Monday, June 8, 2009

TIỂU DIÊN HỒNG và những MÀN HẬU DIỄN-Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

TIỂU DIÊN HỒNG và những MÀN HẬU DIỄN


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Thời phong kiến, thường khi chinh phục xong một phần đất mới, vua thường ban hành chiếu chỉ phủ dụ để bình định. Chỉ những kẻ còn cố tình chống lại mới bị trừng phạt. Đó là chính sách an dân của những nhà chính trị biết nhìn xa. Tại VN thời cộng sản, bọn xâm lược Hànội chiếm miền Nam xong, chúng làm ngược lại, bỏ tù và hành hạ không trừ một ai, kể cả những người đã buông súng đầu hàng. Việc CS săn đuổi những người mà chúng cho là thành phần chống đối vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Thậm chí những người đã bỏ nước ra đi cũng không ngừng bị săn đuổi và bị dùng đủ mọi phương cách để khuất phục. Điều khác biệt trước và hiện nay là về phương pháp. Ngày nay không thể cưỡng ép con người bằng dao găm mã tấu hay súng đạn được, thì VGCS áp dụng những cách thức lừa bịp mềm dẻo nhưng vô cùng gian manh và xảo quyệt thay thế. Chính sách áp chế bắt hàng phục trước sau vẫn là một. Nhìn vào cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại này chúng ta thấy rõ điều đó.

Thua Keo Này

Kế hoạch chiêu hàng của VGCS diễn ra dưới muôn hình vạn trạng. Thành công thì có đấy, nhưng là những chuyện lẻ tẻ. những kế hoạch này được che dậy dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng qui mô và tập trung hơn cả là chiêu bài mà người tỵ nạn chúng ta thường gọi là Hòa Hợp Hòa Giải (HHHG) thì hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên VGCS vẫn không ngừng tiến hành ý định của chúng, thua keo này bầy keo khác. Phải dầy dạn kinh nghiệm và tinh mắt lắm mới nhận ra được. Người viết xin nêu lên một thí dụ là cái kế hoạch Hội Nghị Bàn Tròn Tiểu Diên Hồng của Hoàng Minh Chính. Theo nhận định đầu tiên của người viết thì Tiểu Diên Hồng (TDH) đúng là kết quả vụng trộm của một cặp Chí Phèo, Thị Nở thời đại. Cái quái thai này được tượng hình từ một gốc gác như thế, vả lại, nó sanh bất phùng thời, cũng chẳng gặp thế, nên số phận long đong và chết yểu cũng chẳng lạ gì.


Giáo sư Hoàng Minh Chính & Bs Nguyễn Xuân Ngãi – Đảng Dân Chủ VN

Tháng 8 - 2005, Hoàng Minh Chính (HMC) sang Hoa Kỳ chữa bệnh ung thư Tiền Liệt Tuyến. Chính được bác sĩ thông tim Nguyễn Xuân Ngãi (NXN) bảo lãnh qua và bảo đảm phí tổn. Người ta cứ tưởng giữa Chính và Ngãi là những kẻ xa lạ, không quen biết nhau. Nhưng đột nhiên thấy sự liên hệ mật thiết quá mức bình thường giữa hai người và thấy công việc họ liên kết với nhau thì mọi người mới vỡ lẽ. Cái kết quả, như người ta thấy, là đứa con hoang TDH của HMC ra đời. Chính sang Hoa Kỳ tiếng là để chữa bệnh, thực ra là để cùng với NXN trình diện với bà con hải ngoại cái TDH mới là việc quan trọng. Như thế cho thấy HMC và NXN là những kẻ đã thai ngén ra cái TDH, và Ngãi, một bác sĩ chuyên môn thông tim, cũng còn là một bác sĩ đỡ đẻ nữa kia đấy.



Chuyên viên chính trị R. Silberstein, GS Trần Khuê, Kỹ sư Phương Nam và Mục sư Phạm Thanh Nhẫn:

GS. Trần Khuê, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại VN: Ông Seth D. Winnick và BS. Nguyễn Đan Quế.

gắn cờ đỏ sao vàng lên túi áo.



Trong kế hoạch bàn tròn TDH, Hoàng Minh Chính chỉ định 3 thành phần có quyền tham gia hội họp, một là phe trí thức hải ngoại do NXN đại diện, hai là phe trí thức trong nước có Trần Khuê thay mặt, và ba là người đại diện của đảng VGCS. Nhiệm vụ của cái TDH là bàn những vấn đề nó muốn bàn. Khi một vấn đề nào đó được cả 3 nhất chí thông qua thì sẽ được đưa lên cho nhà nước VGCS thi hành. Việc nhà nước CS có thi hành hay không thì lại là chuyện của nhà nước. Như đã thấy, về mặt nhân sự, TDH không những không đủ tư cách đại diện cho toàn thể mọi thành phần Dân Tộc, mà đảng VGCS còn chiếm tới những 2 ½ trên 3 đại diện trong đó nữa. Trong số hai người gọi là trí thức được HMC chỉ định thì Trần Khuê được coi là thành phần CS phản tỉnh, nhưng lại là một tên CS còn bảo hoàng hơn cả vua. Khuê tuyên bố đảng CSVN là một phần máu thịt của Dân Tộc và không thể để nó suy sụp. Khuê còn ca tụng Hồ là một ông thánh. Thánh Hồ đã có công khai sáng ra một nhà nước của nhân dân mà xưa nay chưa hề có (Đối Thoại năm 2000 của Trần Khuê). Quan trọng hơn cả là Trần Khuê khẳng định: “… vấn đề đảng CSVN là đảng cầm quyền là đương nhiên không cần đặt ra nữạ” (Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển - Trần Khuê). Như thế rõ ràng Trần Khuê là một tên CS đỏ lòm chứ phản tỉnh ở chỗ nào. Còn như NXN thì quá khứ đã là một tên phản chiến, tức là đứng về phía VGCS cướp nước. Hiện nay tuy sống giữa cộng đồng tỵ nạn nhưng Ngãi hành tung lại giống như một thứ ma trơi trong đêm tối. Với những thành phần như thế được quyền tham dự thì TDH chẳng qua cũng chỉ là một thứ Hội Đồng Chuột. Ẩn ý của HMC khi nêu sáng kiến này là kéo đại diện của người Việt tỵ nạn tại hải ngoại vào trong TDH để làm bình phong cho chiêu bài hòa hợp hòa giải (HHHG) của VGCS. Có mặt người tỵ nạn ngồi chung để bàn việc nước với VGCS là một hình thức HHHG. Rõ ràng là như thế. VGCS chỉ cần có thế để tuyên truyền. Người ta còn nhớ khi ra máy bay đi Mỹ, HMC đã xác nhận với nhà văn Hoàng Tiến (?) là chuyến đi có sứ mệnh. Vậy sứ mệnh này là gì nếu không phải là cái chiêu bài bịp hòa hợp hòa giải TDH? Ấy thế mà không thiếu chánh khứa bát nháo đủ cỡ tại hải ngoại vẫn say sưa ca tụng HMC là một nhà đấu tranh cho dân chủ. Khi HMC chết bọn này còn lập bàn thờ hương án khóc xướt mướt quì lậy trước di ảnh của Chính. Cũng một câu nói cũ kỹ ấy: đất nước được lãnh đạo bởi bọn này không mất mới là lạ. Và, cộng đồng tỵ nạn do bọn này hướng dẫn không tan nát mới là chuyện tề thiên.



Nhà văn Hoàng Tiến và Nguyễn Khắc Toàn đang thảo luận về việc soạn thảo, ra đời báo "Tự Do Dân Chủ" ngày 8-8-2006.

Xin nhắc qua về cái tên Diên Hồng để giúp bạn đọc nhận định cho đúng vấn đề.

Diên Hồng là một trong những cung điện nhà vua triều Trần dùng để vua thiết đãi yến tiệc. Tháng chạp năm Giáp Thân (1284), biết rõ ý đồ xâm lược nước ta của quân Mông Cổ phía Bắc, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tôn cho triệu các bô lão toàn quốc vào điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý xem nên Hòa hay nên Chiến, đồng thời để tham mưu diệt địch. Toàn thể các bô lão đều một lòng quyết chiến. Triều đình như thế về mặt tâm lý đã vững bụng để đánh giặc. Cũng nên biết rằng, ngay từ cuối năm 1282, ý đồ xâm lược của Mông Cổ đã để lộ, không phải lần đầu tiên, mà là lần thứ hai xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tôn đã bí mật triệu tập các vương hầu và bá quan văn võ bên bờ sông Bình Than (Bắc Ninh ngày nay) để thăm dò ý kiến và thảo hoạch phương sách chống giặc. Như vậy cả hai hội nghị đều mang tính chất đại diện rộng rãi. Hội nghị Bình Than là cuộc họp các nhà chiến lược và hội nghị Diên Hồng gồm đại diện quảng đại quần chúng. Bởi cuộc chiến chống xâm lược được sự nhất chí trong toàn dân như thế nên nhà Trần đã thắng quân Nguyên một cách hết sức vẻ vang.

Cần nêu lên để làm sáng tỏ 2 khía cạnh rất đặc biệt của Hội Nghị Diên Hồng là sự bình đẳng (bất phân giai cấp và thành phần) và tính dân chủ của nó. Thật vậy, nói đến hội Nghị Diên Hồng trước hết là phải nói đến tư cách đại diện của những người tham dự nó. Họ đều là những bô lão. Theo phong tục, tập quán, văn hóa, và lễ giáo VN thì những người già cả là những người được trọng vọng nhất trong xã hội. Các cụ thay mặt và có tiếng nói quyết định trong gia đình, trong giòng tộc, trong làng nước, và ngoài xã hội. Như thế, hội nghị Diên Hồng qui tụ các bô lão đại diện là đủ mặt mọi thành phần dân tộc không phân biệt sang hèn, giầu nghèo, quí tộc hay lê dân. Đây có lẽ là lần thứ nhất quyền bình đẳng chính trị được thể hiện ở nước ta. Thứ hai là phải nói đến tính dân chủ của nó. Trong một chế độ phong kiến thì ông vua có quyền tuyệt đối về mọi mặt. Quyền đó gói ghém trong câu “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Việc Thượng Hoàng Trần Thánh Tôn triệu tập người dân để bàn việc nước và để cho người dân có quyền quyết định việc sinh tử của quốc gia là chuyện từ cổ chí kim trên thế giới không hề có, mặc dầu lúc đó nước ta đang là thời kỳ phong kiến. So với hai đặc tính trên của hội nghị Diên Hồng, cái quái thai cũng được đặt tên là Diên Hồng của HMC phải coi là một sự sỉ nhục lịch sử của dân Tộc. Nó đã chẳng làm nên trò trống gì, lại được NXN và Trần Khuê đại diện. Bọn này chẳng đại diện cho ai ngoại trừ CS và những kẻ theo CS. Từ đó mới thấy là cái TDH của HMC chỉ là một trò bịp HHHG không hơn không kém. Mà thật như thế, xét từ căn nguyên cội rễ thì làm gì có chuyện gọi là HHHG với VGCS được. Đối với CS, có thể có hòa hợp nhưng không thể nào có hòa giải. Từ bản chất và cho đến đời đời kiếp kiếp, CS là một thứ duy ngã độc tôn, nó bắt người ta theo nó chứ nó không bao giờ theo ai. Ngay đến CS với CS, chúng cũng không thể HHHG với nhau được thì làm sao HHHG đưọc với người ngoài. Stalin và Trotsky là một thí dụ lịch sử. Còn nhiều, nhiều lắm, nhưng bấy nhiêu thôi tưởng cũng đã quá đủ để nhớ suốt đời rồi. Rất may và cũng là nhờ phúc đức Tổ Tiên và sự phò hộ của các đấng Anh Hùng Liệt Nữ, đồng bào tỵ nạn chúng ta đã phá vỡ được cái âm mưu vô cùng thâm độc này của HMC.

Bầy Keo Khác hay những Màn Hậu Diễn

Bọn VGCS vẫn chưa chịu nhìn nhận thất bại. Thua keo này chúng lai đang bầy ra nhiều keo khác. Các keo khác đây tôi gọi là những đứa em song sanh của cái trò TDH của HMC, vì nội dung của kế hoạch vẫn là mưu đồ thôn tính và thống trị người tỵ nạn tại hải ngoại. Các đứa em song sanh của cái TDH ra đời lúc này do cùng một nguyên nhân: vấn đề Bauxite tại Tây nguyên.

“Giặc đến nhà đàn bà phải đánh” là câu châm ngôn thuộc lòng của mọi người dân Việt. Khi vấn đề Bauxite nổ ra, người VN trong và ngoài nước mới thực sự thấy giặc Tầu cộng xâm lược nước ta. Chúng chiếm các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngoài biển của nước ta, người dân trong nước thiếu thông tin nên ít biết. Nhưng đến khi giặc Tầu CS ngang nhiên đưa công nhân và cơ giới sang khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên chẳng cần đấu thầu, chẳng cần hợp đồng thì người dân trong nước mới thấy rõ. Trước tình trạng quốc biến, con dân Việt Nam , rất nhiều người lên tiếng kêu gọi chống giặc. Có người còn đưa ra kế sách áp dụng. Điều làm mọi người rất đỗi kinh ngạc là trong lúc mọi người dân sôi sục căm thù và nuôi chí chiến đấu thì đảng và nhà nước VGCS lại cứ bình chân như vại. Họ vẫn coi giặc Tầu là bạn và để kẻ thù lấn lướt chủ quyền quốc gia như một việc đương nhiên. Hơn thế nữa, VGCS còn bằng nhiều phương pháp ngăn chặn người dân trong nước bầy tỏ lòng yêu nước của họ. Rõ ràng và công khai là bọn VGCS đang đứng về phía kẻ thù của đất nước. Như vậy là người Việt chúng ta hiện có hai kẻ thù cùng một lúc: VGCS và bọn Tầu cộng. Phải chống ai đây, chống cả hai cùng một lúc, hay hợp tác với VGCS để chống Tầu? Đây là vấn đề đang làm chia rẽ cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Và đây cũng là dịp để VGCS trương bẫy HHHG của chúng hòng bịp cộng đồng ta. Xu hướng thứ hai tức hợp tác với VGCS để chống Tầu có hai tiếng nói gây sôi nổi. Một là của bà bác sĩ Nguyễn Thị Thanh, và hai là của hòa thượng Thích Quảng Độ.

1. BS Nguyễn Thị Thanh - Bà BS Thanh mới xuất hiện trên lưới không bao lâu nhưng lại rất ồn ào và rất mau chóng trở thành nổi tiếng. Bà là một bác sĩ y khoa nhưng cũng tỏ ra là người có kiến thức về nhiều lãnh vực khác. Đặc biệt là BS Thanh tự biểu dương mình là một người công giáo đạo hạnh, đồng thời cũng là một người VN yêu nước chí tình. Với một số bạn bè cũng là công giáo của người viết (Hà Tiến Nhất), BS Thanh đã có những cuộc đụng độ nẩy lửa về các vấn đề đạo trên internet, nhưng người viết không xen vào vì học được câu rằng “đạo khả đạo phi thường đạo”, nên tránh xa ra là hơn. Về lập trường chính trị, bạn đọc trên internet hẳn còn nhớ bà BS Thanh đã công khai tuyên bố, đại khái là bà chỉ chống cộng trước ngày 30-4-75. Sau ngày này bà không còn chống cộng sản nữa vì luật Bác ái buộc phải thương yêu kẻ thù. Sau khi Trung Cộng vào khai thác bauxite tại Cao Nguyên, bà BS Thanh đưa ra một lời kêu gọi trên internet thành lập một phái đoàn người tỵ nạn về trong nước thương thuyết với VGCS để tìm cách cứu nguy đất nước. BS Thanh có gởi e-mail mời người viết tham gia vào phái đoàn, nhưng tôi gián tiếp từ chối bằng cách trì hoãn trả lời. Viết bài này một phần tôi có ý bầy tỏ cảm nghĩ của mình về sáng kiến của bà BS Thanh, và cũng là để gián tiếp trả lời cho bà.

Cứ tạm tin là do động cơ yêu nước thúc đẩy, bà BS Thanh đưa ra sáng kiến lập phái đoàn về Hànội thương thuyết cứu nước, nhưng việc làm của bà xét về nhiều mặt chỉ có thể đánh giá là tào lao, không tưởng, và cuối cùng là làm lợi cho CS.

1.1 - Tào Lao - BS Thanh không có tư cách gì để triệu tập một phái đoàn thương thuyết với VGCS. Trong danh sách phổ biến công khai, bà kể tên rất nhiều người mà xét về lập trường chính trị, họ chống nhau như nước và lửa. Có người hỏi tôi, tôi biện hộ cho bà là BS Thanh có ý mời bao gồm đủ mọi xu hướng chính trị để có đủ tư thế hầu nói chuyện với VC. Tôi nói là nói vậy thôi chứ thực ra trong lòng tôi đã cho chuyện này là tào lao và không tưởng rồi. Bà dùng chữ “thương thuyết” để nói đến nhiệm vụ của phái đoàn cũng là điều không ổn. Hai hoặc nhiều bên họp bàn để thống nhất với nhau về một vấn đề bất đồng hay tranh chấp thì gọi là thương thuyết. Chống quân Tầu xâm lược là chuyện khẳng định và dứt khoát chứ còn gì nữa mà phải thương thuyết. VGCS không chống thì thôi kệ xác nó chứ việc gì phải thương thuyết với nó. VGCS đã rắp tâm bán nước cho Tầu để giữ đảng rồi thì việc thương thuyết với chúng để đánh Tầu không là chuyện ruồi bu và trái khoáy lắm sao?

1.2 - Không Tưởng - CS là thứ chỉ có thể nói chuyện bằng cùi chõ chứ không thể nói bằng cái miệng được.Trên thế gian này cho đến bây giờ còn ai tin rằng có thể nói chuyện đàng hoàng với CS? Nếu còn thì chỉ có hai loại người này, một là hạng tiên thiên đã sẵn sàng chấp nhận chịu thua trong cuộc thương thuyết rồi, như Kissinger chẳng hạn, và hai là hạng người có đầu óc không tưởng. Tôi nghĩ rằng bà BS Thanh thuộc loại sau này. Cứ nhìn vào cuộc thuơng thuyết giữa 6 nước trong đó có Mỹ và CS Bắc Hàn thì thấy rõ.

1.3 - Và cuối cùng đây là một vấn đề phụ nhưng lại rất quan trọng. BS Thanh và nhiều người trưng dẫn Thánh Kinh ra để khích bác nhau. Thuộc Kinh Thánh là một điều tốt, nhưng hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh mới là điều quan trọng. Có mấy ai hiểu câu Kinh Thánh sau đây, Chúa nói: “Người giầu có vào nước Thiên đàng khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Hầu như ai cũng giải thích đơn giản rằng: khó thật đấy nhưng Thiên Chúa quyền năng vô cùng chuyện gì Ngài cũng làm được. Lối lý sự đó tôi cho là lý sự cùn. Không mấy người biết rằng thành Jerusalem xưa có nhiều cửa ra vào. Có cửa dành cho các tư tế, cửa dành cho người thường, và cửa dành cho súc vật (hoặc chở đồ, hoặc đem con vật đến giết để tế lễ) gọi là Lỗ Kim. Cửa Lỗ Kim dành cho súc vật tương đối nhỏ, dê cừu vào tương đối dễ, nhưng lạc đà vô thì chẳng dễ chút nào vì lạc đà to xác quá. Người ta đưa lạc đà vô Đền Thánh là để chở đồ. Con lạc đà một mình đi qua cái Lỗ Kim đã khó, nó chở đồ cồng kềnh mà đi qua thì dứt khoát không thể nào. Vậy muốn dẫn con lạc đà chui qua Lỗ Kim, người ta phải bỏ hành lý trên lưng lạc đà xuống, để lại bên ngoài cửa rồi mới dắt nó qua được. Xong rồi người dắt lại phải trở ra lấy đồ đạc chất trở lại trên lưng lạc đà. Chúa lấy một thí dụ để dậy con người cách vào Thiên Đàng, nghĩa đen rất cụ thể, nhưng hầu như ai cũng chỉ hiểu nghĩa bóng và giải thích một cách à priori. Đưa ra thí dụ này tôi chỉ có ý nói người công giáo đọc Kinh Thánh, nên hiểu Kinh Thánh đã, rồi mới nói Kinh Thánh để những anh chị em ngoài công giáo họ hiểu và không chê cười chúng ta là những anh mù xem voi.

BS Thanh nói rằng bà không chống cộng nữa vì giáo lý Bác ái dậy phải thương yêu kẻ thù. Kẻ thù ở đây là CS. Vâng, bà chống cộng hay không chống cộng là quyền của bà nhưng bà hiểu giáo lý Bác ái như thế thì e rằng quá một chiều. Đức Gioan Phaolo II nói con người là một động vật xã hội. Ý Ngài nói con người không thể sống lẻ loi cô đơn mà phải luôn luôn hợp quần để sống và phát triển. Đặc thù này gọi là tính liên-đới xã hội. Công Đồng Vatican II chú trọng đặc biệt đến yếu tố liên đới trong đời sống xã hội và còn nâng nó lên thành một đức tính. Luật yêu thương và tình liên đới nói đúng ra là hai mặt của đức bác ái. Ai xúc phạm đến cá nhân tôi, làm thiệt hai cho tôi, tôi tha thứ, và vì bác ái tôi không buộc phải đền trả thiệt hại, cho dù người đó là kẻ đã làm hại đến tôi. Đó là yêu thương tha nhân. Thánh nữ Maria Goretti trong khi nằm nhà thương trước khi chết không những tha thứ mà còn luôn cầu nguyện cho chàng thanh niên Alexander là kẻ đã toan tính hãm hiếp và giết bà. Nhưng có kẻ xúc phạm đến một người khác, tôi không có quyền thay mặt cho người đó để tha thứ được. Nếu đối tượng bị xúc phạm là một tập thể bị thiệt hại tinh thần hay vật chất, thì tôi có trách nhiệm phải tích cực tham gia vào việc đòi lại công bằng và công lý cho họ. Đó là tính liên đới xã hội. Chúa Giêsu chịu chết để tha và chuộc tội cho con người xúc phạm đến Ngài, nhưng Ngài lên án bọn tư tế và luật sĩ lúc đó đang làm băng hoại xã hội Do Thái. Tính liên đới xã hội này được biểu lộ không thể phủ nhận ngay trong giới giang hồ chẳng biết giáo lý công giáo là gì trong câu tâm tình rất bình dân của họ: Có phước cùng chia, có nạn cùng chịu.

VGCS gây bao nhiêu đau thương tang tóc cho đất nước như thế nào rồi, hẳn BS Thanh đã biết rõ. Người công giáo còn là người công dân. Trách nhiệm và bổn phận công dân cũng như luật liên đới xã hội buộc người công giáo phải tranh đấu đòi hỏi VGCS phải trả lại dân quyền, công bằng và công lý cho đất nước. BS Thanh nói rằng bà không chống cộng nữa vì luật bác ái buộc phải thương yêu kẻ thù tức là bà đã chẳng hiểu giáo lý gì cả. Cũng khó trách bà được vì cả đến linh mục cũng có nhiều ông rao giảng đức bác ái, phải yêu thương kẻ thù, nhưng họ lại không giảng cho giáo dân về tính liên đới xã hội của luật bác ái. Giảng như thế mới là giảng có một mặt, tức một nửa Phúc Âm. Mà một nửa Phúc Âm chưa phải là Phúc Âm. Lối giảng dậy như thế có thể vì không thấu triệt Phúc Âm, cũng có thể vì một lý do thầm kín nào đó mà người giảng muốn che dấu. Một điều dễ nhận ra là do lối rao giảng Phúc Âm bán phần như thế nên nhận thức về trách nhiệm công dân của một số khá đông tín hữu công giáo VN rất phiến diện và lệch lạc. Đứng trước các thảm trạng của đất nước phần đông giáo dân đã ngoảnh mặt làm ngơ, hoặc mũ ni che tai với ý nghĩ được coi là khôn ngoan và thức thời: giữ đạo thôi, chính chị chính em lôi thôi lắm.

Bà BS Thanh đã không thành công trong nỗ lực lập phái đoàn thương thuyết của bà. Sau đó bà còn tung ra nhiều bản hiệu triệu cũng với tinh thần này nhưng xem ra cũng không được hưởng ứng. Bà đã không nhìn ra sự thất bại của mình là do đâu. Sự nhiệt tâm và bền chí của bà là điều đáng khen. Tính lì đòn của bà còn đáng khen hơn. Mặc dù thấy bà đã công khai tuyên bố không còn chống cộng nữa, người viết cũng không giám nói bà là CS hay tay sai CS, nhưng khẳng định rằng bà đang làm những công việc mà VGCS muốn làm. Việc làm của bà là một chiêu bài nằm trong âm mưu HHHG của VGCS.

2. Hòa Thượng Thích Quảng Độ - Tôi rất vui mừng nhưng lại cảm thấy ngỡ ngàng sau khi đọc hết Lời Kêu Gọi ngày 29-3 của Hòa Thượng Thích Quảng Độ ngài viết nhân biến cố Bauxite tại Tây Nguyên. Toàn thể, đọc không phân tích, thì đó là một bản văn tương đối hùng biện về văn phong, xúc tích về nội dung. Nó là một tuyên ngôn cảnh giác về một nạn mất nước đang gần kề, và thống thiết kêu gọi toàn dân quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Thế nhưng đáng tiếc, trong Lời Kêu Gọi lại có đoạn viết: “Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên” (hết trích). Lời yêu cầu này làm nẩy sinh ra hai quan ngại. Thứ nhất, làm cho cuộc tranh đấu của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất (GHPGVNTN) trở thành tự mâu thuẫn, và thứ hai là sự nghi ngờ về một ẩn ý Giáo Hội muốn HHHG với CS.

2.1 - Tự Mâu Thuẫn - Nói đến HT Quảng Độ là nói đến GHPGVNTN hay còn gọi là khối Phật Giáo Ấn Quang. HT Quảng Độ là một trong những nhân vật nòng cốt của GH Ấn Quang từ khi GH Ấn Quang mới hình thành. Năm 1981, cuộc vận động thống nhất Phật Giáo toàn quốc thất bại, Phần lớn các chức sắc cao cấp của Ấn Quang như các Hòa Thượng, Thượng Tọa Đức Nhuận, Đôn Hậu, Trí Thủ, Trí Tịnh chạy theo phe Quốc Doanh. Còn lại một số khác như các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ v.v. vẫn ở lại trong khối Ấn Quang. Từ đó Ấn Quang ra mặt công khai chống đối bọn VGCS Hànội. Trong quá trình đấu tranh với bọn Việt gian cầm quyền tại Hànội, về nội dung tranh đấu, dư luận coi như GH Ấn Quang không còn thừa nhận tính cách hợp pháp của nhà nước CS nữa. Nay HT Quảng Độ lại yêu cầu nhà cầm quyền VN khẩn cấp triệu tập một Đại Hội Đại Biểu Toàn Dân. Với lời yêu cầu này chẳng khác nào GH Ấn Quang có ý trao cho VGCS tư cách chính thức triệu tập một loại quốc dân đại hội. VGCS có quyền chủ trì và điều khiển đại hội như một người cầm quyền hợp pháp. Việc này đồng nghĩa với việc GH Ấn Quang mặc nhiên thừa nhận sự hợp pháp quyền cai trị đất nước của bọn VGCS. Và từ đó suy ra, HT Quảng Độ nhân cơ hội Bauxite tìm cách đưa các thành phần ưu tú của Dân Tộc vào trong cái thòng lọng HHHG của VGCS. Như thế có khác nào GH Ấn Quang, qua HT Quảng Độ, hoặc đã từ bỏ con đường đấu tranh của mình, hoặc đang tự mâu thuẫn với chính mình.

2.2. - Hòa hợp hòa giải - Cũng phát xuất từ lời kêu gọi của HT Thích Quảng Độ, người ta có thể nghi ngờ đây là cái bẫy HHHG của VGCS. Khó có thể xác định, nhưng nếu muốn hiểu được phần nào thì chúng ta không thể không trở về với quá khứ đấu tranh của GHPG Ấn Quang.

- Năm 1963, GH Ấn Quang tranh đấu triệt hạ cho bằng được chính quyền Đệ I VNCH. Bảo rằng nhiều phần tử trong chính quyền thời đó để lấy lòng TT Diệm đã thiên vị cho Công Giáo thì có. Nhưng nói rằng chính phủ Ngô đình Diệm bách hại Phật Giáo thì không. Thực tế và ngay cả Báo cáo của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc cũng xác nhận là không. Chính quyền Ngô đình Diệm chống cộng thì đã rõ ràng, ai cũng thấy. Thế nhưng GHPG Ấn Quang phải nhất quyết triệt hạ cho bằng được chính quyền này đã là điều hiển nhiên.

- Năm 1966, GHPG Ấn Quang cũng nhất quyết muốn triệt hạ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ nên đã phải dùng đến hạ sách đưa bàn thờ Phật xuống đường. Mặc dầu ông Kỳ chẳng làm thiệt hại gì đến Phật Giáo, và hơn nữa, Kỳ vốn là một người con của Phật (The Boudha’s child) như chính ông đã viết sách tự nhận, thế mà GH Ấn Quang cũng nhất quyết đòi triệt hạ ông Kỳ, nhưng rất tiếc đã thất bại. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ vào thời điểm đó đang là một chính quyền chống cộng.

- Ngày 30-4-1975 khi quân CS miền Bắc vào Saigon thì các sư sãi và sinh viên đại học Vạn Hạnh của PG Ấn Quang kéo nhau xuống tận ngã tư Bẩy Hiền để đón rước đoàn quân xâm lược của CS. Sau đó, ngày 19-5, Khối PG Ấn Quang tổ chức meeting trọng thể để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang đường Sư Vạn Hạnh Saigon. Nhiều nơi khác tại miền Trung vào thời điểm đó cũng diễn ra những hoạt động tương tự của Ấn Quang.

- Ông Dương Văn Minh vì là người của Ấn Quang được Thích Trí Quang đưa lên làm tổng thống với mục đích bắt tay HHHG vói CS qua một cơ chế gọi là chính phủ ba thành phần, thế nên PG Ấn Quang không những không chống mà còn ủng hộ hết mình. Nhưng rất tiếc, tên tướng hèn và bất tài này đã để mất miền Nam vào tay bọn CS miền Bắc xâm lược. Nhiều vị sư Ấn Quang công khai bầy tỏ sự hoan nghênh hành động hàng giặc của Dương Văn Minh.

Những chuyện nêu trên đều là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận. Các sự kiên này đưa đến hai nhận định sau: thứ nhất, Khối PG Ấn Quang rất thân thiện với cộng sản và cũng rất hân hoan khi thấy bọn xâm lược miền Bắc chiếm được miền Nam . Và thứ hai, Khối PG Ấn Quang chống triệt để các chính quyền VNCH không chủ trương liên hiệp với CS. Chỉ bằng đấy thôi đủ đưa đến kết luận là PG Ấn Quang không hề chống cộng mà chỉ chống những chính quyền nào không thỏa mãn những yêu sách của các nhà sư Ấn Quang. Nói cách khác là không làm theo Ấn Quang mà thôi. Kết luận này cho thấy chuyện PG Ấn Quang khi chống, khi không chống CS chỉ là một màn khói có tác dụng che khuất mối liên hệ chính trị bất bình thường bên trong giữa CS và PG Ấn Quang. Nói đến chính trị là phải nói đến chuyện thương lương, trả giá qua lại và đổi chác. Câu hỏi cần đặt ra là nếu VGCS trả giá đúng những đòi hỏi của GH Ấn Quang thì liệu HT Quảng Độ có còn chống cộng nữa không? Như thế thì việc HT Quảng Độ có “vô tình” kêu gọi VGCS Hànội triệu tập đại hội đại biểu toàn dân gì đó thì cũng chẳng có gì là khó hiểu. Nhất là trong lúc này, người ta thấy Khối PG Ấn Quang mỗi ngày mỗi rã đám dần, Từ Tuệ Sĩ đến Trí Siêu (Mạnh Thát), rồi Già Lam, Về Nguồn v.v. đã đi theo quốc doanh.

Kết Luận

Lịch sử dân tộc cho thấy trong bất cứ cuộc chống ngoại xâm nào, yếu tố chính để thành công là đoàn kết. Hiện nay muốn có đoàn kết để chống giặc, điều tiên quyết là cần phải đánh tan những bất hòa giữa các thành phần dân tộc trước đã. Trong nhiều bài viết trước, chúng tôi đã khẳng định không có việc bất hòa giữa các thành phần dân tộc VN, mà chỉ có xung đột ý thức và quyền lợi giữa nhân dân VN và đảng CSVN mà thôi. Cá nhân hay tập thể nào muốn làm trung gian thực hiện việc hòa giải để chống xâm lược cũng đều tốt, nhưng cũng nên biết rằng hòa giải tuyệt đối không có nghĩa là đầu hàng. Chính CS đã cố tình chia rẽ các thành phần dân tộc để dễ thống trị. Việc hòa giải không phải là khó nếu các phe xung đột giải quyết vấn đề trên căn bản tình cảm và quyền lợi của dân tộc. Phải nhìn nhận rằng từ trước đến nay, hai chữ Dân Tộc bị lạm dụng quá nhiều, và thường còn bị độc quyền chiếm dụng. VGCS vốn là một lũ bán nước nhưng lại mặc vào cái áo Dân Tộc sặc sỡ hơn ai hết, làm như chỉ có chúng mới là dân tộc. Vì thế chúng mới đưa ra cái luật “yêu nước (Dân Tộc) là yêu chủ nghĩa xã hội”. Thiếu gì người đã bị bỏ mạng hoặc tù tội vì yêu nuớc mà không yêu CS. PG Ấn Quang cũng không kém, họ luôn đồng hóa Phật Giáo với Dân Tộc, làm như ngoài Phật Giáo ra không còn ai là dân tộc cả. Họ đánh phá các chế độ VNCH với chiêu bài cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Chống phá những chính quyền chống cộng mà nói là cứu nguy Dân Tộc thì thật là có trời hiểu. Chữ Dân Tộc trong thời CS cũng đã trở thành lá bùa hộ mạng của Công Giáo. CS vào, Hội Đồng Giám Mục VN đã phải tức tốc khoác vào cái áo “dân tộc” để che mưa che gió: đồng hành cùng Dân Tộc, sống Phúc Âm trong lòng Dân Tộc. Thế nhưng xin hỏi có phải tất cả ai cũng hiểu khái niệm và định nghĩa hai chữ Dân Tộc đúng với chính cái nó là không? Đấy là vấn đề. Giải quyết được vấn đề này là giải quyết được mọi chuyện. Bất cứ kẻ nào lợi dụng thời cơ trương chiêu bài hòa giải để chống giặc nhưng lại ẩn ý chiêu hàng cho VGCS chắc chắn sẽ thất bại. Vở tuồng “hồn Trương Ba da hàng thịt” không còn ăn khách nữa đâu. Xin nhắc để biết.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất




No comments: