộc khối Ân Quang, bị coi là" núp bóng từ bi, đâm sau lưng chiến sĩ" thành" nhà dân chủ" hay là" nhà đấu tranh" và nếu ai ngây thơ, Phật tử Tam Tạng thời đại, cũng dám coi là" thánh tăng"; thế là hải ngoại dành nhiều sự ủng hộ nhiệt thành về tinh thần lẫn tài chánh, nên giáo hội trong nước thu được nhiều ĐÔ LA, ngoài ra còn được vận động để lãnh giải Nobel nhưng hụt.

Tuy nhiên, sau thời gian dài hơn 3 thập niên trôi qua, thì cuộc đấu tranh cứ dậm chân tại chỗ, bổn cũ soạn lại:" hết bị bắt, lại bị sách nhiễu và bao vây chùa" như cảnh" Dân Tiên cõng mẹ trở ra, rồi đụng phải cái bồ, cõng mẹ trở vô". Ngay cả tranh chấp nội bộ giữa các tăng ni, cũng được Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới mang ra, trở thành phong trào quần chúng là vụ giáo chỉ số 9, thanh trừ các" đồng đạo tiếm danh" làm ăn khắm khá ở hải ngoại như bá tánh cùng dường và" kính tăng"; y như các cuộc tranh giành giữa các phe trong đảng Cộng Sản, được mang ra cho dân chúng" học tập" để phe thắng thế có quyền mạnh tay hơn.

Sau đó không lâu, vì nhu cầu" đoàn kết" để biểu dương lực lượng tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc về nhân quyền tại Geneve vào tháng 5 năm 2009, theo cách:" mượn đầu heo nấu cháo", vì cư sĩ Võ Văn Ái không có thực lực, nên qui tụ cả tiếm danh, băng đảng " Việt Tân", khiến nhiều người giựt mình về thái độ, lập trường thay đổi quá nhanh, ví như đơn vị Satna trong Phật Giáo, nên không còn tin nữa. Như cây kim dấu trong bọc lâu ngày, phải lòi ra, thì cái vụ" biểu tình tại gia" và" bất tuân dân sự" của huề thượng Quảng Độ là điều phi đấu tranh của một người được cho là" nhà đấu tranh" và cũng được Võ Văn Ái, cùng phòng thông tin, Quê Mẹ cổ động; dù sau đó không có chút gì tác động mà vẫn cho là thành công.... đây là điều khó thuyết phục với khối quần chúng hải ngoại, vốn trưởng thành về mặt nhận thức trong tinh thần" duy lý và thực dụng" lại nhiều kinh nghiệm, có nhiều phương tiện thông tin để kiểm chứng; như vậy, khi cư sĩ Võ Văn Ái cứ cho là" biểu tình tại gia, bất tuân dân sự, là thành công", thì phải cho biết thành công ở chỗ nào? Bao nhiêu ngàn người tham gia? Việt Cộng có rụng cọng lông chưn nào chưa? Nếu không, thì rõ ràng là cư sĩ Võ Văn Ái và Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới, Quê Mẹ... đã khinh thường người Việt hải ngoại, tức là họ muốn nói cái gì, mình cũng phải nghe theo, như trước đây Phật tử" vâng lời" Ôn Thích Trí Quang để gây bạo loạn, phá hoại an bình miền Nam vậy.

Có thể nói là Goebbels Võ Văn Ái và Ỷ Lan ( người phụ tá nước ngoài) đã thành công trong chiến dịch tuyên truyền, dựa vào" Phật Giáo" để gây lòng tin trong dân Việt tỵ nạn trong một thời gia khá dài, từ khi Quảng Độ, Huyền Quang, đến Tuệ Sĩ, Trí Siêu.... Qua câu chuyện nêu trên, bài học truyền thông rất quan trọng, khi mà" tư tưởng hướng dẫn hành động" nên những phương tiện truyền thông hay bị những kẻ xấu lợi dụng để thủ lợi và nhằm phục vụ cho thiểu số.

Truyền thông là phương tiện thông tin mọi mặt, từ tin tức, khoa học, quảnng cáo thương mại, tôn giáo....nhằm giúp cho đời sống con người biết được những gì cần thiết trong cuộc sống. Tuy nhiên, những kẻ xấu, chế độ độc tài, nhất là Cộng Sản, biến phương tiện truyền thông thành thứ công cụ tuyên truyền vô cùng lợi hại, nhằm phục vụ cho một thiều số cầm quyền, được áp dụng đa dạng như: đưa những tin tức có lợi cho chế độ, dựng đứng chuyện để triệt hạ những đối tượng mà họ nhắm vào, đầu độc tư tưởng quần chúng bằng những luận điệu láo khoát, quảng bá mặt mạnh và dấu nhẹm tất cả những tệ hại của chế độ, kích động hận thù, hù dọa.....trên nguyên tắc, tất cả các phương tiện truyền thông đều như nhau với các đài phát thanh, truyền hình, báo chí, rỉ tai, mạn đàm trong tuyên truyền xám, nhưng mục đích hoàn toàn khác nhau. Nổi bật trong việc biến phương tiện truyền thông thành công cụ là Goebells thời đệ tam Reich, Đức Quốc Xã, với cuộc tàn sát hơn 6 triệu người Do Thái và Lenin, người biến tà thuyết Lenin thành hiện thực, gây nên cái chết hơn 100 triệu người, ngày nay cái họa nầy vẫn còn tồn tại trên hành tinh nầy../.

Ghi Chú: (*) Người viết không dùng nhóm chữ" Phật Giáo Ấn Quang" mà dùng" Tăng Ni Ấn Quang" là vì Phật Giáo luôn chủ trương hướng thiện, cứu khổ cứu nạn, từ bi....chỉ có đám tăng ni xấu, núp bóng từ bi, lợi dụng hai chữ" Phật Giáo" của đám tăng ni có tên Ấn Quang là gây nên nghiệp báo, thảm họa cho đất nước. Phật Giáo không bao giờ làm ác, gây nghiệp báo, chỉ có những kẻ Tứ Diệu Tệ:" tham, gian, dâm, ác" mượn Phật để tạo tiền, gây thanh thế, mới là cái nhân gây nên bao thảm cảnh cho thế gian và đất nước./.

TRƯƠNG MINH HÒA
27.07.2009




No comments: