TƯƠNG QUAN NHÂN- QUẢ TRONG " BIỂU TÌNH TẠI GIA".
TRƯƠNG MINH HÒA
Ở đời, cái gì cũng có lý do, từ việc thiện đến gian ác... người bình dân gọi là:" có lửa mới có khói", đối với những người theo đạo Phật có luật nhân-quả. Do đó, lời kêu gọi của huề thượng Thích Quảng Độ ngày 29 tháng 3 năm 2009 về cái gọi là:" bất tuân dân sự và biểu tình tại gia" hẳn có có nguyên do. Đối với trường hợp nầy, ắt hẳn cũng có mối quan hệ nhân-quả sâu xa, vì trong thời gian dài, kể từ ngày huề thượng" Thích Để Râu" trở thành nhân vật nổi tiếng chống đảng Cộng Sản Việt Nam ở hải ngoại, tuy nhiên ông là người sống ở trong nước, thế mà dân không biết nhiều, đó là điều nghịch lý và bất lợi trong cuộc giải trừ quốc nạn cùng pháp nạn cho dân tộc, đạo pháp; điểm cần lưu ý là trước đây, huề thượng vốn nhà ĐẤU TRANH trong khối Phật Giáo Ấn Quang, mà các cuộc gây rối thường được ngụy trang dưới chiêu bài" pháp nạn" nhằm làm suy yếu chính quyền dân chủ miền Nam, đóng góp công lao với quỷ đỏ vô thần; nhưng sau 1975 bị thất sủng nên khó TRÁNH ĐÂU bị đảng cho ra rìa như du kích, cán ngố và những người góp công tạo chiến thắng cho Việt Cộng, nên sau đó trở thành nhà ĐẤU TRANH chống lại bọn có nguồn gốc làm nghề ĐÁNH TRÂU. Tại sao không kêu gọi đấu tranh kiểu nầy từ khi mới chống đảng, lên án đảng từ năm 1976, mãi cho đến nay năm 2009 mới khởi động? Nhất là sau năm 1975, thời điểm rất thuận lợi, lúc Việt Cộng còn suy yếu kinh tế, đang bị cấm vận, lại phải đương đầu với hai mặt trận: Khmer Đỏ và Trung Cộng, nếu áp dụng theo lối đấu tranh" bất bạo động" của Gandhi, kêu gọi dân chúng bất hợp tác trong các chiến dịch đổi tiền, làm thủy lợi, kinh tế mới, con em không đi nghĩa vụ, thanh niên xung phong...thì lúc đó Việt Cộng phải khốn đốn và không chừng từ đó đưa đến sụp đổ sớm, trước khi Nga bị dân chúng đứng lên xóa sạch chế độ Cộng Sản.
Khi đói thì lo đi kiếm cái gì để ăn, tại các nước dân chủ, muốn có bằng cấp cần phải đi học, chịu khó ngày đêm mày kinh sử, ngoại trừ dưới chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, tình trạng" nhỏ không học có bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ..... đầy đường tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Do đó, trong cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975, Việt Cộng mở những trận đánh lớn, bất chấp thiệt hại lớn về nhân mạng bộ đội, dân chúng cũng đều có mục đích và lý do:
-Mở trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968: nhằm đánh thẳng vào tâm lý của dân Hoa Kỳ và các nước Tây Phương, nhất là các quốc gia có đem quân sang giúp miền nam Việt Nam, đa số dân chúng vốn không thích chiến tranh, nên khi nhìn thấy máu đổ của con em họ qua con số thông báo trên hệ thống truyền thông và được thành phần trong phong trào phản chiến khuynh tả khai thác triệt để. Dù cho Cộng Sản Bắc Việt đã nướng khoản 100 ngàn nhân mạng bộ đội và hàng chục ngàn tên khủng bố gốc Mặt Trận Dân Hại Khủng Bố Miền Nam.
-Sau trận Mậu Thân, đưa đến hệ quả là tổng thống Lyndon.B.Johnson chấp nhận mở hòa đàm tại Paris, nơi mà phong trào phản chiến khá mạnh và bất lợi cho Hoa Kỳ cũng như Việt Nam Cộng Hòa, với những lý do sau đây: Nước Pháp vốn có mặc cảm, không ưa Hoa Kỳ sau khi bị thất bại trong trận Điện Biên Phủ, do Mỹ vào giờ chót không ủng hộ, nhất là không quân. Nơi nầy có cả những tay thân Cộng ( hay Việt Cộng?) thuộc khối Ấn Quang, nổi tiếng là đại đức Thích Nhất Hạnh, cư sĩ, giáo sư Võ Văn Ái....thành phần Việt Cộng khá đông, đến đây định cư từ thời Pháp thuộc, vốn có cảm tình với tên Hồ Chí Minh, nước Pháp là nơi có nhiều đảng phái cánh tả, tiền thân của đệ nhị quốc tế Cộng Sản, nên lực lượng công đoàn rất mạnh. Do nôn nóng giải quyết cuộc chiến càng sớm càng tốt để tranh thủ chính trị tại hậu phương Hoa Kỳ và bị áp lực từ các thế lực phản chiến, xúi dục gia đình có thân nhân là quân nhân Mỹ bị chết, bị thương, nhất là đang tham chiến tại Việt Nam, nên tổng thống Hoa Kỳ, cùng với bộ trưởng ngoại giao Henry Kissinger phớt lời chuyện địa thế mà chấp nhận hội đàm tại Paris, nên áp lực bất lợi càng nhiều, khi trước sân các buổi hội nghị là đám biểu tình phản chiến khuynh tả la ó.
-Trước mỗi lần nhóm họp tại Paris, Cộng Sản Bắc Việt và tay sai Việt Cộng thường mở những đợt tấn công, mặt trận lớn để gây tiếng vang. Đó là mưu đồ của Việt Cộng" vừa đám vừa đàm, vừa đàm vừa đánh" nhịp nhàng từ chiến trường đến bàn hội nghị, đưa đến nhiều nhượng bộ của đồng minh Hoa Kỳ. Trận mùa hè đỏ lửa năm 1972 là một đòn chính trị, dù Cộng Sản hao hàng chục ngàn sinh mạng bộ đội tại các chiến địa lừng danh như: Bình Long, An Lộc, Quảng Trị, Kontoum, Pleiku.....và đến ngày 27 tháng 1 năm 1973, thì hiệp định Paris hoàn tất giai đoạn cuối cùng, sau đó đưa đến thất thủ miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tuy nhiên, một yếu tố vô cùng quan trọng là: nếu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không" chạy xịt" dù bị áp lực của Hoa Kỳ thoái vị và không phá nát quân đội ở quân đoàn 1, làm tan rả các lực lượng thiện chiến là Nhày Dù và Thủy Quân Lục Chiến, rồi" tái phối trí lực lượng" với những lịnh lạc bất nhất:" sáng rút, chiều tái chiếm:" trói chân trung tướng Ngô Quang Trưởng, đưa đến" di tản chiến thuật", làm mất luôn quân khu 2 do thiếu tướng Phạm Văn Phú làm tư lịnh.
Nếu ông Thiệu không có lòng ích kỷ, dẹp bỏ tự ái cá nhân, một lòng vì tiền đồ dân tộc, thì ông giữ nguyên quân đội và ông Thiệu nhường quyền cho một người khác, có tinh thần yêu nước, dám hy sinh, nên trong trận chiến quyết định nầy, gần như toàn bộ các sư đoàn chánh qui Bắc Việt, du kích Việt Cộng phải lãnh nhiều thiệt hại, và lần nầy phải thê thảm hơn trận Mậu Thân, vì quân lực VNCH được trang bị vũ khí tối tân hơn năm 1968 rất nhiều, có cả lực lương Nhân Dân Tự Vệ và các tỉnh thành, thôn ấp miền Nam; nhất là dân Huế có nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản, nên quân dân đều một lòng họ tử chiến tới cùng, thì Việt Cộng phải bị thiệt hại nặng, và tình có thể đảo ngược, quân miền Nam thừa cơ bắc tiến, thống nhất sơn hà, thì ngày nay đâu có chuyện nước Việt Nam trở thành một huyện bất thành văn của Trung Cộng. Trước khi trách đồng minh Hoa Kỳ, mình phải tự hỏi vì sao quân lực VNCH không thua trên chiến trường từ hơn 20 năm, thế mà mà bị thua chỉ có 55 ngày đêm, kể từ khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành lịnh lạc bất nhất, phá nát quân đội và sau đó trở thành" chiến sĩ ra khơi" an toàn cùng gia đình và những thuộc cấp thân tín. Cũng như ngày nay, kẻ bán nước chính là Việt Cộng, nhưng lại bị tay sai, đón gió đánh lạc hướng, cố tình lái sang mục tiêu chống Trung Cộng, là kẻ mua, đồng phạm.
Đối với trường hợp của Huề thượng Thích Quảng Độ cũng thế, từ sau 1976 đến 2009, thời gian dài hơn 33 năm, tại sao không tung ra sách lược" biểu tình tại gia" và" bất tuân dân sự"? Đó cũng có lý do, mà nhìn chung, thì dân chúng trong nước đang dâng cao căm thù đảng cướp Việt Cộng từ lâu, nay chồng chất thêm những biến cố sau đây, có khả năng đưa đến" bảo nổi lên rồi" bất cứ lúc nào:
-Việc tập đoàn đảng và nhà nước Việt Cộng lộ hẳn là đảng bán nước, dân biết đảng đã dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung Cộng từ thời thằng Hồ Chí Minh còn sống, qua văn bản tên tay sai, là thủ tướng Phạm Văn Đồng kỳ ngày 14 tháng 9 năm 1958 và ngày nay mất luôn cả Hoàng Sa, mặt biển Đông hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của Hải Quân Trung Cộng.
-Dân đánh cá càng ngày càng gặp khó khăn, đương đầu qua bao nguy hiểm với bọn" hải tặc có giấy phép" và hạm đội Trung Cộng, từ nhiều năm qua, bắn chết ngư dân, bắt người, đòi tiền chuộc và tịch thu tàu bè....dù họ hành nghề trong lãnh hải Việt Nam. Trong khi đó, đảng và nhà nước Việt Cộng chỉ phản ứng chiếu lệ, nhiều khi áp dụng câu:" im lặng là vàng" để đớp tiền của Trung Cộng, làm giàu cho cá nhân, gia đình, bè cánh nắm quyền. Thi đua bán nước, chuyển tiền ra ngoại quốc, cho con du học để sau nầy thay thế cầm quyền.
-Đảng và nhà nước Việt Cộng trở thành" tập đoàn Thái Thú Trung Cộng gốc Việt", mở cửa khẩu, cho phép dân Tàu di cư, buôn bán, kết hôn, chiếm dần guồng máy kinh tế, khống chế đời sống dân lành.
-Cắt hàng ngàn cây số vuông, đất miền biên thùy Việt-Trung, qua nhiều hiệp ước song phương và sau cùng là cắm cộc, làm dân bất mãn.
-Vụ tổng bí thư Nông Đức Mạnh, tiếp nối truyền thống bán nước của cha hắn là tên Hồ Chí Minh, bí mật ký kết cho phép Trung Cộng khai thác quặng Bô Xít từ năm 2001 và đến năm 2009, thì tay sai Nguyễn Tấn Dũng chấp hành, được quân thầy thưởng cho 150 triệu Mỹ Kim.
Với những lý do đó, nên đảng Cộng Sản Việt Nam rất lo sợ nhân dân đồng lòng đứng lên để lật nhào chế độ phi nhân, phản dân, hại nước, bán đứng quê hương và dân tộc cho ngoại bang Trung Cộng. Qua kinh nghiệm sự sụp đổ nhanh chóng của quan thầy cũ Liên Sô và toàn thể các nước Cộng đảng Đông Âu trước sức mạnh vô địch của toàn dân, dù Nga có cả lực lượng Hồng Quân, vũ khí hiện đại và bom nguyên tử.
Do sợ dân chúng đứng lên đánh nhào chế độ Cộng Sản mà huề thượng Thích Quảng Độ, vốn là một người từng có" quan hệ hữu cơ" với đảng Cộng Sản trước 1975, được đảng dùng làm cò mồi, dùng" khổ nhục kế" giả vờ đàn áp để tạo cho vị tăng sĩ cũ, tàn dư Ấn Quang có một vị trí " lãnh đạo tinh thần, nhà dân chủ, nhà đấu tranh.." để cho người Việt hải ngoại, nhất là Phật tử lầm, hứng lấy, yểm trợ tài chánh và được băng đảng" Việt Tân" là thứ tay sai Việt Cộng, đánh bóng qui mô trên hệ thống truyền thông, nên sau hơn ba thập niên, huề thượng Quảng Độ trở thành nhân vật uy tín, được vận động để lãnh giải Nobel, nhưng hụt ( hình như ủy ban cứu xét biết được bản chất của một cò mồi Việt Cộng?).
Ngoài ra, ở hải ngoại, Quảng Độ còn có cả" cơ sở" vận động là Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới, do giáo sư, sư sĩ Võ Văn Ái thường xuyên vận động, đánh bóng, thu được nhiều tiền ủng hộ của người Việt hải ngoại, đúng là" tương kế tựu kế". Vị trí Quảng Độ lên cao, trở thành" biểu tượng đấu tranh" vang lừng tại hải ngoại, nhưng trong nước thì không đạt được điều căn bản trong các cuộc đấu tranh là" được dân tin, biết đến" như những nhà lãnh đạo uy tín, điển hình là đức Đa Lai Đa Ma của người Tây Tạng. Đây là sự thành công của các tổ chức cò mồi và Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới do giáo sư, cư sĩ Võ Văn Ái thực hiện, với những lý do sau đây:
-Phật tử và đồng bào hải ngoại không rõ biết lai lịch của huề thượng Quảng Độ trước 1975, từng quan hệ với Việt Cộng, đi họp ở Tây Ninh, là tăng sĩ khối Ấn Quang....chỉ biết qua thành tích đấu tranh chống đảng và nhà nước Việt Công sau nầy qua các cơ quan truyền thông hải ngoại như Quê Mẹ của Võ Văn Ái, báo, đài của băng đảng" Việt Tân". Thỉnh thoảng lại đang những tấm hình của huề thượng Quảng Độ đi cứu trợ, gặp dân oan, tung ra những tin tức trong nước, do phòng thông tin của Võ Văn Ái... để móc tiền ủng hộ và tung hỏa mù; rồi loan những tin huề thượng bị đàn áp, bao vây Thanh Minh Thiền Viện, chận xe đò, ngăn cản không cho tham viếng huề thượng Huyền Quang, cô lập phương tiện liên lạc với bên ngoài, nhưng nhiều tin tức đàn áp áp liệt nầy lại đều đều tung ra, do phòng thông tin....
Đó là những điều khó kiểm chứng nên khó tin, nhưng được cái Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới thổi lên thường trực, được một số cơ quan truyền thông cùng phe, nhất là của băng đảng" Việt Tân" hùa theo, khiến Phật tử và dân tỵ nạn hải ngoại bị nhồi nhét nhiều lần, nhiều đài, báo...nên khi việc giả thành thật như câu nói của Goebbels, nhà tuyên truyền thời Hitler từng làm và sau nầy có Lenin:" tuyên truyền là nói láo, nói láo và tiếp tục nói láo".
Do đó, giáo sư, cư sĩ Võ Văn Ái quả đúng là một Goebbels Việt Nam, khi người phát ngôn cơ quan thông tin Phật Giáo Thế Giới nầy là người" sớm đầu tối đánh", lúc theo Nhất Hạnh, khi tố Nhất Hạnh để theo Quảng Độ; khi thông tin giáo chỉ số 9, vạch mặt tăng sĩ tiếm danh và khi cần, thì đứng chung trong tuyên cáo để cùng nhau" biểu tình" tại hội nghị nhân quyền ở Geneve vào tháng 5 năm 2009.... Với thành tích" bất khả tín nầy" của một phát ngôn viên, thì lời nói của cư sĩ nấy rất khó tin, thế mà lại là nhân vật chủ chốt của Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới, mới là tai hại, không biết bao nhiêu tin dỏm được nơi nầy tung ra, làm hao tốn biết bao tiền gởi về ủng hộ và nhiều người Việt hải ngoại đã bị lừa đảo lòng tin. Cũng như đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam, bản chất từ cá nhân đến toàn đảng là lừa bịp, gian manh; thì có ai tin được lời nói của phát ngôn viên Lê Dũng không?
-Vì lòng khoan dung nên tạm gác bỏ những việc làm" núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ" của Quảng Độ trước 1975, lầm tưởng là vị tăng sĩ nầy thật sự đi về nẻo chánh, đoái công chuộc lại những sai lầm trước đây trong khối Ấn Quang.
Nuôi dưỡng nhà dân chủ, phản tỉnh giả, cò mồi từ lâu, nay có lúc phải xài như câu:" nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ". Do đó, huề thượng Thích Quảng Độ tung ra sách lược phi lý, nghe qua biết dỏm" biểu tình tại gia" tức là không ra đường biểu tình, thì làm sao gọi là biểu tình?. Bất tuân dân sự, xúi dân nghỉ làm ở nhà, dân đói ai lo? Và nhất là thời kinh tế thế giới khủng, các công ty quốc doanh, ngoại quốc, tư nhân.... đều muốn giảm nhân công. Thì bất tuân dân sự là giúp cho đảng Cộng Sản" khắc phục" khó khăn, mặt khác, công an khỏi cần mất nhiều thời giờ, công sức, cũng nhận ra" thành phần phản động".
Đây cũng có thể là thời điểm mà ngành tình báo có câu:" khi người thợ săn biết con chó của mình không còn khả năng săn mồi được nữa, thì người thợ săn phải biết ăn thịt chó". Trong quá khứ, Hồ Chí Minh có tinh thần kỳ thị với miền nam, nên trong trận Mậu Thân, vừa thực thi kế hoạch đánh vào tâm lý của dân Tây Phương và cũng vừa nhờ tay quân lực VNCH và đồng minh giết dùm những thành phần cán bộ miền Nam, vốn là từ gia đình tư sản, không thể tin được. Do đó, huề thượng Thích Quảng Độ có thể là con bài tẩy bị lật, nay phải bỏ đi. Nhưng sau khi bỏ, được dùng lần cuối trong công cuộc cứu đảng, tránh cảnh nhân dân đồng loạt đứng dậy biểu tình, nên mới có vụ" biểu tình tại gia".
Nếu uy danh Quảng Độ lừng lẫy, uy tín trong nước như đức Đạt Lai Lạt Ma, thì coi đây là lời kêu gọi có giá trị và được tín đồ tin tưởng, tuân theo; tuy nhiên, tại Việt Nam, cái tên huề thượng Quảng Độ ít người viết, không phổ biến như tên Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Cao Kỳ Duyên, Trịnh Hội....thì lời kêu gọi" biểu tình tại gia" là hoàn toàn thất bại, nhưng dân hải ngoại thì biết đây là trò bịp, chỉ nhằm để cứu đảng, nên vạch trần, từ đó có một số" ủng hộ viên Tam Tạng thời đại", băng đảng" Việt Tân" đánh bóng và phản ứng, chụp mũ những ai nói khác hơn Quảng Độ, tạo cho hải ngoại thêm phân hóa và từ đó, thì uy danh huề thượng Quảng Độ không còn nữa, kéo luôn cái phòng thông tin Phật Giáo Thế Giới của Võ Văn Ái chìm xuống, và ngày" phục viên" cũng không xa. Đó là luật nhân quả, giéo ác gặp họa, là cái mà những kẻ từng là người của Ấn Quang gây ra, nay đã đến lúc trả quả vậy.
Dù vậy, Việt Cộng cũng đã dùng con bài Quảng Độ với nhiều mục tiêu, ngoài thu lợi nhuận từ lâu, ru ngủ tinh thần đấu tranh và cuối cùng dùng con bài nầy để làm phân hóa thêm cộng đồng hải ngoại, khi có hai phe: binh vực và vạch trần./.
TRƯƠNG MINH HÒA
23.07.2009
No comments:
Post a Comment