Wednesday, June 3, 2009

Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC -TT Phạm văn Đồng:- Thich Đôn Hậu 1976

LTS.- Để cho mọi việc trắng đen rõ ràng, chúng tôi xin đưa tài liệu này từ Diễn Đàn Thảo Luận 9 để quý bạn đọc tham khảo, qua đó có thể hiểu được chỗ đứng của Giáo hội PGVNTN giữa cuộc đấu tranh của người dân VNCH chống tập đoàn việt gian Hồ chí Minh được khách quan với tư cách là một người VIệt Nam.

* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC

--- On Sun, 5/3/09, Lamourze Nguyen wrote:

From: Lamourze Nguyen lamourez@yahoo. com

Subject: [DDCL] Re: [PhoNang] Cam on nhom LTLN va CUOC CHIEN DIEN DAN
To: PhoNang@yahoogroups.com

Date: Sunday, May 3, 2009, 9:07 AM

From: kim nguyen

Subject: Giấc mơ lãnh tụ (3)

Date: 1996/02/26

Message-ID: (DnEKGM.GD5@ emr1.emr. ca>

XĐeja-AN: 141340717

sender: n...@.... ca

x-nntp-posting- host: knguyen.gsc. emr.ca

organization: emr

newsgroups: soc.culture. vietnamese

* Các tổ chức ngụy hòa:

Các tổ chức ngụy hòa này thường được VC thành lập hoặc để vận động phản chiến trong hàng ngũ quốc gia hoặc để yểm trợ cho những yêu sách của VC trên bàn hội nghi.. Để hiểu rõ hơn về điểm này, ta hãy tìm hiểu sau đây những tổ chức ngụy hòa chính do một số tăng sĩ hay cư sĩ PG đảm nhiện hay thành lập để yểm trợ cho các chiến thuật của VC.

1. Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới:

Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, HCM thành lập Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ HCM. Cư sĩ Tâm Minh, tức BS Lê Đình Thám, đã được HCM cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, vì các tăng sĩ PG không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông. Nhưng HT Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của phong trào để chỉ đạo đường lốị

2. Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết:

Năm 1953, HCM thay Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp hòa bình cho Đông Dương. Cư sĩ Lê Đình Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban nàỵ HT Thích Trí Độ giữ chức Ủy viên Trung ương của Ủy ban. TT Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy ban.

Năm 1954, sau hiệp định Geneva, TT Trí Quang vào Huế làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế. Ông đã lợi dụng cương vị này để cùng một số trí thức PG lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình, tại miền Nam. Ủy Ban này mang tính chất ngụy hòa, tiếp tay cho HCM trong việc kêu gọi hòa hợp hòa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất 2 miền trong thời hạn 2 năm sau hiệp định Genevạ HCM tin rằng trong khi tình hình miền Nam đang rối loạn vì giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định CS sẽ thắng vì trong những năm kháng chiến chống Pháp họ đã gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận đô.ng. Phong trào này đã bị Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt chiêu hồị

Ngày 27/2/1965, TT Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc. Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình của TT Trí Quang lập năm 1954. TT Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang. Song song với Ủy ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt đô.ng. Cả 2 phong trào đưa ra chủ trương ngụy hòa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ VNCH phải chấm dứt chiến tranh.

Ngày 5/3/1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông báo dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Hòa Bình, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v... tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng cùng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của CS đặt ra làm suy yếu tinh thần chống Cộng của miền Nam. Cảnh sát đã đưa ra tài liệu của VC nhằm hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các phong trào nàỵ Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11/3/1965, Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình là do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hóa Đạọ Ngày 17/3/1965, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ tịch của Phong tràọ

Những người tham gia 2 phong trào này đã bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều trạ Trước đó, ngày 1/3/1965, chính phủ Phan Huy Quát đã tuyên bố xác định chỉ nói chuyện hòa bình khi nào CS chấm dứt xâm lăng. Ngày 19/3/1965, 3 người thuộc Phong Trào Hòa Bình bị trục xuất ra Bắc là BS Thú Y Phạm Văn Huyến, ký giả Cao Minh Chiếm và GS Tôn Thất Dương Ky.. Ngày 4/8/1965, Tòa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết do TT Quảng Liên thành lập và làm Chủ tịch, xác nhận hoạt động của 2 tổ chức này có liên hệ với CS, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng TT Quảng Liên lại không bị bắt hay bị truy tố. Chính sự tránh né này của chính phủ Quát đã làm cho một số tăng sĩ PG miền Trung trong GHPG Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đã trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xã hộị Với ý nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra biết bao tai biến nghiêm trọng sau nàỵ Đây cũng là thời kỳ mà người ta gọi là "nạn kiêu tăng".

3. Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc:

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được ký kết thì ngày 31/1/1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thic'h Thiện Minh, đã vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đòi "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giảị

TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫụ HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đã yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này? Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đã lập lực lượng nói trên để làm gì?

Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm 3 thành phần: VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữạ Lúc đầu Hà Nội cương quyết đòi Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH. Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôị Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ

chức tại miền Nam. TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập "thành phần thứ ba" gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc nói trên.

Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đã bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được.

* Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS:

1. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng:

Năm 1964, TT Trí Quang đã cho tái sinh Hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng. Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp

chính quyền.

Dưới chiêu bài "chống đàn áp PG" và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", 2 tổ chức trên đã tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra gì, nhưng đến tháng 6/1966 thì bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...

2. Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC:

Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965. Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đã biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu tình và bạo đô.ng.

Ngày mất nước 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Trực, họ đã cầm cờ PG ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng". Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.

3. Nhận chỉ thị của VC để hoạt động:

Trong thời Đệ II Cộng Hòa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Tri.-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên tình báo của VNCH theo dõi và chụp hình. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.

Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bữu Phương đã nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC. Lần họp tại chùa Từ Vân ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, đã bị cơ quan an ninh phát giác. TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Phòng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG. TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đã có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN. Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.

Chính quyền miền Nam đã không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra tòa vì sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan tình báo không muốn phá vỡ đường dây để đễ theo dõi ho..

* Các hình thức yểm trợ các đòi hỏi của CS:

Ăn rập với các đòi hỏi của VC, nhóm cực đoan thân Cộng miền Trung trong GHPG Ấn Quang đã phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đòi hỏi của VC.

1. Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa".

Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau:

- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.

- Quân đội Mỹ rút lui.

- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.

- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.

5 điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.

Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buđhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây rạ Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lãnh đạo Mặt Trận. Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rõ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đã cố tình bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội.

Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoạị Đại Đức Nhất Hạnh ra ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp. Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đã có nhiều thay đổi.

2. Thành lập Nhóm Hòa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ:

Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Hòa Giải gồm 25 ngườị Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô.. Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc VN là hòabình trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ". Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ hòa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì về phía CS, ông không trả lờị Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đòi hỏi của Cộng Sản Bắc Việt tại hòa đàm Paris.

3. Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang:

Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970. Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Mình Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:

1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971).

2. LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.

3. Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền của dân tộc.

4. Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:

- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳvà VN.

- Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dư..

5. Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này cho chính người Việt đề rạ

6. Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Làọ

Từ các danh từ và văn tự được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN. Bản tuyên bố được viết vơi lối hành văn lập pháp hay quyết định thay vì nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quốc tế về tôn giáo và hòa bình. Sau bản tuyên bố trên, GHPG đã làm mất cảm tình của hầu hết các quốc gia trên thế giớị Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đòi quân đội Mỹ rút ra mà không đòi tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được.

* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC:

Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đã công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TT Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đã thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam cho CS Hà Nộị Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu:

TT Phạm văn Đồng:

"- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, Phật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm TT. Lập làm gì vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?

HT Thích Đôn Hậu đáp:

- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế nàỵ Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đã hỏi các vị trong Viện Hóa Đạo. Các vị cho biết như sau: "HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập Chính Phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đã bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồi. Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng còn gì, mà Cách Mạng đã đến bên lưng. Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại gì muốn lên làm Tổng Thống lúc ấy."

Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp:

"PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống gì con người! Đã 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố: "Đánh"! Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nữa? Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ, chẳng còn ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nhìn? Nên phải lập Chính Phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Mạng.

TT Phạm Văn Đồng hỏi:

- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng thì để làm gì?

Tôi hỏi Thủ Tướng:

- Khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không?

- Không.

- Như vậy, Dương Văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh."

Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố:

- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975.

- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN.

* Tổ chức mừng Việt Cộng giải phóng Miền Nam:

1. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Đà Nẵng:

Ngày 29/3/1975, VC vưa chiếm được Đà Nẵng thì các tổ chức PG tại đây cắm cờ PG trên xe, chạy khắp thành phố reo mừng. Sau đó, tại các chùa Tỉnh Hội, Phổ Đà, Phật Học, Vĩnh Hội và một vài nơi khác trong thành phố đã bắc loa kêu gọi quân nhân và công chức chế độ cũ ra trình diện.

Một số được coi là "thành phần ác ôn" đã bị các chùa bắt giữ và giao nạp cho bộ đội VC. Số còn lại bị Ban Lãnh Đạo Cách Mạng thành lập ở các chùa nói trên thu hồi thẻ quân nhân hay công chức rồi cấp giấy phép tạm tha cho về để đợi lê.nh. Những người được coi là "có công với cách Mạng" được nhà chùa cấp giấy chứng nhận để khỏi đi học tập cải tạọ PG Đà Nẵng đã coi chiến thắng của VC như chiến thắng của Phật Giáo và các chùa ở Đà Nẵng đã hoạt động giống như những cơ sở chính quyền của Việt Cô.ng.

Tại Saigon, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tuyên bố một cách hãnh diện rằng khi "quân giải phóng" vào Đà Nẵng, chỉ còn một lá cờ duy nhất được tung bay trên thành phố này thôi, đó là lá cờ của Lực Lượng Hòa Giải của Phật Giáo.

Nhưng sau khi làm chủ được tình hình, VC liền dẹp tất cả các Ban Lãnh Đạo Cách Mạng ở các chùa và thay thế bằng các Ủy Ban Quân Quản của ho..

2. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Saigon:

Như đã nói ở trên, ngày 30/4/1975, một số người trong Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại học Vạn Hạnh đã ra Ngã Tư Bảy Hiền đón đoàn quân giải phóng.

Sau khi VC nắm quyền tại miền Nam, GHPG Ấn Quang lập Ủy Ban Tổ Chức Mừng Chiến Thắng do TT Thích Mẫn Giác, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa Viện Hoá Đạo làm Chủ ti.ch. Ủy ban này đã huy động Phật tử tổ chức mừng giải phóng ngày 15/5/1975 và lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh ngày 19/5/1975. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, HT Tâm Châu có ghi lại diễn tiến nàỵ Theo những tài liệu của VC thì có khoảng 900 người tham gia mừng ngày giải phóng trên. Trong diễn văn chào mừng ngày 15/5/1975, TT Thích Mãn Giác có nói:

"Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì Chủ nghĩa xã hội".

Sau khi GHPG Ấn Quang bị VC tấn công, một số tăng sĩ bị bắt giữ, HT Thích Mẫn Giác đã vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ. Trong một đại hội của PG tại Seattle ngày 29/8/1980, bị đồng bào chất vấn, ông đã xác nhận ông có đọc bài diễn văn đó và nhìn nhận sự lầm lẫn của ông.

(còn tiếp)

kngu...@emr. Ca


--- On Sun, 5/3/09, hoang4eb wrote:

From: hoang4eb hoang4eb@gmail. com

Subject: [PhoNang] Cam on nhom LTLN va CUOC CHIEN DIEN DAN

To: PhoNang@yahoogroups.com

Date: Sunday, May 3, 2009, 10:51 AM

Kính thưa quý tiền bối nhóm Lý Trần Lê Nguyễn và diễn đàn,

Xin cảm ơn quý tiền bối đã có lời khích lệ. Sau khi kẻ hậu sinh lên tiếng thì cũng có một vài hồi đáp. Cho dù sự phản hồi như thế nào hậu sinh cũng vẫn giữ hai ý niệm:

1. Sự thất bại của miền Nam là do Mỹ bỏ.

2. Cho dù có người Việt nào đứng ra gánh vác chuyện núi sông vào lúc ấy, không có đạn, không có xăng, thì cũng không làm gì được. Tiếng anh hùng có thể có, thành nhân có thể thành, nhưng thành công thì không.

Tuy nhiên, hậu bối không đề cập đến đề tài này nữa vì nó đã được nói nhiều, cũng không ích lợi cho tương lai bao nhiêu.

Thưa diễn đàn,

Quý vi hữu lăn lộn trong làng diễn đàn nhiều năm chắc đều có nhận định về mục đích của mỗi ngòi viết. Như hậu bối đã một vài lần đề cập, trên diễn đàn có một số người (hay nhóm) có khả năng làm nhạc trưởng, tức là mở đề tài. Một trong những đề tài hiện nay đang BỊ khai thác là tôn giáo.

Trước đây, khi quyển sách quyển sách của tác giả Liên Thành, liên quan đến Phật giáo, được ra mắt ở Houston thì vi hữu với bút danh Trần Tú Uyên ngày ngày post bài quảng bá cho quyển sách này, nhưng sau đó thì không còn thấy xuất hiện. Mục đích của vi hữu ấy thật rõ.

Một thí dụ khác là khi hậu bối có sự đụng chạm với một đảng chính trị có chủ trương "hốt mương đào giếng " ở VN thì các ngòi bút như Đỗ Quảng, Châu Phan Khoi, Nguyen van Tan (gmail) vân vân, mà hậu bối nghĩ là nick ma của cùng một tác giả, người được một số quý vi hữu gọi là cụ ông mà té ra là cụ bà, nhào ra đánh. Bẵng đi một thời gian hậu bối được yên thân.

Gần đây, hậu bối có quảng bá những video của KHG Dương Nguyệt Ánh và viết bài "Giấc Mộng Tango". Trong bài nói chuyện của chị DNA, đoạn nổi bật là nhắn nhủ các bạn trẻ không mắc hỡm chiêu bài giúp dân giúp nước mà hợp tác với chính quyền CSVN. Lời nhắn này đi ngược lại chủ trương "hốt mương đào giếng" của đảng chính trị trên. Hậu bối vừa tuyên dương chị DNA thì lại bị các bóng ma (của cụ bà) thòi ra đâm thọt. Dù không có bằng chứng, với sức phán đoán trung bình, nạn nhân cũng nhìn ra được ai đứng đàng sau các nick ma và mục đích của họ là gì (tiếc là có một vài nhân vật hay viết trên diễn đàn, làm cả moderator mà sức phán đoán không được đến mức trung bình).

Nếu quý vi hữu ở và vị trí của tiểu đệ, tức là chủ diễn đàn và từng làm moderator của diễn đàn khác, quý vi hữu sẽ giật mình vì nhận ra số diễn đàn của tổ chức chính trị này rất nhiều. Có thể nói là chiếm trên 50% các diễn đàn cùng loại với Phố Nắng, Nước Việt, Thảo Luận. Còn nhớ khi hậu bối mở diễn đàn Phố Nắng, giữ lúc đảng chính trị kia ủng hộ phe Madison (San Jose), thì lại có thêm một diễn đàn "Minh Bạch Hóa" ra đời, rồi thì nhiều bài đánh hậu bối và Phố Nắng dồn dập. (đây là lý do tại sao Hoàng bị người ta chửi hoài đó anh N).

Thắng trên một bài viết chỉ là thắng một trận đánh, đưa được đề tài có lợi cho chuyện chung thành đề tài chính mới là thắng cuộc chiến trên diễn đàn. Muốn thắng được cuộc chiến, nhiều khi ta phải hy sinh một trận đánh, đôi khi vì việc chung người ta phải hy sinh luôn danh dự bản thân.

Điểm mà hậu bối muốn tâm sự ở đây là dù ong bướm có vãng lai đưa đường, dù chó có sủa trăng, chúng ta cũng cứ nhắm mục tiêu mà lầm lủi tiến.

Thân kính,

NVHoàng

2009/5/3 lytran lenguyen <lytranlenguyen75@ yahoo.fr>

Ki'nh gu*?i Ba'c~si~ Nguye^~n va(n Hoa`ng

D-a`n Chu? Die^~n D-a`n Pho^' Na('ng

Thu*a Ba'c si~ D-a`n chu?,

Chu'ng to^i ta'n du*o*ng nhu*~ng lo*`i Co^ng d-a.o va` nhie^.t lie^.t

ca ngo*.i su*. nha^.n d-i.nh trung thu*.c quang minh cu?a Bs D-a`n chu?.

Vie^'t li.ch su*? chi? tro`n tre`m 55 na(m ma`d-a~ xuye^n ta.c, tra'o tro*?,

phie^'n die^.n, be`pha'i, ca?m ti'nh, nha(`m mu.c d-i'ch tuye^n truye^`n

d-a^`u d-o^.c tre? con. Thu*? ho?i li.ch su*? tho*`i Thu*.c da^n Pha'p

va` be`lu~ tay sai thi` vie^'t sai le^.ch nhu* the^' na`o.

Ki'nh.

Nho'm LyTranLeNguyen / Paris

.


De: hoang4eb <hoang4eb@gmail. com>


Objet: [PhoNang] Re: V/v: Dai Tuong Duong Van Minh....

Kính thưa bác Bảo Kiếm Quốc và diễn đàn,

Cám ơn bác Bảo Kiếm Quốc đã nói lên những lời mà Hoàng cho là công bằng cho tướng Dương văn Minh.

Thuộc vào thế hệ sau, cũng không nghiên cứu chi tiết về tình hình lịch sử cận đại, song Hoàng cũng cảm thấy bất nhẫn có những người mạnh miệng nguyền rủa Tướng Dương văn Minh "Tên tội đồ Việt gian bán nước số một: Dương văn Minh" hay "hàng tướng Dương văn Minh" (mặc dù ông ta thực sự lên tiếng đầu hàng).

Suy nghĩ của một người ở thế hệ một rưởi về đại tướng Dương văn Minh và cuộc diện ngày 30 tháng Tư như sau.

Chắc ai cũng biết miền Nam thất thủ là vì Mỹ ngưng việc trợ. Đó là lý do chính yếu nhất, nếu không muốn nói là duy nhất. Thử hỏi, vào thời điểm ấy, có một người VN nào thay vào chỗ ông Dương văn Minh mà giữ được miền Nam không? Nếu có, xin những vị đang mạnh miệng chửi tướng Minh chỉ cho.

Ta hãy thử đặt mình vào chỗ tướng Minh để xem suy nghĩ và giải quyết ra sao?

  • Tướng Minh có biết tình hình miền Nam bi đát không? Chắc chắn biết.

  • Tướng Minh có muốn đầu hàng VC để từ một vị đại tướng rớt xuống thành một phó thường dân, một người bị thiên hạ nguyền rủa là "hàng tướng", là dâng đất cho giặc không? Chắc chắn không. Tướng Minh không có bất cứ một cái lợi nào khi đầu hàng cả.

Vậy thì tại sao ông đưa vai ra gánh cái dư đồ sụp đổ, khi mà tướng Thiệu, tướng Kỳ, những người đã ăn trên ngồi trước bấy lâu bỏ của chạy lấy người?

Kính thưa, có thể tướng Minh còn một niềm hy vọng nào đó, ở người Pháp, ở đám thành phần thứ ba. Niềm hy vọng là có người can thiệp để VC phải tôn trọng hiệp định Paris hay "để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc Cộng”". Cho nên, trước việc tướng Minh đứng ra nhận lãnh cái cơ nghiệp phá sản vào lúc ấy, theo hậu sinh thì ông là một chính trị gia "mộc mạc".

Còn nhớ trong diễn văn trao quyền của TT Trần văn Hương, ông có nói những câu như "Cái quyền không phải là cái khăn mù sao mà trao đi trao lại", nhưng ông cũng có nhắc đến việc "Sài Gòn trở thành núi xương sông máu". Quyết định đầu hàng của tướng Dương văn Minh chỉ nhằm một mục đích là tránh cho Sài Gòn trở thành cái núi xương sông máu, vì như đã nói trên, ông không có một lợi lộc gì. Kẻ hậu sinh đặt mình vào chỗ tướng Minh mà cám cảnh cho ông, thông cảm với ông bội phần. Ông đã vì mạng sống cho hàng triệu dân, như bác Bảo Kiếm Quốc có phân tích, mà hy sinh danh dự bản thân.

  • Ai ở chỗ tướng Minh có thể đẩy lui được VC, xin giơ tay lên.

  • Ai ở chỗ tướng Minh, không đầu hàng, mà tránh cho Sài Gòn vài chục ngàn quả pháo kích. Xin giơ tay lên.

Tuy hậu sinh cảm thấy tướng Minh không phải là một nhà chính trị có tài, nhưng cái đảm của ông, gánh đất nước trong cơn quốc biến, hy sinh danh dự bản thân cứu mạng vạn dân, quả thật đáng kính trọng.

Nguyễn văn Hoàng

2009/5/2 ChualientriVN <thich_khong_ tanh@yahoo. com>

--- Thứ 6, 1/05/09, Pham hoaiviet <pham_hoaiviet1@ msn.com> đã viết:

Từ: Pham hoaiviet <pham_hoaiviet1@ msn.com>


Ngày: Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2009, 21:52



----- Original Message -----

From: Pham hoaiviet


Sent: Friday, May 01, 2009 7:31 AM

Subject: [BAO QUOC KIEM]-[Unicode & Viqr] - MOT THIEN OAN NGHIET TINH THU


MỘT THIÊN OAN NGHIỆT TÌNH THÙ

Bảo quốc Kiếm

Nhân ngày 30 tháng tư, trước hết tôi xin đốt nén tâm hương cầu nguyện cho tất cả nạn nhân xấu số trong cuộc chiến dài 30 năm (1945-1975) trên quê hương Việt nam. Đặc biệt đối với những vị Tướng lãnh, Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sỹ VNCH đã hy sinh để bảo vệ cho nền Tự do tại miền Nam. Và trên hết là xin tôn vinh các vị Tướng, Tá đã anh dũng quyên sinh, không chấp nhận sự đầu hàng giặc Cộng như Tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Nguyễn văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Đại tá Hồ ngọc Cẩn…

Tôi không có tham vọng viết nhiều, và viết hết những gì mà tôi có thể hiểu được qua cuộc chiến trong một bài ngắn này. Chuyện ở đây chì là một suy nghĩ “bâng khuâng” khi thấy bà Nguyễn thị Thanh nào đó đã lấy bài ông Lữ giang (Tú gàn, Nguyễn Cần) rồi sửa lại Tiêu đề, để gửi đi, gửi lại hiều lần trên Internet. Bà chuyển bằng những câu như:

-“Tên Việt gian bán nước số một: Hàng tướng Dương văn Minh”.

-“Nguyên nhân của ngày 30-4-1975: Tên tội đồ Việt gian bán nước số một: Dương văn Minh”.

-“Tại sao suốt 34 năm trời NVQGHN không hề biết đến tội lỗi của tên tội đồ quốc gia số một Dương văn Minh??? Tại sao? Tài sản của nó cất dấu ở đâu cũng không ai nói tới, Tại sao???”

Bên cạnh đó, tôi lại đọc được bài của Bà Thiếu tướng Lê văn Hưng nói về “Sự thật về cái chết của Tướng Lê văn Hưng”, thật là cảm động, do ông Chauma chuyển lên diễn đàn. Tôi đã đọc, suy nghĩ và so sánh hai bài viết của Lữ giang và bà Quả phụ Thiếu tướng Lê văn Hưng, cũng như những lời lẽ của bà Nguyễn thị Thanh như vừa dẫn trên. Cảm thấy khó chịu vì những bất công và mâu thuẩn có lúc đến lố bịch, nên đành xin phép trình bày vài cảm nghĩ đơn thuần về vai trò ông Dương văn Minh và kết quả ngày 30-4-1975.

Mở đầu bài viết, ông Lữ giang ghi:

“Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ.

Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ”.

Điều mà ông Lữ giang muốn buộc vào ông Dương văn Minh trước hết để bôi bác là chuyện “bệnh tham lam”. Ông đã dẫn hai nguồn tin khác nhau để nói rằng ông Dương văn Minh đã lấy một thùng phuy vàng mà không nạp vào công khố. Tôi không muốn tranh cải chi về chuyện này. Nhưng có một điều cần nói là, ông Dương văn Minh đã là kẻ có công đầu giúp ông Ngô đình Diệm, làm việc dưới quyền ông Diệm, ông Nhu trong chín năm trường, thì liệu Dương văn Minh có nuốt nổi một hay nhiều thùng phuy vàng ấy không? Chắc chắn là không, bởi vì dưới bàn tay Bạo chúa Ngô đình Nhu, không một kẻ nào có thể qua mặt hắn được. Ông Lữ giang đã chữa cháy rằng:

“Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

Liệu có chuyện “cho nó” hay không? Chắc chắn là không. Tôi quả quyết như thế, vì nghe người ta nói rằng ông Ngô đình Diệm là “một lãnh tụ anh minh, yêu nước, một nhà chí sỹ”; và ông Ngô đình Nhu là “một nhà chính trị siêu việt, yêu nước chân chính”… vậy không lý do gì mà hai đại lãnh tụ lại có thể vì tình riêng mà làm hại công khố quốc gia, coi thường luật pháp quốc gia. Giá trị một thùng phuy vàng không phải nhỏ, lại nữa quốc gia lúc đó còn rất nghèo, thì không lý do gì có thể đem số tài sản kếch sù ấy cho một cá nhân! Giả dụ thứ hai là, ông Diệm và ông Nhu đã cho ông Minh, thì không thể nào gọi ông Minh là có “bệnh tham lam” được. Thùng phuy vàng mà ông Minh được hưởng là ân huệ của Tổng thống, của Cố vấn đầy uy quyền của chế độ. Do đó, nếu có kết án thì phải kết án hai ông Diệm Nhu, vì tình riêng mà quên Tổ quốc, chứ sao lại nói ngược?

Qua câu nói:”thôi cho nó số vàng đó đi cho yên”, chúng ta thấy ngay rằng ông Diệm, ông Nhu đã đồng ý dùng tài sản quốc gia để mua chuộc ông Dương văn Minh đi bắt Ba Cụt. Nhưng điều ấy không ổn, vì sau này Dương văn Minh đã bị nghi ngờ và cho ngồi chơi xơi nước với chức Cố vấn quân sự như ông Lữ giang đã viết; vậy thì liệu Ngô đình Nhu có thể không đòi lại, hay vì vụ này mà đưa ông Minh ra toà để triệt hạ hay không? Không thể nào. Bên cạnh đó, những tay ghê gớm của chế độ như Huỳnh văn Lang, Cao xuân Vỹ, Lâm lễ Trinh, Mai hữu xuân, Nguyễn văn Y, Nguyễn Khánh…nếu không được chia chác, liệu có để cho ông Dương văn Minh yên hay không, khi ông Minh đã bị thất sủng (18-12-1962)? Hoàn toàn không thể có. Tất cả mọi chuyện đặt bày một cách vô lý để bôi bác Dương văn Minh không thuyết phục được ai, mà còn làm phơi bày bộ mặt “điêu ngoa, xỏ lá chính trị” của những cây viết “gà nhà cl”. Theo thiển ý, số vàng bạc lấy đươc của nhóm Bảy Viễn có thể đã được dùng cho Đảng Cần lao sinh hoạt, hoặc anh em Diệm, Thục, Nhu, Cẩn đã lấy làm của riêng cho họ, rồi sai người viết lếu láo đổ cho Dương văn Minh. Nếu vị nào nói khác đi được, xin lên tiếng chỉ dạy.

Trong tiết mục “Chứa chấp gián điệp Việt cộng”, ông Lữ giang viết:

“Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén........................ ”.

Như thế, từ năm 1960, Dương văn Minh đã bị nghi ngờ và theo dõi, thế làm sao ông ta “làm Việt cộng” dễ dàng như thế? Có buồn cười lắm không khi mà người liên lạc lấy tin bị bắt giam luôn mà “Dương văn Minh không hay biết gì cả”? Rồi thì: “Sau vụ này, Đoàn công tác đặc biệt miền Trung và Tổng nha Cảnh sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén”, thế thì làm sao ông Minh có thể liên lạc với Việt cộng? Ngoại trừ, ông Diệm ra lệnh cho ông Minh liên lạc với Cộng sản ra, không có lý do gì để tin ông Minh tiếp xúc được những tên cán bộ Cộng sản khác. Những ai mà bị Đoàn Công tác miền Trung theo dõi, thì có cánh cũng không thể bay được; vậy tại sao từ 1960 đến 01-11-1963 chúng ta không thấy hai ông Diệm Nhu tố cáo Dương văn Minh liên hệ với Cộng sản? Bọn mật vụ đã quay phim, chụp ảnh và nghe lén điện thoại, thì Dương văn Minh làm sao chối cải được? Toàn là láo khoét đến trơ trẽn! Một sự quái đản khác, được ông Lữ giang trình bày:

“Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết............. . ”.

Câu hỏi tức khắc được đặt ra là: Tại sao Đoàn công tác đặc biệt miền Trung lại phải đưa ông Dương văn Nhựt, em ông Minh, một tay gián điệp Bắc bộ phủ trở vào chiến khu để ông ta đi qua Campuchia mà an toàn trở về miền Bắc? Một tên gián điệp Cộng sản thật nguy hiểm, nhưng không bắt, không khai thác, không thủ tiêu, mà còn ưu ái như thế? Cái câu: “Câu chuyện này có lẽ Tổng cục phản gián của Hà nội không hề hay biết”, tự nó biện giải cho Dương văn Nhật không phải là tay gián điệp; bởi vì không có một gián điệp cao cấp nào (kể cả cấp thấp) mà không có một hệ thống đằng sau để yểm trợ, để chuyển tin hay bịt đầu mối khi cần. Các nhà tình báo cao cấp luận giải như thế nào hả?

Tạm gác chuyện đó qua một bên, bây giờ chúng ta xem xét vai trò của Dương văn Minh như thế nào trong cuôc chiến, và hậu quả 30-4-1975 qua bài viết của Lữ giang và bà quả phụ tướng Lê văn Hưng. Như trong câu mở đầu bài viết của ông Lữ giang đã trích đăng trên đây, thì Dương văn Minh là một người “không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị”, và đã bị “Hoa kỳ biến ông thành một công cụ oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa kỳ”; và do đó, “có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là tướng Dương văn Minh”. Từ trong những điều này đã xác nhận Dương văn Minh không phải tự ông làm những chuyện “thủ đoạn chính trị”; mà là do người Mỹ bắt buộc ông làm. Tôi đồng ý rằng, cái đó thì gọi là hèn, nhưng liệu có ai hèn hơn Dương văn Minh hay không? Hầu như tất cả, kể cà Ngô đình Diệm. Có điều, Dương văn Minh chưa hề có thực quyền trong tay, kể cả việc lật đổ Ngô đình Diệm. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ trong loạt bài LIÊN THÀNH VÀ MẮM TÔM. Ở đây. Căn cứ vào hai bài viết như đã nói để xem xét lời tuyên bố ĐẦU HÀNG của Tướng Minh đúng hay sai, lợi hay hại dưới cái nhìn của một người dân đen mà thôi.

Trong tiểu đề: “Bị biến thành tên đao phủ của Mỹ”, ông Lữ giang đã viết:

“Vì không biết gì về thủ đoạn chính trị, Dương văn Minh đã bị Hoa kỳ biến thành tên đao phủ để thanh toán Tổng thống Ngô đình Diệm, ông Cố vấn Ngô đình Nhu và ông Ngô đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ”.

Như thế, bản thân Dương văn Minh không hề chủ trương giết ông Diệm, mà chỉ làm theo lệnh của người Mỹ. Vậy thì, thủ phạm chính giết gia đình Ngô đình Diệm là Chính phủ Mỹ, chứ sao buộc tội ông Minh? Trong thực tế lịch sử miền Nam, chúng tôi không hề đọc được một lời chống đối hay thù nghịch với chế độ Ngô đình Diệm phát ra từ ông Đại tướng Dương văn Minh. Nghĩa là ông Minh không hề thù ghét ông Diệm vì tính cách cá nhân.. Do đó, việc theo Mỹ để lật đổ ông Diệm phát đi từ một ý niệm khác, đó là vì vấn đề Quốc gia Dân tộc. GIÁ TRỊ CUỘC CÁCH MẠNG 1963 ĐÃ ĐƯỢC TOÀN DÂN MIỀN NAM XÁC QUYẾT BẰNG NHỮNG CUỘC MÍT TINH RẦM RỘ NGAY SAU ĐÓ. Không cần phải trích dẫn sách này báo nọ cho phí công vô ích. Thế nhưng, người Mỹ và có thể là một bàn tay khác đã đưa cuộc cách mạng ấy đến cõi chết để phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng. Đúng như ông Lữ giang nhận định, ông Minh rất ngây thơ chính trị, ông không biết những thủ đoạn chính trị là gì; do đó, bản thân ông phải chịu đựng nhiều chỉ trích của giặc thù tứ phía. Chỉ sau hơn một tháng, chúng đã dùng Nguyễn Khánh, và dĩ nhiên kẻ điều khiền uy quyền nhất vẫn là Trần thiện Khiêm để xoá bỏ Cách Mạng ngay tức khắc, đưa Miền nam vào quỷ đạo chiến tranh theo ý chúng. Cái độc địa là bao nhiêu lần chỉnh lý, chúng vẫn để tên ông ở đó, nhưng chẳng có quyền hạn gì, mãi cho tới khi con chiên Nguyễn văn Thiệu hoàn thành công tác. Đọc đoạn sau đây, chúng ta thấy ngay trò chơi của Mỹ:

“Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.............”.

Làm thế nào để ông Minh có thể tự mình thanh toán Nhà Ngô? Không thể nào. Chỉ huy toàn bộ cuộc đảo chánh là do Tướng Khiêm; còn Dương văn Minh là “tướng không quân” thì làm sao ông sai ai được. Đọc trong cuốn “Việt nam nhân chứng” của Tướng Trần văn Đôn, tôi có thể khẳng quyết rằng, ông Dương văn Minh chỉ đứng làm bù nhìn mà thôi. Sở dĩ tướng Đôn nhường ghế Chủ tịch là vì tôn trọng “đàn anh một ngày”,chứ không là gì khác. Từ bên ngoài, chúng ta có thể cho ông là HÈN, nhưng thật sự bên trong ra sao, thì chúng ta khó biết. Chỉ một nỗi khi Cao văn Viên giết Thiếu tá Nhung, cận vệ thân tín nhất của ông, mà ông không dám nói lời nào, thì đủ biết áp lực lên ông nặng mấy triệu cân rồi. Chúng ta phê bình ông là HÈN, cũng đúng; nhưng liệu chúng ta làm được gì khi chính chúng ta bị ở vào vị thế của ông? Giữa hai tiếng “ngồi đó và chết”, chúng ta sẽ phải chọn chữ gì? Từ những vấn đề đơn giản này, chúng ta nhận ra ngay Đại tướng Dương văn Minh CÓ HÈN mà KHÔNG HẠI như hai ông Tổng thống miền Nam, vì thực tế, ông không có quyền hạn gì cả trong những biến động tại miền Nam.

Bây giờ, thử xét qua vấn đề mà ông Lữ giang gọi ông là HÀNG TƯỚNG đúng hay sai. Trong bài viết, ông Lữ giang ghi lại nhiều đoạn, như:

“Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ: (1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền. (2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!

Có thể nào gọi ông Minh là “sát thủ” hay không, khi mà chúng ta biết rằng chính Hoa kỳ mới là kẻ ra lệnh, và thực tế ông Minh không có quyền lực gì cả? Hoàn toàn không thể. Theo tôi, kẻ cầm hết quyền bính chính là tướng Trần thiện Khiêm, mặc dù sau cùng ông chỉ làm Thủ tướng dưới triều ông Tổng thống Thiệu. Chính ông Lữ giang đã biết rằng:”sau đó ông bị Hoa kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền”, thế sao buộc tội ông Minh, mà không buộc tội nhóm người của CIA trong đó Nguyễn văn Thiệu, Trần thiện Khiêm là chủ chốt? Thì ra, các ông chỉ lý luận xảo trá bằng mọi cách để có lợi cho phe ta là được thôi. Ông Lữ giang lại tiết lộ:

“Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc Cộng”.

Chỗ này lại cho chúng ta thấy miền Nam Việt nam còn hay mất không thuộc quyền của người lãnh đạo miền Nam, vậy thì lý do gì chúng ta buộc cho Tướng Dương văn Minh là “hàng tướng”, và chửi rủa ông? Việc đầu hàng là do Mỹ sắp xếp, chúng đã cho CHIÊN đi, và bắt NGƯỜI phải gánh!!! Thật là một bất công không thể nhịn được. Thử đọc một đoạn trong bài viết của bà quả phụ tướng Lê văn Hưng, xem sao:

“Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:

- “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.

-Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào!... “

Ông Thiệu cầm quyền chín năm trời và đã ra lệnh bỏ Tây nguyên, bỏ Quân khu I, mà không cho một phương tiện nào để toàn quân, toàn dân chết thảm. Riêng tại Quân khu I, chúng tôi đã khổ sở vì ra lệnh giữ, rồi hô rút, rút rồi lại giữ, thay đổi liên miên cuối cùng phải chạy trong hỗn loạn và chết chóc. Hãy đọc kỹ bài của Tướng Trưởng thì rõ.. Cuối cùng, Việt cộng đã tràn vào Thủ đô Sài gòn, thì Thiệu cao bay xa chạy, mặc dầu trước đó vài hôm ông đã thề sống chết với quân dân. Vậy thì, tội bán nước là do Thiệu, chứ can cớ gì ông Minh, khi ông chỉ “phải cầm lấy” 40 tiếng đồng hồ do một sự bàn giao vô lý của Quốc hội? Lúc đó, Dương văn Minh chỉ là một công dân như hàng chục triệu người khác, thì can cớ gì mà bàn giao Nước cho ông ấy? Rõ ràng, Tổng thống và Quốc hội mới là kẻ bán nước khi đưa ra quyết định phi pháp nói trên. Nói như thế, tôi không hề trách những Dân biểu nghị sỹ và Tổng thống Trần văn Hương đâu. Cái số phận nghiêt ngã Việt nam đã bị những quan thầy sắp xếp như thế, không ai cưỡng được đâu. Cưỡng lại là chết. Chỉ tiếc nuối và rút kinh nghiệm một điều là từ nay, nếu có ai đứng ra lãnh đạo đất nước, thì phải biết tự túc làm chủ; chứ tất cả nương nhờ sẽ đem lại hậu quả thê thảm mà thôi.

Đọc những đoạn đối thoại não nề trong bài viết của bà quả phụ Tướng Lê văn Hưng, và những trao đổi quan điểm sau đây để thấy rằng các người đã không công bình trong nhận xét:

* “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng đã vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”

- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”

**“Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.

Hai vị tướng này có quân đội trong tay và giữ nhiệm vụ từ lâu tại Quân khu IV, dĩ nhiên họ biết rõ tình hình ta, địch như thế nào, nhưng cuối cùng họ không thể nào phản công nữa, mà đành tuẫn tiết theo thành, chỉ vì không nỡ thấy Cộng sản nả pháo tàn hại đồng bào, chiến sỹ. Trong lúc Cần thơ nhỏ bé và đang an ninh, thì tại Thủ đô Sài gòn Cộng sản đã xâm nhập rồi, thế thì ông Dương văn Minh có thể bỏ mặc mạng sống trên ba bốn triệu dân để phản công hay không? Hãy đọc kỹ câu nói của Tướng Hưng; “Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí đạn dược, lương thực thì không cầm cự đưiợc lâu. Đã muộn rồi…thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sỹ”. Vậy thì, ông Dương văn Minh hô đánh là đánh cái gì, hay chỉ cho thoả chí gian hùng, mặc cho dân chết thảm? Trong bài của ông Lữ giang cho biết, 10 giờ 15 lên đài kêu gọi đầu hàng, thì 11 giờ 30 chiếc T54 đã vào húc cổng Dinh Độc lập, vậy nó từ đâu tới mà mau như thế? Sài gòn mấy ngày trước đó đã hoàn toàn bị bao vây, vậy ông hô đánh là đánh cách nào? Tất cả đều lếu láo. Mục đích của việc chửi rủa ông Dương văn Minh chỉ nhằm một mục đích là nói Phật giáo bán đứng miền Nam, vì ông Minh dính dáng với Phật giáo. Chỉ có thế. Thật là trơ trẽn, khi hai Tổng thống miền Nam đều là “con thú” của ngoại bang, bán nước xong chúng lại đổ cho người khác.

Tóm lại, hai ý nghĩ giống nhau là, vì dân nên phải buông súng; nhưng một bên được khen, một bên lại bị chửi, thì đất trời này không còn công lý nữa sao? Có ai nghĩ về hậu quả ghê gớm khi ông Dương văn Minh tuyên bố “chiến đấu đến cùng” hay không? Chỉ cầm một câu ngắn gọn, Sài gòn sẽ tan nát, hàng triệu dân bị chết oan, mà kết quả miền Nam vẫn vào tay Cộng sản, vì chuyện ấy đã được bàn tính từ lâu, và Nguyễn văn Thiệu đã thi hành đến nơi đến chốn. Hai vị tướng kia chỉ vì mấy trăm ngàn dân Cần thơ mà không đánh, phải tự sát; còn ông Dương văn Minh vì ba bốn triệu dân, nếu không muốn nói đến cả nước, nên kêu gọi buông súng đầu hàng; và “dám sống” cho những độc trùng nguyền rủa, nhưng không thẹn với lương tâm. Thử đem lên bàn cân xem sao?

Đúng là:

ĐEM MÌNH DỰA CHỐN TANH TAO,

ƠN KIA CHƯA TRẢ OÁN SAO ĐÃ ĐỀN!!!

BQK-30-4-09

No comments: