Cộng Sản Âm Mưu “BIẾN ĐẢNG THÀNH ĐẠO!”
ngày1 tháng 1 năm 2003
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ( GHPGNVTN ) hoạt động nằm vùng đánh phá các chính quyền quốc gia để tiếp tay hỗ trợ cho Cộng sản. Thích Minh Châu cầm đầu Phật Học Viện Vạn Hạnh, chuyên môn đào tạo cán bộ công an sư quốc doanh để làm “giám tự” cai quản các chùa chiền quốc doanh. Cần phải tiêu diệt đảng viên cán bộ Cộng sản trá hình làm sư quốc doanh cùng lúc với sự tiêu diệt chế độ và đảng Cộng sản.
Sau ngày 30/4/1975, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã “hiện nguyên hình” là đảng Cộng sản trá hình, hay là một công cụ gián điệp, nằm vùng, đặc công Cộng sản, cực kỳ nguy hiểm cho Tổ Quốc Việt Nam.
Năm 1990, Cộng sản Đông Âu rồi Liên Xô sụp đổ. GHPGVNTN quýnh quáng, cuống cuồng âm mưu trở lại thành “Đạo Phật” và xóa bỏ vết tích Đảng Cộng sản. Nhưng hỡi ơi! Các thành tích hoạt động Cộng sản thắng lợi vẻ vang của GHPGVNTN đã đi vào lịch sử. Nhân dân Việt Nam cũng đặt cho cái tên “quốc doanh Cộng sản”. Lại còn chức tước địa vị trong Mặt Trận Tổ Quốc và Trung Ương Đảng Cộng sản và các cấp bậc quan trọng trong Tổng Cục Phản Gián... thì làm sao xóa bỏ?
Để mở đầu bài này xin trích một đoạn trong tập: “Cơ Bút của Linh Mẫu Chúa Liễu”.
Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tan lại muốn hai hàng sang xe,
Lại còn áo mũ xum xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Thôi thôi mặc lũ thằng hề!
Gió mây ta lại đi về gió mây
Cơ Bút của Linh Mẫu Chúa Liễu
1. Biến Đảng Cộng Sản thành Đạo.
Sau cuộc đảo chính và Tổng Thống Diệm bị giết chết ngày 2/11/1963; Liên Phái Phật Giáo họp tại chùa Xá Lợi hai ngày 31 tháng 12/1963 và 1 tháng 1/1964 để “thống nhất” thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Sau đó tăng ni quốc doanh xúc tiến mọi hoạt động và kế hoạch tranh đấu chính trị và bạo lực thật nhanh để đuổi Mỹ và cướp chính quyền trước khi tình hình quân sự chuyển mạnh và Mỹ có thể mang quân vào miền Nam.
Năm 1963 đến 1975, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã đánh phá Quốc Gia và chính quyền miền Nam bằng đủ kiểu, đủ cách, bằng vũ trang, nội chiến, đảo chính, nằm vùng cho đến khi miền Nam sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1975 và cho đến sáng ngày 30/4/1975, tăng ni GHPGVNTN từ Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đà Lạt, Cần Thơ; những Miền Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm và Ấn Quang đã cầm cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản Bắc Kỳ từ Huế vào đến Sài Gòn, Cần Thơ, để chiếm miền Nam.
Ngày 14/1/1964, Chủ tịch nước Dương Văn Minh ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN. Hai ngày sau, Dương văn Minh ra lệnh thả hết tù Cộng sản. Trong số này có gián điệp nằm vùng Vũ Ngọc Nhạ ở trong tổ tình báo chiến lược bí số A-22, thiếu tướng Bảy Liếm, chỉ huy Biệt Động Nội Thành Sài Gòn – Chợ Lớn, Một đội đặc công chuyên ám sát và phá hoại.
Người Mỹ hoảng hồn vì thấy Thích Trí Quang các tăng ni của GHPGVNTN ra tay quá nhanh, muốn đảo chính luôn cả Hoa Kỳ! Họ liền mời tướng Nguyễn Khánh từ Quân Đoàn 2 về Sài Gòn làm một cuộc đảo chính, sau gọi là Chỉnh Lý;
Ngày 30/1/1964, để lật đổ Dương văn Minh và dẹp bỏ các tướng thân với GHPGVNTN Ấn Quang như Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính và các tướng thân Pháp như Trần văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê văn Kim. Chính trong dịp này, người Mỹ đã biết rõ Dương văn Minh là Cộng sản nằm vùng là tay sai, dưới quyền chỉ đạo của Thích Trí Quang. Nhưng họ tính có thể lợi dụng được Minh bằng cách giả bộ như không biết gì!
Thích Trí Quang và tập thể tăng ni GHPGVNTN tức tối lồng lộn như điên cuồng. Chúng thấy lật đổ Tổng Thống Diệm thành công và sắp cướp chính quyền chiếm được miền Nam đến nơi, mà nay bị người Mỹ làm cho hư hỏng hết. Chúng liền chỉa mũi dùi tấn công vào chính quyền miền Nam và người Mỹ bằng biểu tình, tranh đấu, xuống đường, kể cả xúi dục quân đội ly khai nội chiến.
Ngày 27/3/1964, Thích Trí Quang ra lệnh thành lập “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” tại Huế và ra báo Lập Trường Đấu Tranh. Sau đó lại lập thêm Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng (LLTTCM), nhằm đấu tranh vũ trang bạo động cho đến khi chiếm được vùng Thừa Thiên-Huế với sự hỗ trợ của lực lượng quân đội Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17, chỉ cách Huế khoảng 100 cây số. LLTTCM đã hoạt động bí mật từ trước, nhưng đến nay mới ra công khai.
Thích Trí Quang cũng xúi dục được một số sĩ quan và quân đội, cảnh sát VNCH, kể cà Thị Trưởng Đà Nẵng, theo về phe nổi loạn của y. Chính nhờ số quân nhân vũ trang này mà cuộc tranh đấu đánh phá chính quyền Quốc Gia đã trở thành nội loạn, nội chiến, như Thích Trí Quang mong muốn. Y muốn chứng tỏ với Hoa Kỳ và thế giới rằng miền Nam hoàn toàn bất ổn và ung thối chính trị và nhân dân không ủng hộ chính quyền Quốc Gia . Chính quyền Quốc Gia hoàn toàn bất lực, không được lòng dân và không đủ khả năng cai trị.
Ngày 20/11/1964, các sư GHPGVNTN Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu, Thích Pháp Tri, Thích Thiện Hoa khởi sự tuyệt thực để kích động phật tử biểu tình kéo đến trước tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn với khẩu hiệu “Hãy để cho dân tộc Việt Nam tự quyết”.
Đêm 23/11/1964, LLTTCM chỉ huy một đoàn biểu tình gồm thanh niên, sinh viên phật tử kéo đến Phòng Thông Tin Mỹ tại Huế và đốt cháy Thư viện Mỹ với hơn 5,000 cuốn sách. (Hồ Q Nhựt hien cu ngu tai San Jose bang California –Nhựt là một trong những tên đầu xỏ cỉa nhóm LLTTCM nói trên, hiện chúng và đồng bọn đang tìm cách ẩn núp vào Đảng Cộng Hòa và mọi họat động của chúng từ thập niên 1960 cho đến nay là năm 2003 đều có người ghi sổ để sau này hỏi tội chúng) Phó Lãnh sự Mỹ tại Huế Anthony Lake, sau này là cố vấn Anh Ninh cho Tổng Thống Bill Clinton đến chữa cháy cũng bị ném đá.
Ngày 8/3/1965, trong khi các toán quân Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ Đà Nẵng thì thượng tọa Thích Quảng Liên “thuyết pháp” ở chùa Ấn Quang giải thích về chủ trương của phong trào Bảo Vệ Hòa Bình và hạnh phúc dân tộc: các lực lượng Bắc Việt phải rút về Bắc, các lực lượng Mặt Trận Giải Phóng miền Nam giải giới và chấm dứt chiến tranh, quân đội Mỹ phải rời khỏi Việt Nam, vấn đề thống nhất Việt Nam sẽ do dân tộc Việt Nam tự giải quyết.
Ngày 9/4/1965, hội thảo tại Dinh Gia Long Quốc Trưởng, Thủ Tướng, Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp về cuộc khủng hoảng chính trị do GHPGVNTN Ấn Quang gây ra.
Hơn 3 tháng sau khi quân đội Mỹ đổ bộ thì người Mỹ mạnh tay thành lập chính quyền quân sự. Ngày 14/6/1965, Hội Đồng Quân Lực thành lập một chính quyền quân sự do Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia "tổng thống". Thiếu tướng quân sự Nguyễn cao Kỳ giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương “thủ tướng”. Thích Trí Quang và GHPGVNTN tức tối, giận dữ như điên cuồng. Nhưng cũng phải sang đầu năm 1966 GHPGVNTN mới được... Mỹ (?) bật đèn xanh, cho phép tranh đấu mạnh mẽ để đuổi Mỹ và gọi đó là hình thức tranh đấu dân chủ!
Thích Trí Quang không biết cái bẫy chính trị đa diện, nhiều mặt của người Mỹ. Thích Trí Quang cũng không hiểu ẩn ý chiến lược của người Mỹ. Người Mỹ bật đèn xanh cho Trí Quang tha hồ đánh phá chính quyền Quốc Gia và người Mỹ. Nhưng đồng thời họ cũng quan sát thái độ và hoạt động Cộng sản và chống Mỹ, chống người Quốc Gia của GHPGVNTN Ấn Quang.
Từ ngày 21/3/1966, các sinh viên, học sinh và phật tử của GHPGVNTN ở Huế, Đà Nẵng biểu tình xuống đường liên miên để chống “quân phiệt” Nguyễn Cao Kỳ, chống Mỹ “can thiệp” vào nội bộ Việt Nam (đánh Cộng sản), và đòi thành lập chính phủ dân sự (theo ý kiến của GHPGVNTN).
Ngày 13/3/1966, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN họp báo xác định lập trường và ra lệnh cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa: “các tướng nào có công với cách mạng (lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa và giết Tổng Thống Diệm) dù ở trong nước, ngụ ý các tướng Tôn Thất Đính, Trần văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê văn Kim hay ngoại quốc, ngụ ý Dương văn Minh, phải được trả lại quân đội để lập chính phủ đoàn kết!”
Ngày 23/3/1966, tại Huế, Đà Nẵng và nhiều tỉnh miền Trung xảy ra liên tiếp những vụ đình công bãi thị và bài Mỹ. Nhiều trụ sở Mỹ tại Huế đóng cửa đề phòng sự phá phách. Hàng vạn sinh viên và thanh niên biểu tình ở Huế dưới sự tổ chức và động viên của LLTTCM.
Ngày 28/3/1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ hội đàm với các thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh và Thích Hộ Giác về việc thành lập cơ cấu dân chủ.
Ngày 31/3/1966. Giỗ Tổ Hùng Vương, GHPGVNTN Ấn Quang tổ chức biểu tình trước chợ Bến Thành chừng vài ngàn người. Gắn bảng đồng vào tượng Quách Thị Trang. Nhiều biểu ngữ chống chính phủ (Quốc Gia) và Hoa Kỳ như: Down with U.S. Obstruction, We Want Independence, Đả đảo chủ trương bóp nghẹt báo chí... Hình nộm các tướng Thiệu, Kỳ, Có bị treo lên pháp trường cát trước chợ Bến Thành.
Cùng ngày này 31/3/1966, tại Đà Nẵng, Huế, vẫn có biểu tình tuần hành, với những biểu ngữ: Nước Việt Nam của người Việt Nam – Người Mỹ gây rối cho nhân dân Việt Nam. Có khá nhiều binh sĩ và một số cảnh sát tham gia biểu tình.
Ngày 2/4/1966, sau buổi “thuyết pháp” của Đại đức Thích Hộ Giác tại Viện Hóa Đạo, vài trăm người biểu tình kéo đến Phủ Chủ Tịch đường Thống Nhất Sài Gòn và đài phát thanh đường Phan Đình Phùng (để cướp phá) nhưng bị binh sĩ ở đây ngăn cản. Nhóm biểu tình hô “Đả đảo Thích Tâm Châu”, “Hoan Hô Hồ Chí Minh”. Nhóm biểu tình ném đá vào cảnh sát và bị giải tán bằng lựu đạn cay.
Ngày nay, 2002, Đại Đức Thích Hộ Giác đã thành Hòa Thượng Thích Hộ Giác, hiện làm chủ chùa tại Houston, Texas, là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Hải Ngoại, kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Văn Phòng II, Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ.
Ngày 3/4/1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho biết: “Thị trưởng Đà Nẳng (Bác sĩ Nguyễn văn Mẫn) đã dùng tiền công quỹ thuê người biểu tình (cho LLTTCM), lại dọa nạt dân chúng bắt họ phải đình công, bãi thị, sẽ bị bắt và xử tử.” Thủ tướng Kỳ còn giải thích sự có mặt của Hoa Kỳ và trả lời những người bị tuyên truyền bài Mỹ: Cộng sản (GHPGVNTN và LLTTCM) muốn ly gián để cô lập Việt Nam Cộng Hòa và làm nản lòng Đồng Minh.
Từ ngày 3 đến ngày 7/4/1966, LLTTCM tổ chức sinh viên và thanh niên phật tử biểu tình tại Sài Gòn, Đà Nẵng và Huế hô to khẩu hiệu “Đuổi Mỹ về nước – Phản đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam.”
Ngày 4/4/1966, LLTTCM biểu tình đốt cháy đài phát thanh Đà Lạt. Buổi tối chừng 500 người từ đường Trần Quốc Toản (Viện Hóa Đạo kéo đến Bộ Thông Tin nhưng bị giải tán bằng lựu đạn cay mắt. Sau đó họ kéo đến nhà Văn Hóa đường Tự Do nhưng cũng bị giải tán. Họ đốt một xe jeep quân đội tại đường Cao Thắng.
Ngày 5/4/1966. Tại Huế và Đà Nẵng, nhiều người với dao gậy của LLTTCM chận đường vào thị xã Đà Nẵng. Bác sĩ Mẫn, thị trưởng Đà Nẵng, đóng bản doanh tại chùa Phổ Đà, có 400 binh sĩ ly khai theo LLTTCM bảo vệ. Máy bay chính phủ lượn trên thành phố rải truyền đơn kêu gọi. Dưới đất, các chùa rung chuông báo động inh ỏi. Dân chúng Đà Nẵng bị xách động đã chuẩn bị dao búa, gậy gộc chống lại quân chính phủ. Hoa Kỳ đã cho di tản các cơ quan nằm trong thị xã.
Cùng ngày 5/4/1966, bác sĩ Nguyễn văn Mẫn, thị trưởng Đà Nẵng, bị cách chức và thay thế bằng trung tá Mã Sanh Nhơn, tỉnh trưởng Bình Long.
Ngày 6/4/1966, nhiều sinh viên Huế được sư đoàn 1 Bộ Binh (thiếu tướng Phan Xuân Nhuận chỉ huy), huấn luyện tập bắn, phòng thủ Huế chống quân đội chính phủ.
Ngày 8/4/1966. Các nhóm tranh đấu ở Huế (LLTTCM) tuyên bố không thừa nhận những điểm thỏa hiệp giữa Viện Hóa Đạo và chính phủ và nhất định đòi hỏi chính phủ Nguyễn Cao Kỳ phải rút lui.
Ngày 8/4/1966. Thứ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ William Bundy tuyên bố: “Thượng tọa Thích Trí Quang đang muốn thao túng chính trường Việt Nam song mục đích không rõ rệt.” (ông Bundy ngụ ý Thích Trí Quang giấu kỹ dụng ý hoạt động tranh đấu cho Cộng sản của y.)
Ngày 8/4/1966. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lập “Ủy Ban Tranh Đấu Chống Chính Phủ (Quốc Gia)”. Thượng tọa Thích Thiện Minh thông cáo: “Các tướng lãnh nhất là tướng Nguyễn văn Thiệu không giữ lời cam kết (với GHPGVNTN nên Phật giáo (GHPGVNTN) phải chống đến cùng, dù phải đổ máu!”
(Nhà chùa quốc doanh GHPGVNTN chắc bị tướng Thiệu hứa cuội cho qua nên mới cay cú thế. Không biết tướng Thiệu lúc đó có hứa cho tiền không, nhưng các tướng Nguyễn Khánh đã cho Thích Trí Quang (10 triệu đồng), tướng Kỳ đã cho Thích Trí Quang (50 triệu), và Ngô Đình Cẩn, em út ông Diệm, đã giúp đỡ Thích Trí Quang rất nhiều, kể cả việc cứu y cho ở lại Huế, thay vì bị giải ra Bắc cùng với nhóm Phong Trào Hòa Bình. Là một cán bộ cao cấp và cực kỳ trung kiên của Cục Phản Gián Hà Nội nên Thích Trí Quang đã nhận tiền nhưng vẫn phản bội tất cả những người đã giúp y và lấy lòng y. Cá tính của cán bộ Cộng sản là gian ngoan, phản bội, lật lọng, nuốt lời hứa và tàn bạo giết luôn cả những người cho chúng ăn, cho chúng tiền và tử tế với chúng. Ngạn ngữ Mỹ có câu: “Con chó cắn cái bàn tay cho nó ăn”! Câu này biểu lộ cá tính của Thích Trí Quang và tập thể sư quốc doanh GHPGVNTN.)
Ngày 9/4/1966, trung tướng Tôn Thất Đính được cử ra Huế thay thiếu tướng Nguyễn văn Chuân làm tư lệnh vùng I và đại biểu chính phủ tại Huế.
Ngày 17/4/1966, Thích Trí Quang bay từ Sài Gòn ra Huế để trực tiếp chỉ đạo cuộc tranh đấu của LLTTCM hoạt động mạnh mẽ tại Huế và Đà Nẵng.
Cùng ngày 17/4/1966, để lập thành tích dâng lên Thượng tọa chính ủy Thích Trí Quang, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ở Huế và Đà Nẵng đã bắt giữ tỉnh trưởng Quảng Nam Nguyễn Hữu Chí cùng quận trưởng Hòa Vang và một số người được coi là thân chính quyền Quốc Gia .
Ngày 16/5/1966, tướng Đính vắng mặt không có lý do – bỏ nhiệm sở cũng có nghĩa là đào ngũ trong thời chiến. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ phải điều tướng Huỳnh văn Cao ra thay tướng Đính. Ngày 17/5/1966, khi trực thăng chở tướng Huỳnh văn Cao vừa đáp xuống thì một thiếu úy phật tử (Nguyễn Đại Thức) cầm súng bắn. Viên thiếu úy này bị xạ thủ trực thăng người Mỹ bắn hạ ngay tại chỗ.
Hai ngày sau, ngày 18/5/1966, Thích Trí Quang ra lệnh cho mấy ngàn sinh viên, phật tử khiêng xác thiếu úy Thức đi khắp thành phố Huế để biểu tình tuần hành đả đảo người Mỹ là đã giết thiếu úy Thức, để gây căm thù với Hoa Kỳ. Một máy bay quan sát L-19 bị quân đội ly khai theo GHPGVNTN bắn trúng tại Đà Nẵng và bắt buộc phải hạ cánh xuống bãi cát.
Ngày 20/5/1966, Chính phủ ra lệnh hai tướng Nguyễn Chánh Thi và Tôn Thất Đính phải ra trình diện. Tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh sư đoàn I Bộ Binh, phải dứt khoát tư tưởng (theo hay không theo LLTTCM?).
Ngày 20/5/1966. Buổi sáng, quân chính phủ và quân “tranh đấu” từ chùa Tỉnh Hội, Đà Nẵng, nổ súng. Một số chết và bị thương trước chùa.
Ngày 20/5/1966. 52 quân nhân “tranh đấu” về trình diện với vũ khí. 5 ổ súng của phe tranh đấu đã bị phá hủy.
Thượng tọa Thích Trí Quang lại kêu gọi TT Johnson can thiệp. Lực Lượng Tranh Thủ đòi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ can thiệp bênh vực họ, nếu không sẽ phá phi trường Đà Nẵng.
Thượng tọa Thích Trí Quang đòi: Chính phủ phải rút quân khỏi Đà Nẵng (cho chúng chiếm); thiếu tướng (Thủ Tướng) Nguyễn Cao Kỳ phải từ chức ngay.
Ngày 21/5/1966. Cảnh sát tịch thu nhiều truyền đơn đòi thượng tọa Thích Trí Quang lên làm Quốc Trưởng và giáo sư Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng.
Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, có bắt được 4 Việt cộng với súng lục trong đám biểu tình trước Viện Hóa Đạo.
Số thanh niên, thiếu nhi biểu tình 3 lần quanh Viện Hóa Đạo, ném đá vào cảnh sát, bị giải tán bằng lựu đạn cay. Đám biểu tình đốt lốp xe cũ để ngăn chận cảnh sát và đốt cả 2 xe của Mỹ ở đường Trần Quốc Toản.
Ngày 22/5/1966. Phật tử biểu tình nhiều lần trước Viện Hóa Đạo và xung đột với cảnh sát. Nhiều đơn vị Nhảy Dù và TQLC phải tới tăng cường lực lượng an ninh và bao vây khu Trần Quốc Toản, Sài Gòn.
Tại Đà Nẵng, hai bên vẫn nổ súng. Một số chết vì bị thương tại khu chùa Phổ Đà. 30 nhà báo ngoại quốc bị nhóm nổi dậy (LLTTCM) bắt làm con tin, song một số chạy thoát.
Phi trường Đà Nẵng bị phe nổi dậy bắn phá: một phi cơ bị hư hại, vài lính Mỹ bị thương. Nhiều phi cơ Mỹ tạm dời đi căn cứ khác. Giới quân sự Mỹ tuyên bố sẽ dùng vũ lực tự vệ nếu bị tấn công ở căn cứ Đà Nẵng.
Ngày 23/5/1966. 2 quân xa Mỹ chạy qua Viện Hóa Đạo Sài Gòn. Có tiếng súng nổ từ một đám đông đang biểu tình bắn vào quân xa Mỹ. Binh sĩ Nguyễn Văn Ngọc bị trúng đạn chết. Rất đông thiếu niên 14, 15 tuổi biểu tình ném đá vào cảnh sát và quân đội bị giải tán nhiều lượt bằng lựu đạn cay. Đại Tá Văn Văn Của, Đô trưởng Sài Gòn ra thông cáo kêu gọi các gia đình (Phật tử) giữ con em ở nhà, đừng để bị lôi cuốn đi biểu tình.
Ngày 23/5/1966. Nhóm nổi dậy LLTTCM tại chùa Tỉnh Hội, Đà Nẵng chịu buông súng. Hàng trăm binh sĩ trở về với quân đội. Hàng ngàn súng các loại tìm thấy trong chùa với 30 xác chết sặc mùi hôi thối. 4 phóng viên UPI và UP được giải thoát. Bác sĩ Nguyễn văn Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng ly khai theo Giáo Hội PGVNTN bị bắt và bị giải về Sài Gòn. Theo Chuẩn tướng Dư Quốc Đống, phía quân đội có 20 người chết và hơn một trăm bị thương trong vụ dẹp nổi dậy trong tuần qua.
Ngày 25/5/1966. Thượng tọa Thích Trí Quang lần thứ ba yêu cầu Tổng Thống Johnson và Quốc hội Mỹ ủng hộ GHPGVNTN Ấn Quang và “đừng” ủng hộ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ nữa.
Tội nghiệp cho Thích Trí Quang! Lạy Mỹ đến 3 lần mà Mỹ vẫn không thèm nghe “lệnh” của ngài thượng tọa. “Ngài” Trí Quang tức mình liền ra lệnh cho phật tử làm dữ, tự thiêu và đánh phá tòa Lãnh sự Mỹ.
Vài ngàn người cả công chức và quân nhân biểu tình tại Quảng Ngãi đòi rút quân quốc gia khỏi Đà Nẵng, chống Cộng và tri ân Hoa Kỳ. Tướng Nguyễn Hữu Có nói đại tá Đàm Quang Yên và thiếu tá Tôn Thất Tường là hai người nhận lệnh Thích Trí Quang cầm đầu vụ nổi loạn Phật giáo Đà Nẵng bị bắt và bị đưa về Sài Gòn.
Ngày 25/5/1966. Đại đức Thích Nhất Chí bị cảnh sát bắt đã cung khai là cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tu ở Bạc Liêu và có nhiệm vụ sửa soạn chiến dịch “Nước Lũ” của Việt cộng, kéo phật tử ùa về Sài Gòn cướp chính quyền.
Ngày 26/5/1966. Sinh viên Huế (trong LLTTCM) biểu tình bài Mỹ; đốt phòng Thông Tin Mỹ và Thư Viện với vài ngàn cuốn sách. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ gởi thư cho Bộ Ngoại Giao Mỹ ngỏ ý rất tiếc vụ đốt phòng Thông Tin Mỹ ở Huế.
Ngày 27/5/1966. 76 sư tăng và 39 ni cô tuyệt thực 48 giờ trước tòa Lãnh Sự Mỹ, Huế và trao một huyết thư viết bằng mảnh tre để chuyển cho TT Johnson. Thư này đòi TT Johnson rút quân Mỹ để khỏi đổ máu người Việt Nam (Việt Cộng) nữa.
Trung tá Phan văn Khoa, Thị trưởng Huế đem 1 ngàn quân “trung thành” (với chính phủ) ra đóng tại quận Hương Thủy và bị các đoàn thanh niên LLTTCM phản đối. 75 thường dân Mỹ tản cư khỏi Huế vì bị LLTTCM đe dọa.
Ngày 27/5/1966. Viện Hóa Đạo biểu quyết và thông cáo: Từ nay tập thể chỉ huy (theo lối Cộng sản), Viện trưởng Thích Tâm Châu chỉ là người thừa hành. TT Thích Tâm Châu từ ngày 15/5/1966 không gởi điện văn can gián gì trái với tin đăng trên VN Press và các báo.
Đây chính là một cuộc đảo chính Thích Tâm Châu. Bọn sư Cộng sản nghĩ rằng Thích Nhất Chí bị bắt là do phe Thích Tâm Châu báo cho cảnh sát bắt. Từ điểm này Giáo Hội PGVNTN chia làm hai phe gọi là Việt Nam Quốc Tự do Thích Tâm Châu cầm đầu, và Ấn Quang do Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Quảng Liên... chỉ huy.
(Gần 30 năm sau, ngày 26/6/1994, hai phe kết hợp lại tại Calgary, Canada ký kết giữa Thích Tâm Châu và Thích Hộ Giác.)
Ngày 29/5/1966. Sáng nay ni cô Thích Nữ Thanh Quang, 55 tuổi, tự thiêu trước chùa Diệu Đế, Huế, để phản đối TT Johnson không chịu rút sự ủng hộ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tỏ ý buồn tiếc về vụ tự thiêu của ni cô Thanh Quang.
Ngày 1/6/1966. Sinh viên thuộc lực lượng Tranh Thủ Cách Mạng Huế tràn tới đốt tòa Lãnh sự Mỹ. Nhân viên Mỹ đã rút lui từ trước vào căn cứ MACV và phi trường Phú Bài.
Một xe jeep của quân nhân Mỹ chạy qua Viện Hóa Đạo đã bị đốt cháy trước Viện.
Tại Viện Hóa Đạo, Sài Gòn, mặt dù có lời “can gián” của Đại Đức Thích Hộ Giác, trên ngàn người vẫn kéo đi biểu tình tối nay và bị cảnh sát giải tán. Thượng tọa Thích Pháp Siêu, Phó Vụ Trưởng Vụ Thanh Niên, phản đối giải pháp “ôn hòa” của Thượng tọa Thích Tâm Châu và toan tự thiêu “ngay” nhưng “được” phật tử ngăn chận.
(Sau khi mang cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản vào chiếm miền Nam ngày 30/4/1975, cho đến ngày nay 1975-2002, Thượng tọa Thích Pháp Siêu GHPGVNTN đã hoàn toàn “ôn hòa”. Ta không bao giờ thấy các "ngài" Pháp Siêu, Huyền Quang, Quảng Độ, Trí Quang, Minh Châu, và các "ngài" sư quốc doanh GHPGVNTN khác mang bàn thờ Phật xuống đường hoặc tự thiêu tranh đấu "chống" Cộng! Phải chăng vì Cộng sản là “phe ta” chăng?)
Ngày 3/6/1966. Lễ Phật Đản không được tổ chức trọng thể như mọi năm theo chỉ thị của Viện Hóa Đạo. Không thấy treo đèn và cờ Phật giáo.
Ngày 3/6/1966. Đại đức Thích Nhất Hạnh do các tổ chức Hòa Bình Mỹ mời sang Hoa Kỳ đã tuyên bố chủ trương 5 điểm của Phật giáo: Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức, quân đội Mỹ rút lui, ngừng oanh tạc Bắc Việt, Mỹ phải giúp lập chánh thể “dân chủ” và tái thiết miền Nam không điều kiện.
Ta thấy ngay sự hỗn láo và tham lam lố bịch của Thích Nhất Hạnh. Vừa ra điều kiện Mỹ rút, lại đòi Mỹ phải giúp sư quốc doanh lập chính thể dân chủ kiểu Cộng sản, rồi lại đòi Mỹ phải chi tiền viện trợ tái thiết “không điều kiện”!
Ngày 3/6/1966. Một nhóm tăng ni phật tử phản đối chánh sách ôn hòa của Thượng tọa Thích Tâm Châu. Thượng tọa Thích Tâm Châu từ chức cùng với Đại Đức Thích Hộ Giác.
Ngày 3/6/1966. Thượng tọa Thích Trí Quang ở Huế cải chính các tin theo đó quân đội chính phủ đã tái chiếm và kiểm soát Huế, đồng thời tuyên bố tẩy chay cuộc bầu cử do chính quyền Nguyễn Cao Kỳ sắp tổ chức.
Mục đích của Thích Trí Quang chỉ là gây xáo trộn bạo động. Do đó y phải chống đối bất cứ điều gì chính phủ quốc gia thi hành. Vì nếu đồng ý, thỏa thuận thì không còn lý do để đánh phá tranh đấu nữa.
Thích Tâm Châu phải từ chức vì nhà sư này “không phải cán bộ Cộng sản trung kiên”, không hiểu âm mưu Cộng sản của phe Thích Trí Quang, nên đã thật thà ngay tình muốn thỏa hiệp với chính phủ quốc gia. Do đó Thích Tâm Châu bị loại. Thích Hộ Giác vẫn trung thành với Thích Trí Quang và GHPGVNTN từ ngày đó cho đến nay là năm2003..
Ngày 3/6/1966. Ni cô Thích Nữ Bảo Luân, người Huế, 24 tuổi, tự thiêu tại sân Viện Hóa Đạo lúc 2 giờ 30 sáng.
Ngày 3/6/1966. Theo tạp chí Time, uy tín của TT Johnson bị giảm sút, còn được 55%. Hiện nay chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam bị công kích càng dữ, và 54% dân chúng Mỹ, theo viện Thống Kê Gallup, đòi hỏi Mỹ rút quân nếu có nội chiến tại Việt Nam.
Tăng ni quốc doanh GHPGVNTN đã thành công phần nào khi khích động phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ và khiến cho dư luận Mỹ đòi Mỹ phải rút quân. Nhưng biết đâu người Mỹ đã lợi dụng chúng để đưa Cộng sản lao đầu vào cái bẫy sập miền Nam năm 1975?
Ngày 5/6/1966. Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm và Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận họp báo tại Đà Nẵng và cho biết: Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Bửu Tôn đã nộp 320 vũ khí. Trung tá Khoa tái lập an ninh Huế, các chùa bỏ ngỏ, 3,000 quân với chiến xa đã từ Đà Nẵng tới Huế.
Ngày 6/6/1966. Thượng tọa Thích Trí Quang vẫn phát động phong trào chống chính phủ (Quốc Gia) và kêu gọi phật tử đem các bàn thờ Phật bầy ra đường để chắn lối đi trong thành phố Huế.
Theo Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận Tư lệnh Sư đoàn 1 tại Huế, 8 lãnh tụ LLTTCM còn lẩn trốn, 72 người bị bắt trong đó có 52 quân nhân.
Ngày 7/6/1966. Các bàn thờ Phật vẫn bầy chật nhiều ngã đường và ngăn cản sự chuyên chở. Nhiều đám đông dân chúng đứng chắn không cho quân xa Mỹ di chuyển.
Thấy GHPGVNTN làm cho tình hình quá loạn dẫn tới nội chiến và ly khai trong khi quân đội Bắc Việt chuẩn bị tấn công vào thành phố, một thiếu tá (sau này lên đại ta)ù An Ninh Quân Đội đã có sáng kiến phải bắt Thích Trí Quang giải về Sài Gòn thì mới có thể ổn định tình hình. Lúc này chỉ có người Mỹ biết rõ ý đồ của Thích Trí Quang là chiếm Vùng I để làm Thủ Đô và lãnh địa của “nước” Cộng sản Việt Nam. Ông đề nghị với Tướng Nguyễn Ngọc Loan để ông bắt Thích Trí Quang và giải về Sài Gòn. Tướng Loan chấp thuận ngay.
Ngày 21/6/1966, vị sĩ quan này đến bệnh viện Huế bắt Thích Trí Quang và nói có lệnh bắt y và giải về Sài Gòn. Thích Trí Quang ngơ ngác vì y không ngờ có người dám bắt y. Y hỏi lại: “Ai dám ra lệnh bắt tôi?” Sự bất ngờ khiến y lúng túng không biết đối phó ra sao. Vị sĩ quan nói nếu y bướng bỉnh thì buộc ông phải dùng võ lực. Sự sợ hãi vì tưởng rằng sẽ mang đi bắn, đã khiến Thích Trí Quang “vãi” ra đầy quần. Thích Trí Quang được “tôn” là đang “tuyệt thực” tại bệnh viện Huế. Xét ra thì y chẳng có tuyệt thực gì hết. Y vội xin phép viên sĩ quan này vào nhà tắm. Phải hơn nửa giờ sau y mới sạch sẽ và diu díu theo viên sĩ quan này lên máy bay vào Sài Gòn.
Về đến Sài Gòn, vị sĩ quan này giải Trí Quang đến bệnh viện bác sĩ Tài ở đường Duy Tân để tạm giam với tư cách chữa bệnh, trong khi cảnh sát vẫn canh gát ở bên ngoài. Nhờ giam lỏng được Thích Trí Quang ở Sài Gòn nên tình hình náo loạn và nổi loạn ở Huế và Đà Nẵng đã bị dập tắt. Một điểm đáng chú ý là khi Trí Quang bị bắt giải về Sài Gòn thì báo chí ngoại quốc biết ngay và họ đã đến phỏng vấn TT Thiệu. Ông Thiệu trả lời là ông không biết gì xảy ra và ông không hề ra lệnh bắt Thích Trí Quang. Ông Thiệu có vẻ sợ sư quốc doanh hơn là giận dữ vì bị qua mặt. Nhưng chuyện đã rồi và tình hình tại Huế, Đà Nẵng đã yên ổn trở lại. Vị sĩ quan này nói lại rằng sau chuyện đó, có một lần ông gặp một vài người Mỹ không quen biết, nhưng họ nháy mắt và nói với ông rằng “này, các ông sư thích ông lắm đấy nhé!”
Nhưng rồi các sư GHPGVNTN Ấn Quang cũng tìm ra vị sĩ quan này. Chúng thuê một người lính ám sát. Nhưng không may cho một thiếu tá cảnh sát, đúng ngày hôm đó (tháng 10/1968) lại mượn xe jeep của ông này và đã bị bắn chết trên xe. Vị sĩ quan bắt Thích Trí Quang sau này bị bắt giam tù học tập cải tạo hơn 10 năm. Năm 1993, ông sang Mỹ theo diện HO. Ông từ trần vì bệnh tháng 12/1999. Tên thật của ông là Đại Tá Chu văn Sáng.
Ngày 2/2/1968, trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân mới khởi đầu được 3 ngày, thì chùa Ấn Quang bị trúng đạn B-40 do Việt cộng bắn lầm và phát hỏa. Một tướng và 1 Thượng tá Việt cộng bị tử thương. Chùa Ấn Quang ở đường Sư Vạn Hạnh Sài Gòn là trụ sở chính của GHPGVNTN và là nơi Thích Trí Quang cư ngụ cho đến ngày nay. Chùa Ấn Quang đã được dùng làm Hành Dinh của Bộ Chỉ Huy Việt cộng để tấn công Sài Gòn, dưới quyền tư lệnh của các tướng Trần Độ, Cao Đăng Chiếm, Mai Chí Thọ...
Ngày 2/3/1968, cảnh sát Quốc Gia khám phá 6 hầm bí mật đã chứa chấp đặc công Cộng sản trong phòng ngũ của sư tăng tại tịnh xá Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ, đường Nguyễn Trung Trực, Gia Định.
Tập thể tăng ni GHPGVNTN quả là khôn khéo. Không tỏ vẻ ra mặt thân Cộng hay hoạt động Cộng sản. Nhưng chỉ đòi Mỹ rút quân là đương nhiên Cộng sản thắng! Hoạt động Cộng sản của chúng khá rõ rệt là trong thời gian từ 1963 đến 1975, chúng đánh phá các chính quyền Quốc Gia , nhưng không bao giờ đưa ra một nhân vật Quốc Gia nào để thay thế và lãnh đạo miền Nam chống Cộng.
Trong hai tháng 3 và 4/1975, tăng ni GHPGVNTN đã mang cờ Phật giáo ra đón quân đội Cộng sản tại Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt. Ngày 30/4/1975, tập thể sư tăng và cư sĩ, giáo sư, sinh viên, thanh niên phật tử GHPGVNTN, đại học Vạn Hạnh, Miền Vĩnh Nghiêm và các giáo hội phụ thuộc khác đã phấn khởi hồ hỡi mang cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản vào chiếm Sài Gòn và miền Nam.
Ngày 15/5/1975, khoảng 2,000 tăng ni GHPGVNTN đi diễn hành chiến thắng trước dinh Độc Lập cùng với bộ đội Cộng sản Bắc Việt. Đến tối ngày 15/5, trong tiệc liên hoan vĩ đại mừng chiến thắng tại khách sạn Majestic, Thích Trí Quang và Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã được thưởng huân chương Sao Vàng.
Thích Trí Quang và một số cán bộ cao cấp khác, trọc đầu và không trọc đầu, chánh phó Viện trưởng Hóa Đạo Ấn Quang, Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm... cũng được thăng lên các cấp tướng công an gián điệp và phản gián.
Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Viện trưởng Vạn Hạnh Thích Minh Châu được đặc cách thăng chức tướng công an phản gián. Vũ Ngọc Nhạ được phong thưởng quân hàm đại tướng phản gián 4 sao. Huỳnh văn Trọng thì trở thành Bí Thư Đảng phường I, quận I, thuộc khu vực đường Tự Do Sài Gòn.
Ngày 19/5/1975, để dương cao tinh thần Cộng sản, biểu dương lực lượng và ăn mừng đại thắng, Thích Trí Quang ra lệnh cho Thích Mãn Giác tổ chức mừng sinh nhật Hồ Chí Minh thật long trọng ngay tại khuôn viên chùa Ấn Quang. Khoảng 40,000 tăng ni Ấn Quang và phật tử đã tụ tập đông đảo và tràn ra ngoài chùa, đông nghẹt đường Sư Vạn Hạnh và tràn sang đường Minh Mạng, Lý Thái Tổ... (ngày nay Thích Mãn Giác đã “vượt biên” sang lập chùa tại Los Angeles, Hoa Kỳ, và xưng danh là Hòa Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam.) vì Đảng Cộng sản đã thành công, đại thắng. Các tăng ni Cộng sản không cần phải núp trong áo cà sa. Chúng công khai ra mặt làm sư công an cho chế đo Cộng sản ä. Người dân miền Nam gọi chúng là “mấy thằng trọc sư quốc doanh”.
2. Biến Đạo thành Đảng Cộng Sản
Sau ngày 30/4/1975, GHPGVNTN Ấn Quang được coi là tổ chức đầu não Mặt Trận Tổ Quốc, nhưng lại được coi ngang bằng đảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được họp đại hội 5 năm một lần như Đảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc.
Lần đầu, đại hội kỳ I họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội trong hai ngày 4 và 5 tháng 11/1981 với 165 đại biểu của 22 giáo hội Phật giáo. Tại đại hội kỳ I, GHPGVNTN đã “cải tạo” và tiêu diệt 21 giáo hội Phật giáo khác, và chiếm đoạt toàn bộ chùa chiền, hơn 10,000 tự viện, trên toàn quốc cho đến ngày nay. Các vị chân tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia. Chùa chiền do cán bộ sư công an quản lý, gọi là “giám tự” (Pagoda Managers). Đại hội kỳ I đã bầu Thích Đức Nhuận làm Tăng thống, Thích Trí Thủ làm Chủ tịch.
Năm 1984, Thích Trí Thủ chết, Thích Trí Tịnh thay thế.
Trong vấn đề thay thế các vị chân tu và chiếm giữ chùa chiền bằng sư công an, ta phải nhắc đến Đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu và tập thể đảng bộ Vạn Hạnh. Minh Châu là đảng viên Cộng sản cốt cán từ năm 1943. Ngay từ lúc này, Cộng sản đã không bỏ qua Phật giáo. Minh Châu được cử đi Ấn Độ học về Phật giáo trong kế hoạch uyển chuyển “Biến Đảng thành Đạo Phật và Biến Đạo Phật thành Đảng”. Cán bộ công an phản gián của đảng sẽ tùy tiện cạo đầu làm sư. Các chùa chiền sẽ trở thành trụ sở hoạt động bí mật và ngoại vi của đảng Cộng sản.
Khi đảng Cộng sản nắm chính quyền thì GHPGVNTN Ấn Quang sẽ trở thành một thứ “quốc giáo” và là một tổ chức ngoại vi Cộng sản, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc. Khi đảng không nắm chính quyền hoặc có thể bị lật đổ như trong thập niên 1990, sau khi đế quốc Cộng sản Liên Xô sụp đổ, thì GHPGVNTN Ấn Quang liền chuẩn bị biến Đảng thành Đạo. Đảng viên cao cấp nòng cốt sẽ cạo đầu giả sư trốn trong chùa. Chùa chiền sẽ trở thành trụ sở hoạt động từ bí mật đến công khai để đánh phá các chính quyền Quốc Gia cho đến khi cướp được chính quyền.
Năm 1964, sau khi TT Ngô Đình Diệm bị Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu phe đảo chánh ra lệnh cho sĩ quan tùy viên của y là đại úy Nhung hạ sát, thì GHPGVNTN Ấn Quang công khai ra mặt đánh chiếm miền Nam. Đúng lúc này Thích Minh Châu trở về nước và thành lập Viện đại học Vạn Hạnh. Viện đại học Vạn Hạnh cũng là đảng bộ Cộng sản Vạn Hạnh với Nguyễn Trực làm “chính ủy” (Political Commissar). Đến năm 1970, Đoàn Viết Hoạt và vợ là Trần Thị Thức đi Mỹ về mới làm Phó Viện trưởng Vạn Hạnh cho Thích Minh Châu. Viện Đại học Vạn Hạnh đã mau chóng trở thành cơ sở huấn luyện cán bộ Cộng sản từ các sinh viên. Cuối năm 1974, Thích Minh Châu và Nguyễn Trực đã có thể báo cáo ra Trung Ương Cục Miền Nam rằng chúng đã chuẩn bị xong 1 sư đoàn đặc công Vạn Hạnh với hơn 6,000 khẩu súng các loại và đạn dược với hơn 7,000 sinh viên và thanh niên phật tử. Sư đoàn đặc công này chuẩn bị chiến đấu trong thành phố, bắn vào sau lưng quân đội Việt Nam cộng hòa để tiếp tay cho bộ đội tiến công đánh vào thành phố Sài Gòn.
Sáng ngày 30/4, Thích Minh Châu, Nguyễn Trực, Đoàn Viết Hoạt và toàn bộ ban giảng huấn Đại Học Vạn Hạnh đã cầm đầu sư đoàn đặc công và cán bộ sư Cộng sản, đeo băng đỏ nơi cánh tay, và cầm cờ Phật giáo lên tận ngã tư Bảy Hiền đón quân đội Cộng sản. Không khí đại học Vạn Hạnh, Miền Vĩnh Nghiêm và chùa Ấn Quang lúc này vui như tết, với các sư công an Cộng sản đeo súng kè kè, mặt mũi nghiêm trọng, canh gác, giữ an ninh trật tự khắp nơi, và mở đường, dẫn đường cho bộ đội Cộng sản vào chiếm đóng các cơ sở, các trọng điểm hành chính, quân sự, ngân hàng quan trọng trong thành phố. Tổ chức sư công an để làm giám tự coi chùa. Chùa chiền trở thành cơ sở bí mật của đảng Cộng sản để theo dõi nhân dân, phật tử.
Sau đại hội kỳ I ngày 4 và 5/11/1981, của GHPGVNTN Ấn Quang, 21 giáo hội Phật giáo khác bị “cải tạo” để thống nhất làm một. Thích Minh Châu, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu và toàn “băng Vạn Hạnh” đã đào tạo và cung cấp cho GHPGVNTN Ấn Quang khoảng 20 ngàn sư công an để làm “giám tự” (pagoda managers), chiếm giữ hơn 10,000 chùa chiền toàn quốc. Các vị chân tu của 21 giáo hội đều bị đuổi về nhà tu tại gia.
Trong chiến dịch xóa tên quốc doanh Cộng sản với người hải ngoại, bọn sư Cộng sản Ấn Quang tung ra những tên mới lạ như Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Trí Lực. Thích Hạnh Đức, Thích Huệ Đăng, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban... đều là sư “công an giám tự” do Thích Minh Châu, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu thuộc đảng bộ Vạn Hạnh đào tạo. Năm 1984 chúng còn cho thêm 14,000 ( 14 ngàn ) cán bộ Tình Báo gián điệp sang Tây Tạng và` Ấn Độ học về” Phật học “ để giờ này tung ra hải ngoại nhất là tại Hoa Kỳ và Canada”
Năm 1998, Thích Minh Châu và GHPGVNTN Ấn Quang hải ngoại tại Hoa Kỳ hân hoan loan báo khánh thành Phật Học Viện Vạn Hạnh thật vĩ đại với 5 tầng lầu, tọa lạc tại Phú Nhuận. Chúng tưởng rằng người hải ngoại không biết cơ sở “Phật học” này chính là để đào tạo “cán bộ sư quốc doanh Cộng sản” trong kế hoạch “Biến Đảng thành Đạo”, một khi đảng Cộng sản không thể tồn tại hoặc bị tiêu diệt. Các chùa chiền sẽ trở thành trụ sở Cộng sản núp dưới chiêu bài tôn giáo Phật. Bọn sư Cộng sản “tại Hoa Kỳ” và bọn Võ văn Ái sẽ nỏ mồm hỗ trợ cho chúng. Chúng sẽ tiếp tục xuống đường đánh phá các chính quyền Quốc Gia trong tương lai cho đến khi chúng cướp được chính quyền trở lại. Lúc đó “Đạo” sẽ lại biến thành “Đảng” hay đảng núp dưới bóng tôn giáo hay là chính thể Phật giáo công an trị. Chủ thuyết Phật giáo được viết lại để thay thế chủ thuyết Cộng sản. ( Gần đây như đây chúng đã làm bộ viết bộ sách Phật Quang Đại Tự Điển dày 18,000 trang và Bộ Đại Tạng Kinh 190 bộ mỗi bộ dày 1000 trang??? ) Mọi hoạt động chính trị, tranh đấu, tuyên truyền bịp bợm, gian ngoa, giảo quyệt, khủng bố công an trị, thủ tiêu người Quốc Gia, vẫn “nguyên chất” Cộng sản.
Trong giai đoạn “tranh đấu cướp chính quyền”, các chùa chiền đương nhiên trở thành ổ gián điệp, những trụ sở đặc công, phá hoại, tuyên truyền. Từ đó sẽ phát xuất ra những cuộc xách động quần chúng, phật tử để xuống đường, biểu tình, bạo động, đánh phá các chính quyền Quốc Gia cho đến cùng.
Trong tất cả những bản văn do Cục Phản Gián gởi ra hải ngoại ký tên Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, và những bài viết của Trần Chung Ngọc, Lý Khôi Việt, Phan Quang Độ, Lý Đại Nguyên trên các báo chùa, chúng đều viết “lại”, bẻ cong lịch sử là chính GHPGVNTN Ấn Quang đã có công mở nước và dựng nước từ Luy Lâu đến Sài Gòn. Hòa Thượng kiêm Tướng công an phản gián Thích Trí Quang, tên thật là Phạm văn Quang,hay Phạm văn Bồng tên cầm đầu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang hiện nay, và cũng là “quốc sư Cộng sản”, đã công khai tuyên bố là ý muốn của y là thành lập một triều đại Phật giáo (công an trị) như đời nhà Lý xưa kia.
Bất cứ chính quyền Quốc Gia nào trong tương lai nếu muốn tồn tại thì phải tiêu diệt mọi mầm mống Cộng sản trong các tổ chức tôn giáo ngoại vi trong Mặt Trận Tổ Quốc. Bọn Cán Bộ Sư Công An phải ra đầu thú hoặc phải bị tiêu diệt. Các chùa chiền phải sạch sẽ không còn sư quốc doanh. Các chính quyền địa phương sẽ phải quản lý các chùa chiền.
Nhân dân miền Nam thấy tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang lòi bộ mặt thật Cộng sản, họ đã chửi “mấy thằng trọc sư công an, sư quốc doanh, đeo súng lục kè kè, nhậu rượu đế, thịt chó như điên!” danh từ “quốc doanh” (state-owned) ngụ ý GHPGVNTN là của đảng Cộng sản tổ chức như một công ty quốc doanh Cộng sản. Danh từ “quốc doanh” đã bám chặt vào tăng ni GHPGVNTN cho đến ngày nay. từ năm 1992 đến 2002, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mở chiến dịch tranh đấu ra hải ngoại bằng điện thư, bằng báo chí, tìm đủ cách để xóa tên “quốc doanh”, thành tích Cộng sản và cái mặt Cộng sản, nhưng không có kết quả.
Năm 1998 và 1999, GHPGVNTN tính đưa gia đình phật tử Việt Nam ra mặt, thay thế hoạt động chính trị để tránh cái tên “quốc doanh”! Sư quốc doanh công khai hoạt động Cộng sản và chửi người Quốc Gia tại Hoa Kỳ.
Ngày 12/5/1999, tại Santa Ana, Thích Mãn Giác, nguyên Tổng Vụ Trưởng GHPGVNTN, hiện nay tự xưng là “Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” đã nói thẳng rằng y “thương” HT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ bao nhiêu thì cũng thương HT Thích Thiện Siêu, Thích Trí Tịnh (2 tên này là sư Cộng sản cấp tướng của Tổng Cục Phản Gián và là đại biểu quốc hội Cộng sản) như vậy... (Việt Báo Kinh Tế ngày 15/5/1999)
Cùng một lò GHPGVNTN Ấn Quang, thì Thích Mãn Giác “thương” mấy tên sư quốc doanh Cộng sản cấp cao là phải. Thích Đôn Hậu (đã chết năm 1992), Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Minh Châu, Thích Trí Dũng, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu Thích Trí Quang, Thích Trí Quảng, Thích Minh Nghị, Thích Quảng Liên... đều là cấp tướng công an phản gián Cộng sản. Chúng cũng là ủy viên chủ tịch đoàn trung ương mặt trận tổ quốc, ủy viên Trung Ương Đảng, kiêm Đại biểu Quốc Hội Cộng sản. Thích Mãn Giác cũng nên cho biết rõ cấp bậc thật sự của y hiện nay trong GHPGVNTN?
Thích Mãn Giác cũng “thương” cả Hồ Chí Minh nữa chứ. Ngày 19/5/1975, Thích Trí Quang ra lệnh Thích Mãn Giác tổ chức mừng sinh nhật Hồ Chí Minh vô cùng trọng thể ngay tại chùa Ấn Quang. Sau đó Thích Mãn Giác vượt biên sang Mỹ để tiếp tục công tác đánh phá người Quốc Gia chống Cộng hải ngoại. Thích Mãn Giác gọi cờ Quốc Gia một cách sỏ lá là “cờ ba que”. Đến ngày nay Thích Mãn Giác vẫn còn cay cú chửi các chính quyền Quốc Gia là “đàn áp và chia rẽ Phật giáo của y”. Như vậy tại sao Thích Mãn Giác không ở lại với Cộng sản mà lại vượt biên sang Mỹ làm gì?
Thích Mãn Giác cũng khoe rằng y không kỳ thị Trung Nam Bắc: Trong hội trường, HT Mãn Giác kể chuyện khi HT ra phi trường đón đại lão Hòa Thượng “đại dâm tặc Cộng sản” Thích Trí Dũng từ Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ (5/1998), và sau đó đã bị một số người kết án là “sư quốc doanh”. HT Mãn Giác cho biết HT nhận xét thấy những người ra đón, chỉ riêng HT Mãn Giác là Phật giáo miền Trung, trong khi tất cả còn lại là Phật giáo miền Bắc. (Thích Mãn Giác quả nịnh Phật giáo quốc doanh Cộng sản Bắc Kỳ hết mình khi khoe rằng y là người miền Trung duy nhất đã ra đón và tỏ tình đoàn kết với dâm tặc Cộng sản Bắc Kỳ Thích Trí Dũng).
HT Mãn Giác chỉ nói rằng “tất cả mọi chia rẽ đều là giả tạo, dù đó là Bắc, Trung, Nam hay mọi chế độ chính trị tạm thời”! Thích Mãn Giác nói rất đúng. Bọn tăng ni hải ngoại chỉ giả bộ chia rẽ với bọn sư quốc doanh trong nước. Nhưng tất cả chỉ là giả tạo giai đoạn. Đến khi cần, chúng sẽ nhập lại với nhau làm một để cho được mạnh mẽ và tiếp tục sự nghiệp đánh phá Quốc Gia Việt Nam.
Ngày Chủ nhật 20/6/1999, Thích Mãn Giác làm lễ kỹ niệm 36 năm sư Thích Quảng Đức “tự” thiêu, nhân dịp này y lại ra sức đánh phá chính quyền Quốc Gia. Thích Mãn Giác nói: “Đó là ngọn lửa đã khiến cho thế giới cùng nhìn về Việt Nam để thấy rõ một sự thật: Phật giáo Việt Nam bị (chính quyền Quốc Gia) đàn áp, bị đối xử một cách kỳ thị, bất công. Nhưng sự kiện có ý nghĩa hơn, khi ngọn lửa soi sáng lương tâm của con người để khiến cho các thế giới bấy giờ bàng hoàng xúc động mà nhận ra một sự thật cao quý hơn ở con đường đấu tranh của Phật giáo Việt Nam là: Đó là Phật giáo Việt Nam đã không lấy hận thù để đáp lại hận thù, không kêu gọi bạo động để trả lời những đàn áp bạo động. Phật giáo Việt Nam chỉ muốn lấy cái khổ đau của mình để thức tỉnh lương tâm của những người gây khổ lấy chính thân mình làm ngọn đuốc để soi sáng đường đi cho dân tộc... vì vậy mà ngọn lửa được thắp lên để, nếu có thiêu đốt hận thù bạo ác, thiêu đốt cuồng vọng si mê, chứ không phải là thiêu đốt sự sống của ai, kể cả của những kẻ bạo tàn (ngụ ý không giết Cộng sản)... (Việt Báo Kinh Tế ngày 21/6/1999).
Ôi! Thật quý hóa thay những lời lẽ “từ bi” nhưng rất “hổ mang” của HT.Thích Mãn Giác, Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam. Khi Thích Mãn Giác nói câu trên, y đã quên hẳn những năm tháng “đấu tranh” đẫm máu tới mức nội chiến tại miền Trung và tại Sài Gòn. Mãn Giác đã quên ngày vinh quang đại thắng khi đánh đổ Đệ Nhất Cộng Hòa và giết chết TT Ngô Đình Diệm ngày 2/11/1963. Mãn Giác đã quên những ngày tăng ni GHPGVNTN của y cầm cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản vào chiếm miền Nam từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn và Cần Thơ... trong tháng 3 và 4/1975.
Nhưng chắc chắn Thích Mãn Giác không quên ngày 15/5/1975, khi y cầm cờ đỏ sao vàng đi cùng với mấy ngàn tăng ni GHPGVNTN diễn hành mừng Cộng sản đại thắng chiếm miền Nam!
Trong bài “Đạo từ” của y, Mãn Giác không bao giờ dám nhắc đến “Cộng sản” đang bạo tàn dày xéo quê hương! Có lẽ Mãn Giác sợ phạm húy chăng? Hay là Mãn Giác không bao giờ chống Cộng nên không dám gọi thẳng tên Cộng sản ra mà chửi? Phải chăng Mãn Giác sợ nhắc đến từ “Cộng sản” thì sẽ phải nói lên lập trường “không” chống Cộng của y? Mãn Giác quả khôn khéo không nhắc đến “từ” Cộng sản trong suốt bài “Đạo từ” của y. Thích Mãn Giác chỉ chú trọng đến chửi các chính quyền Quốc Gia mà thôi trong bất cứ dịp nào y có thể lên tiếng!
Mãn Giác không chống Cộng đã đành. Mãn Giác cũng không muốn bất cứ người Quốc Gia chống Cộng nào tiêu diệt Cộng sản. Ta hãy coi Mãn Giác chơi chữ rất khéo léo trong sự “hành văn” của y: “vì vậy mà ngọn lửa được thắp lên để, nếu có thiêu đốt hận thù bạo ác, thiêu đốt cuồng vọng si mê, chứ không phải thiêu đốt sự sống của bất cứ ai, kể cả của những kẻ bạo tàn!” Mãn Giác quả là khéo nói khi y giải thích rằng tại sao trong 10 năm qua, trong chiến dịch xóa tên “sư quốc doanh Cộng sản”, không một tên sư quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang nào dám đứng ra tự thiêu chống Cộng và để chứng tỏ rằng mình không phải là sư quốc doanh!
Mãn Giác gọi bâng quơ là “kẻ bạo tàn” khiến cho người nghe thấy Mãn Giác ngụ ý người Quốc Gia đã đàn áp Phật giáo quốc doanh Cộng sản. Tiện đây, xin nhắc cho Mãn Giác biết là những người Quốc Gia sẽ tiêu diệt bọn Cộng sản bạo tàn, sẽ chiếu cố kỹ càng đến cái gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang do các "tổ sư" Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Quảng Độ, Thích Trí Quảng, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu... cầm đầu với mấy chục ngàn sư quốc doanh công an giám tự khác.
Ngày 12/12/1999, nữ dân biểu Loretta Sanchez cùng với 29 dân biểu Mỹ khác, đã đề nghị Thích Quảng Độ cho giải Hòa Bình Nobel năm 2000 (đến nay là cuối name đến nay không thấy ai cho Thích Quảng Độ giải Hòa Bình Nobel) . Nhân dịp này, Thích Nguyên Trí tuyên bố rằng đây là một vinh dự lớn mặc dù mới chỉ là đề cử, bởi vì Việt Nam trước giờ vẫn chưa ai có thể thắng giải Nobel nào. Thích Nguyên Trí nhấn mạnh đây còn là vinh dự lờn nhất cho Phật giáo Việt Nam, đây còn là một “thắng thế” lớn cho công cuộc đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam...
Mặc dù bị bắt bớ tù đầy, quản chế, HT Thích Quảng Độ vẫn kêu gọi từ bi và khoan dung trước bạo quyền. HT Thích Quảng Độ đã chọn con đường đấu tranh bất bạo động trước chính sách đàn áp. Phần cuối lá thư (giới thiệu giải Nobel) nhắc lại lời nói của HT Thích Quảng Độ: “cái ác sẽ không tồn tại. Lịch sử đã luôn luôn chứng minh chân lý ấy” Ta hiểu ngay Quảng Độ không bao giờ muốn có đấu tranh vũ trang tiêu diệt Cộng sản. Quảng Độ không bao giờ nhận y là người Quốc Gia , không bao giờ y nói lên một câu chống Cộng!
Bọn sư Cộng sản quốc doanh Ấn Quang, Vạn Hạnh phải bị tiêu diệt cùng với đảng Cộng sản thì “cái ác” mới thật là hết ở Việt Nam. Đây mới thật là chân lý của dân tộc Việt Nam. Chân lý của dân tộc Việt Nam trong lịch sử là luôn luôn tiêu diệt ngoại xâm, nội xâm và nội thù.
Nếu muốn phục hồi 21 giáo hội Phật giáo của những vị chân tu đã bị GHPGVNTN cải tạo và giải tán ngày 5/11/1981, để cướp chùa, thì đương nhiên tập thể sư quốc doanh Ấn Quang, Vạn Hạnh và Thừa Thiên Huế, các gia đình phật tử, tăng đoàn bảo vệ chánh pháp, phải được đưa ra trước tòa án dân tộc để trả lời về các tội phản dân hại nước, hoạt động Cộng sản nằm vùng để đánh phá tổ quốc Việt Nam. Biện pháp nhanh chóng nhất là phải đặt chúng ra ngoài vòng pháp luật.
Ta còn nhớ những năm 1969-1970-1971 khi đi qua Viện Hóa Đạo của GHPGVNTN, ta thấy những bản vẽ đuổi Mỹ, chửi Mỹ, đả đảo Mỹ thật là rùng rợn, kinh tởm mà người Mỹ vẫn tỉnh bơ! Họ thản nhiên chụp ảnh và tuyệt đối cấm chính quyền Cộng Hòa đàn áp biểu tình.
Thủ đoạn thông thường của bọn cán bộ tăng ni quốc doanh của GHPGVNTN và các giáo hội tổ chức phụ thuộc, là xách động phật tử, hoặc thuê người biểu tình, xuống đường, hò hét đánh phá, tự thiêu tuyệt thực... để đàn áp chính quyền, đòi hỏi, yêu sách đủ thứ. Chúng buộc chính quyền phải điều đình và nhượng bộ chúng, chấp thuận mọi điều chúng yêu cầu nếu muốn được yên ổn, ổn định. Chúng sử dụng báo chí, thông tin để làm lợi khí tuyên truyền. Chúng đốt phá tòa báo, đánh phá báo chí hay người viết bài chống lại chúng.
Về phần của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, chúng gọi đó là “tranh đấu” vì bị chính quyền đàn áp, bất công. Trong khi sự thật thì chúng đàn áp, đánh phá chính quyền nhưng mồm loa mép giải theo kiểu vừa đánh trống, vừa ăn cướp. Trong khi bị Cộng sản bao vây bên ngoài, lại có sự đồng lõa, hỗ trợ ủng hộ của báo chí, truyền thông quốc tế và người Mỹ, nên các chính quyền miền Nam đều bất lực không thể bịt mồm bịt miệng chúng, và phải chịu thua.
Vì bọn tăng ni GHPGVNTN quá gian ngoan và tàn độc như vậy, các chính quyền Quốc Gia sau này phải cảnh giác đề phòng. Cộng sản có thể bị tiêu diệt. Nhưng một đầu não Cộng sản khác trá hình là GHPGVNTN Ấn Quang sẽ tiếp tục đánh phá quốc gia dân tộc Việt Nam với mưu đồ tái lập khủng bố công an trị. Bọn tăng ni quốc doanh của Giáo hội PGVNTN Ấn Quang, Vạn Hạnh và các tổ chức phật tử, cư sĩ, tăng đoàn, thanh niên, gia đình phật tử, và các giáo hội phụ thuộc dưới bất cứ hình thức, tên tuổi nào cũng cần phải tiêu diệt đến tận gốc rễ. Tất cả các tội ác và thủ đoạn gian manh của chúng phải được nhân dân tố giác, tìm tòi, sưu tầm, ghi chép, viết thành sách để giáo dục cả nước trong nhiều thế kỷ tới. Tất cả sách vở của bọn này nhằm mục đích mê hoặc phật tử, phá hoại tôn chỉ Phật giáo, bóp méo lịch sử đều phải bị hủy diệt. Tất cả chùa chiền sẽ trả về cho nhân dân, phật tử. Chùa chiền, tự viện là do đông đảo phật tử, cư sĩ, bá tánh đóng góp công góp của xây dựng. Tăng ni không có quyền nhận chùa là của mình và xưng là chủ chùa, viện chủ. Phật giáo sẽ chỉ có những người tu hành, mộ đạo chân thật và không còn tham, sân, si.
3. Các dâm tăng quốc doanh Cộng sản của GHPGVNTN Ấn Quang.
Những câu chuyện điển hình về cán bộ Cộng sản giả sư nằm vùng để hoạt động chính trị và giao liên tiếp ứng cho Cộng sản ngay trong thành phố Sài Gòn. Các dâm tăng quốc doanh Cộng sản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang.
Một đoạn trích từ báo (Cộng sản) Thế Giới Mới, số 220, xuất bản tại Sài Gòn ngày 20/1/1997, để vinh danh Hòa Thượng Thích Trí Dũng (tài liệu của báo Saigon Nhỏ – Xin cảm tạ báo Saigon Nhỏ):
Phóng viên báo Thế Giới Mới hỏi: “Thực chất chùa Một Cột (Thủ Đức) có phải là một điểm liên lạc của cách mạng (Cộng sản)?”
Đại Lão Hòa Thượng (ĐLHT) Thích Trí Dũng: "Năm 1964, tại chùa Một Cột Thủ Đức, qua trung gian là anh Bùi Kỳ Vân, anh Nguyễn văn Lộc (chính trị viên đội Biệt Động Thủ Đức), tôi gặp anh Nguyễn văn Bá, ông Nguyễn văn Tăng, hiện đều là anh hùng quân đội Nhân Dân (Cộng sản), và đều ở đội Biệt Động Sài Gòn-Gia Định ngày ấy. Họ đã nhờ tôi tạo điều kiện cho lực lượng Biệt Động Sài Gòn (thuộc lữ đoàn 316) xây dựng cơ sở bí mật tại chùa Một Cột và chùa Phổ Quang (ở gần sân bay Tân Sơn Nhất) – một ngôi chùa do tôi kiến tạo và trụ trì. Tôi đồng ý, thế là hai ngôi chùa trở thành hai cơ sở hoạt động bí mật của Biệt Động Sài Gòn cho đến ngày 30/4/1975.”
Hỏi: “Trong Tết Mậu Thân 1968, chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Ở đây, bằng cách nào Hòa thượng đã qua được mắt địch, để che dấu một số lượng vũ khí và lực lượng Biệt Động?”
ĐLHT Thích Trí Dũng: “Chùa Phổ Quang cũng là nơi ở của thiếu tướng Trần Hải Phụng và anh hùng các lực lượng vũ trang Nguyễn văn Bá. Chùa thường xuyên bị địch lùng sục. Để che mắt địch (VNCH), chúng tôi đã cậy nắp mồ Ngô Đình Cẩn (em ruột TT Ngô Đình Diệm chôn trong chùa Phổ Quang) để dấu vũ khí. Chính vì vậy, địch không ngờ tới. Còn sự di chuyển của các chiến sĩ Biệt Động thì đích thân tôi đã lái xe hơi chở họ nên địch cũng không thể ngờ được. Vì thế, vũ khí và con người được giữ gìn (an toàn) cho đến giờ chót.”
Chúng tôi (báo Thế Giới Mới) rời chùa Nam Thiên Nhất Trụ (Một Cột) cũng là lúc có đoàn khách nước ngoài đến thăm. Nhìn họ đang trầm trồ trước lối kiến trúc độc đáo của chùa, tôi chợt nghĩ ngôi chùa thật đẹp nhưng tấm lòng (Cộng sản) của người kiến tạo ra nó còn đẹp hơn. HT Thích Trí Dũng quả là một nhà sư biết kết hợp giữa đạo (GHPGVNTN) và đời (Cộng sản).
(Thế Giới Mới, số 220, ngày 20-1-1997.)
Chú thích: Thích Trí Dũng hiện nay (2002) 97 tuổi, là Đại Lão Hòa thượng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất . Từ tháng 4/1998 Thích Trí Dũng từ trong nước đi ra và đã đến các chùa của GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ để thu “hụi” chết cho Hà Nội (Cục Phản Gián?), khoảng 2 triệu đôla. Đây không phải là lần đầu. Mỗi năm Cục Phản Gián cử một “sư tăng” loại trung kiên tín nhiệm nhất ra hải ngoại để thu “hụi chết” tại các chùa quốc doanh, từ 1 triệu đôla trở lên. Bọn sư này, kể cả Thích Trí Dũng thường ở rất lâu, một tuần hay nhiều tuần, trong mỗi chùa cho đến khi thu đủ số phần tiền của chùa đó rồi mới đi sang chùa khác. Năm 1996, Chánh Văn Phòng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN (trong nước) là Thích Minh Nghị đã ra hải ngoại thu tiền như vậy. Khi Thích Minh Nghị đến chùa Việt Nam, quận Cam, California, do lời “mời” của Thích Pháp Châu, cũng bị đồng bào đến tận chùa chất vấn. Người ta nhận diện Thích Minh Nghị đeo quân hàm Thượng tá Cộng sản năm 1975. Thích Minh Nghị phải bỏ chạy.
Khi đến thăm chùa sư nữ Đức Viên tại San José, California, tháng 5/1998, sư nam Thích Trí Dũng đã nghỉ ngơi ngay trong chùa sư nữ cho tiện. Các ni sư Đàm Lựu( đã chết ) , Đàm Nhật và Như Nguyện đã hạ lá cờ quốc gia xuống cho Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Dũng đỡ ngứa mắt và để chứng tỏ tăng ni trong chùa không phải là người quốc gia, và chưa bao giờ đứng về phe quốc gia. Việc này làm phật tử San José phẫn nộ và biểu tình tại bãi đậu xe chùa Đức Viên đến 2 giờ sáng ngày 18/5/1998. Các ni sư Đàm Lựu, Đàm Nhật và Như Nguyện đã kêu Cảnh sát Mỹ bắt giam 6 người biểu tình và đưa họ ra tòa truy tố vì quấy rối chùa.
Nhưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ vẫn bênh vực dâm tăng Thích Trí Dũng đến cùng, và tôn vinh tên sư hổ mang Cộng sản nằm vùng này là “Trưởng thượng cao tăng”!
Sau đây là Thông Bạch của hàng Giáo Phẩm Phật giáo? Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi ký tên dưới đây là hàng Giáo Phẩm đứng đầu các tổ chức Phật giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ minh định rằng:
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Dũng, 93 tuổi, là một bậc đạo hạnh chân tu, ấu niên xuất gia, đã di cư hành đạo tại miền Nam Việt Nam từ năm 1954. Đại lão Hòa thượng luôn luôn hướng về Phật sự, từ thiện, xã hội, lập chùa mở cảnh. Ngài đã tạo một ngôi chùa “Nam Thiên Nhất Trụ” tại làng Đại Học Thủ Đức từ năm 1972. Hiện nay ngôi chùa này là một danh lam mang sắc diện Văn Hóa Lịch Sử Phật giáo hưng thịnh từ đời nhà Lý. Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Dũng trong chuyến viếng thăm Phật giáo các nước Á Châu do Cộng đồng Phật giáo Á Châu thỉnh mời. Ngài có ghé thăm các Pháp hữu Sơn Môn tại các tu viện, Phật cảnh Già Lam tại Hoa Kỳ. Ngài không hề tham gia bất cứ tổ chức chính trị nào từ năm 1954. Chúng tôi luôn luôn tôn kính Ngài là một bậc Trưởng Thượng Cao Tăng.
Ngày 27 tháng 5 năm 1998.
Đồng ký tên:
HT Thích Thanh Cát
Tăng thống Giáo hội Liên tông Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
HT Thích Mãn Giác
Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
HT Thích Hộ Giác
Tăng thống, giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy VN hải ngoại. Chủ tịch Hội đồng Điều hành Văn phòng II Viện hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hải ngoại tại Hoa Kỳ.
HT Thích Giác Nhiên
Pháp chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới.
TT Thích Minh Thông
Tổng Thư ký Hội đồng Phật giáo Á Châu tại Hoa Kỳ.
Thích Thanh Cát từ trước đến nay vẫn không bao giờ chịu treo cờ quốc gia và cương quyết không tham gia bất cứ hoạt động hay biểu tình chống Cộng nào của người Việt hải ngoại. Năm 1979, Thích Thanh Cát đã bảo đảm Đàm Lựu sang Mỹ. Đầu tháng 4/1999, Đàm Lựu đã chết tại San José.
Trích một đoạn khác trong báo Saigon Nhỏ số ra ngày 16/10/1998:
... Chưa hết, hồ sơ Saigon Nhỏ nhận được, khiếu nại về sự bao che hạnh kiểm xấu của hàng tăng ni Phật giáo (GHPGVNTN) từ quần chúng phật tử nhiều vô kể. Khi các vị tự nhận, tự xưng là lãnh đạo Phật giáo VNHN (Việt Nam Hải Ngoại), thì khi quần chúng khiếu nại là để quý vị giải quyết, chứ không phải để quý vị bao che...
Bên cạnh đường lối chính trị không phân minh còn là những hoạt động dâm ô được các vị lãnh đạo Phật giáo dùng hành động cả vú lấp miệng em để bao che. Hiện nay cảnh sát San José đang điều tra một vụ cưỡng hiếp trẻ nam ngay trong ngày “đại giới đàn” quy tụ đông đảo tăng ni. Phụ huynh của chú Điệu này đã đưa nội vụ ra cảnh sát. Hiện nay tên thầy chùa dâm dục Mỹ lai này đã bỏ miền Bắc Cali chạy về miền Nam Cali và tiếp tục lẩn quất trong các chùa, nơi có nhiều trẻ thuộc các Gia Đình Phật Tử sinh hoạt.
Gia đình trẻ bị cưỡng hiếp uất ức vì các thầy vẫn tiếp tục bao che thì được vị thầy trụ trì trả lời rằng: “Có con mà không biết giữ, cho đi lung tung như thế thì trách ai?”
Được biết chú điệu này đi theo một vị sư để thụ đại giới đàn (nhập tu, thí phát, quy y tập thể với đông người). Khi đến nơi, vị sư này ốm nên giao hai chú điệu cho một vị sư khác trông coi. Sau khi tai nạn xảy ra, một vị sư còn đi đến bót cảnh sát làm chứng về sự kiện xảy ra. Tuy nhiên các vị lãnh đạo khuyên gia đình nạn nhân vì danh dự của... Phật giáo, của chùa mà bỏ qua. Sau đó tên sư hổ mang dâm dục này từ miền Bắc Cali bỏ xuống miền Nam, xuất hiện nhởn nhơ bên cạnh những trẻ ngây thơ mà các phụ huynh nghĩ rằng đến chùa là nơi an toàn nhất.
Một tín nữ khác tố cáo cô bị một vị “sư” có hàng giáo phẩm cao trong GHPGVNTN xâm phạm tiết hạnh của cô nhiều lần. Vị “sư” này lại còn công khai bảo: “Nếu thầy không rờ thì người khác rờ cũng vậy!” Hiện nay tên sư này cũng rắp tâm đem những tên sư Việt Cộng ra thuyết pháp tại hải ngoại.
Ngoài ra, sau 4 tháng nín thở kể từ khi báo Saigon Nhỏ lột mặt nạ sư Trí Dũng là sư Việt Cộng, ông Vũ Bình Nghi của Thời Báo-San José mới nghĩ ra được cách để trả lời. Ông Nghi cho rằng báo chí hải ngoại đánh sư Thích Trí Dũng, đăng bài của báo Việt Cộng ca ngợi thành tích nằm vùng của sư Trí Dũng là làm nhục QLVNCH (Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) vì chùa Bắc Việt Nghĩa Trang (Phổ Quang) của sư Trí Dũng nằm sát cạnh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH mà chúng ta không hay, vẫn để cho sư Trí Dũng hoạt động, không phải làm nhục quân đội là gì?... (Saigon Nhỏ ngày 16/10/1998).
Trong thời gian 1960 đến 1975, ni sư Huỳnh Liên của GHPGVNTN đã dùng chiếc xe hơi nhỏ (2CV) để chuyên chở các cán bộ cao cấp Cộng sản ra vào thành phố Sài Gòn. Huỳnh Liên đã tổ chức Làng Cô Nhi Long Thành để lợi dụng các cô nhi cho các mục đích Cộng sản, chống chính quyền quốc gia. Huỳnh Liên đã được mọi người đặt cho một cái hỗn danh (nicknamed) là “con quỷ cái nặc nô Cộng sản”. Huỳnh Liên có miệng lưỡi nặc nô rắn độc đến mức Thích Trí Quang cũng không chịu nổi. Năm 1978, Huỳnh Liên và Thích Thiện Minh đều bị Thích Trí Quang ra lệnh thủ tiêu vì hai tên này tỏ vẻ bất mãn, lăm le tổ chức tự thiêu để chống Cộng sản Bắc Kỳ.
Tháng 6/1999, một tên dâm tăng quốc doanh khác đã trên 70 tuổi mà còn dâm dục cực kỳ khả ố với các thiếu nữ phật tử và Gia đình phật tử. Thích Hành Lạc, đã bị cảnh sát Mỹ bắt không cho được đóng tiền “beo” (bail) để được tại ngoại.
Sau khi tiêu diệt xong Cộng sản, cần phải điều tra tường tận các tội ác, làm tiền, dâm dục, hủ hóa, nằm vùng và hoạt động Cộng sản của tập thể tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang và các tổ chức ngoại vi như Gia Đình Phật Tử, Tăng Đoàn Bảo vệ Chánh Pháp, Phòng Thông Tin Phật Giáo...
Các tăng ni của GHPGVNTN Ấn Quang không phải là “tu thật”, lại có nhiều tiền bạc do thập phương cúng dường, nên rất dễ bị lôi cuốn vào con đường tà dâm, dâm dục. Có lẽ cửa Phật thánh thiện thiêng liêng nên khi ma quỷ tu giả vờ, đã mau chóng hiện nguyên hình với các tính nết ma quỷ, dâm ô, ham tiền bạc, ham dâm dục và tham lam vô kể, hơn cả bất cứ người phàm tục nào. Tăng ni quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang chuyển tiền ở Mỹ rồi về Việt Nam mua nhà mua cửa lu bù.
Quý vị có con em, trẻ nhỏ gia nhập các tổ chức và giáo hội phụ thuộc của GHPGVNTN Ấn Quang hay tổ chức phụ thuộc gọi là Gia Đình Phật Tử, thanh niên phật tử, tăng đoàn nầy nọ, hoặc sinh hoạt tại các chùa chiền, hãy coi chừng. Nếu chúng bị tai nạn dâm tăng thì kể như chúng bị ảnh hưởng và ám ảnh tinh thần đến mức khủng hoảng suốt cuộc đời.
Kiện cáo thì vô cùng lôi thôi, tốn tiền và mọi người thường không có mồm miệng gian ngoa, đểu cán như tăng ni quốc doanh! Muốn đưa ra đủ bằng chứng buộc tội cũng rất khó khăn và rất tốn tiền, và tốn rất nhiều thì giờ. Những vụ kiện loại này có khi kéo dài hàng chục năm. Tiền luật sư có khi gần hết tiền bồi thường.
Trong hơn 10 năm qua, Thiên Chúa Giáo Hoa Kỳ đã giàn xếp đền tiền bên ngoài tòa án khoảng nửa tỷ đôla cho các nạn nhân trẻ nhỏ bị sờ mó (Child molestation). Mỗi vụ thường kéo dài hàng chục năm trở lên. Nhưng giáo hội Thiên Chúa Giáo Hoa Kỳ có nhiều tiền và có thiện chí hối hận và đền bù thiệt hại. Họ muốn chứng tỏ là chỉ có một vài cá nhân làm bậy và không muốn cả giáo hội phải mang tiếng xấu. Tăng ni quốc doanh hải ngoại tại Hoa Kỳ sẽ chối là không tiền để quỵt luôn cả án tòa.
4. Cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế. Các cuộc tắm máu của Cộng sản trong giai đoạn đầu năm 1975.
Trong trận đánh Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã chiếm Thừa Thiên-Huế trong nhiều ngày, khoảng 20 ngày đầu tháng 2/1968. Trước khi tấn công, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vùng Thừa Thiên-Huế đã có mật hiệu cho các gia đình phật tử phải treo cờ Phật giáo ăn tết. Bộ đội Cộng sản sẽ xâm nhập những nhà “không” treo cờ Phật giáo để bắt những người trong chính quyền quốc gia. Trong kế hoạch, Việt Cộng muốn chiếm giữ Thừa Thiên-Huế lâu dài để làm “thủ đô” và để chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đã thua vì không giữ nổi Huế. Lập tức chúng khởi sự bắt bớ và “tắm máu” những quân nhân, công chức, các dân biểu nghị sĩ, giáo sư thuộc thành phần quốc gia mà không có “chân” trong tổ chức GHPGVNTN. Chúng bắt khoảng 10,000 người, công chức, quân nhân, dân biểu, nghị sĩ người quốc gia giam giữ họ trong các chùa và trường học.
Khi quân đội Hoa Kỳ và VNCH phản công đánh chiếm lại Huế vào trung tuần tháng 2/1968, thì bọn tăng ni GHPGVNTN tính rằng không giữ được Huế thì phải giết sạch đám tù nhân, nạn nhân này để bảo vệ bí mật Cộng sản nằm vùng của chúng. Giả thử quân đội quốc gia có chiếm Huế trở lại thì cũng không còn người nào sống sót để tố giác lực lượng tăng ni Cộng sản nằm vùng là GHPGVNTN.
Chính bọn tăng ni Cộng sản trong GHPGVNTN vùng Thừa Thiên-Huế đã dẫn đường cho Việt Cộng giết nhiều sĩ quan, công chức và dân biểu, nghị sĩ, giáo sư người quốc gia. Chúng bắt nhiều ngàn người và bốn vị giáo sư người Đức giam trong chùa. Một số bị giam và bị thủ tiêu tại trường học Gia Hội. Hàng trăm xác chết đã bị chôn tập thể ngay trong khu vực trường Gia Hội.
Bọn tăng ni GHPGVNTN đã lập “tòa án quân sự” với những tên Cộng sản nằm vùng như: Lê Văn Hảo, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Đắc Xuân, Tiêu Dao Bảo Cự, các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu..vv.. làm chánh án. Tòa án của chúng ở trong các chùa và chỉ xử tử hình. Các nạn nhân đều bị buộc tội “Việt gian phản quốc”. Các nạn nhân “tử tội” bị mang ra sau chùa bắn theo kiểu hành quyết KGB với một viên đạn vào đầu. Thiếu tá Từ Tôn Khoáng bị chúng ra lệnh bắn nát thây với hơn 200 viên đạn!
Hoàng Phủ Ngọc Tường ngày nay năm 2003 đổi tên là Nguyễn Khoa Điềm, giữ chức vụ Bộ Trưởng Văn Hóa trong chính quyền Cộng sản Hà Nội. Tiêu Dao Bảo Cự chính là đệ tử ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cùng nằm vùng đánh phá chính quyền quốc gia vào những năm 1964-65 trở về sau tại vùng Thừa Thiên-Huế. Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chế tạo những bản văn, bài viết,, thông bạch rồi ký tên Thích Huyền Quang. Cục Phản Gián đã gởi ra hải ngoại bằng điện thư (fax) những văn bản cho các báo chợ, báo đảng, báo chùa đăng tải, và đài phát thanh của đảng phỏng vấn phát thanh. Võ văn Ái và Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế của y cũng tung ra những bản tin bịa đặt rằng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và GHPGVNTN “tranh đấu” và nói rằng từ trong nước gởi ra.
Khi quân đội Việt-Mỹ phản công mạnh mẽ vào trung tuần tháng 2/1968, để tái chiếm Huế thì bọn tăng ni quốc doanh và thanh niên phật tử đã áp giải hơn 4,000 nạn nhân của chúng từ các chùa ra khe Đá Mài ở phía Tây thành phố Huế. Chúng vận động hơn 300 thanh niên và thanh nữ phật tử đi theo áp giải tù. Chúng dùng lưỡi lê đâm thủng bàn tay các nạn nhân rồi dùng kẽm gai xuyên qua, từng xâu từ 5 đến 10 người một, rồi kéo đi. Chúng tính sẽ giết các nạn nhân nên coi họ như những tử tội, không cần phải đối xử nhân đạo.
Bốn vị giáo sư người Đức bị bọn sư Cộng sản xử tử bằng lối hành quyết của KGB với một viên đạn súng AK bắn vào đầu! Rồi chúng vùi xác 4 người Đức sau chùa Tường Vân. Bọn sư Cộng sản GHPGVNTN hiểu rằng chúng phải tiêu diệt các nạn nhân do chúng bắt và giam giữ trong chùa để diệt khẩu và để bảo toàn bí mật nằm vùng của chúng.
Tại khe Đá Mài ngày 22/2/1968, Thích Đôn Hậu và thiếu tướng Lê Chưởng, chính ủy mặt trận Thừa Thiên-Huế (Trần văn Quang là Tư lệnh), đã ra lệnh cho khoảng 150 tên sư áp giải mượn súng bộ đội Cộng sản, bắn giết, thủ tiêu hơn 4,000 nạn nhân. Hơn 300 thanh niên, thanh nữ phật tử đi theo áp giải các nạn nhân cũng bị Thích Đôn Hậu ra lệnh giết luôn để diệt khẩu. Bộ đội Cộng sản người Bắc đã từ chối bắn các nạn nhân. Chúng nói chúng chỉ biết đánh nhau, không biết giết người theo kiểu xử tử những nạn nhân còn đang bị trói.
Sau cuộc thảm sát, bọn tăng ni Cộng sản trở về các chùa ở Huế và làm bộ không biết chuyện gì đã xảy ra cho đến ngày nay. Vì những người biết mặt chúng đã bị giết hết nên không còn ai tố giác bọn tăng ni Cộng sản nằm vùng này. Bọn tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất giữ bí mật tội ác giết người của chúng đến mức từ năm 1968 đến nay, các chùa ở Huế không nhận thêm người ở ngoài vào tu (giới đàn). Chúng chỉ nhận đảng viên và công an Cộng sản. Có lẽ chúng sợ rằng nếu nhận người ngoài vào tu thì bí mật giết người năm Mậu Thân sẽ bị lộ.
Thích Đôn Hậu và Lê Chưởng đi thẳng ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị về thành tích chiến thắng oanh liệt vùng Thừa Thiên-Huế và con số địch quân bị tiêu diệt, và được hoan hô nồng nhiệt. Thích Đôn Hậu được ở lại Hà Nội. Năm sau 1969, Hồ Chí Minh chết. Thích Đôn Hậu được vinh dự đứng canh quan tài Hồ cùng với những tên đầu sỏ Cộng sản khác như Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) , Lê Đức Thọ...
Phải đến sau 1975, Thích Đôn Hậu mới trở lại chùa Linh Mụ, Huế, và ở đó cho đến khi chết cuối tháng 4/1992. Chính quyền Cộng sản ra lệnh làm lễ Quốc táng 7 ngày cho Thích Đôn Hậu. 2 Phó Thủ tướng Cộng sản Nguyễn Quyết và Nguyễn Hữu Thọ về tận chùa Linh Mụ làm chủ lễ tang. Thích Huyền Quang thay thế Thích Đôn Hậu làm Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và gởi các bản tranh đấu bịp bợm bằng điện thư ra hải ngoại, đó là chuyện sau.
Lê Chưởng được Lê Duẫn phong chức Bộ Trưởng Giáo Dục để thưởng công cho vụ tàn sát và chiếm được thành phố Huế. Khi Chưởng quay lại Bình Trị Thiên để bàn giao chức vụ thì bị tai nạn xe, với một chiếc xe tăng tại Quảng Bình. Cây chống kính xe tăng đã đâm thủng sọ Lê Chưởng khiến y chết ngay tại chỗ.
Sở dĩ tìm được các xác chết tại khe Đá Mài là do oan hồn một thanh nữ phật tử bị thủ tiêu để diệt khẩu, đã chết oan uổng, tức tưỡi, nên đã báo mộng cho mẹ đi tìm xác và đưa đẩy bà mẹ này đến khe Đá Mài.
Thích Đôn Hậu nắm rất nhiều chức vụ cao cấp Cộng sản. Y nắm những chức vụ như Phó Chủ tịch Liên Minh Dân tộc Dân Chủ Hòa Bình, Ủy viên chủ tịch, chủ tịch đoàn Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng (Cộng sản) Miền Nam, Ủy viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Trị chính phủ Cộng sản miền Nam, mang quân hàm Tướng Tổng Cục Phản Gián, Ủy viên chủ tịch đoàn Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc (sau 1975) kiêm Đại Biểu Quốc Hội Cộng sản đơn vị Bình Trị Thiên, Tăng Thống kiêm Viện Trưởng lưỡng viện Tăng Thống và Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Sau khi Thích Đôn Hậu chết ngày 25/4/1992, thì GHPGVNTN đôn Thích Huyền Quang lên thay thế. Cục Phản Gián đã cho xe ô tô về tận chùa Hội Phước tỉnh Quảng Ngãi để đón Thích Huyền Quang lên chùa Linh Mụ nhận lãnh mũ áo tăng thống. Nhân dịp này, Thích Huyền Quang cũng bàn thảo với thượng tướng công an phản gián kiêm phó thủ tướng Nguyễn Quyết về vấn đề khởi động chiến dịch Hoa Sen Đỏ, tung ra hải ngoại, đẻ xóa tên “quốc doanh”, để tỏ vẻ “bị” Cộng sản đàn áp và để cải chính “khéo” với người hải ngoại rằng chúng “chưa bao giờ” làm sư quốc doanh Cộng sản.
Bản văn đầu tiên của chiến dịch Hoa Sen Đỏ do Hoàng Phủ Ngọc Tường soạn thảo, ký tên Thích Huyền Quang, gọi là "Kiến Nghị 9 điểm" và được Cục Phản Gián gửi bằng điện thư (fax) cho báo Người Việt và các báo chùa đăng tải nguyên văn. Kiến Nghị 9 điểm đề ngày 25/6/1992 thật ra chỉ là một bản “thỉnh nguyện” với sự cung kính dâng lên các cấp lãnh đạo Cộng sản Hà Nội. Sau này Cộng sản Hà Nội có đường dây “vận động hành lang” đi thẳng với Mỹ và được bãi bỏ cấm vận, được bang giao, nên chúng từ từ bỏ rơi con bài sư quốc doanh GHPGVNTN. Nhưng tập thể tăng ni quốc doanh đã lòi mặt thật Cộng sản của chúng, không cách nào chối cãi.
Trên bình diện kế hoạch tiêu diệt Cộng sản Hà Nội, ta không thể không tính đến yếu tố Bắc Kinh. Làm thế nào để vô hiệu hóa ảnh hưởng và cán bộ Bắc Kinh tại Việt Nam và đồng thời đương cự Bắc Kinh “sau khi” tiêu diệt Cộng sản Hà Nội, là một bài toán khó giải cho bất cứ ai tính đến tiêu diệt Cộng Sản Hà Nội, hóa giải chiến lược domino Trung Cộng, để lấy lại độc lập tự do cho Việt Nam. Ngoài ra còn vấn đề tiêu diệt bọn Cộng sản nằm vùng trở lại, núp dưới chiêu bài giáo hội ma giáo quốc doanh gọi là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” và dùng chùa chiền làm căn cứ, địa điểm xuất phát gây rối loạn, tiến tới lật đổ chính quyền quốc gia.
Hiện nay mới chỉ có Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Không Tánh, Đoàn viết Hoạt và bọn Mạng Lưới Nhân Quyền, Mặt trận Kháng chiến Ma, và bọn GHPGVNTN nằm vùng hải ngoại tại Hoa Kỳ ra mặt. Hiện nay, Cộng sản không dám công khai hoạt động hải ngoại tại Hoa Kỳ vì vấn đề đang “bang giao tốt đẹp với Hoa Kỳ”. Mọi hoạt động Cộng sản tại Hoa Kỳ đều do Mặt Trận Kháng Chiến Ma ra mặt, giật dây với GHPGVNTN, Hội đồng Liên Tôn và các tổ chức chính trị ngoại vi, và bè lũ báo chí đài phát thanh, bồi bút cò mồi quốc doanh. Chúng tung hứng lẫn nhau với nhiệm vụ xóa hẳn hận thù Cộng sản và lái hướng chống Cộng sang hướng sống chung hòa bình với Cộng sản, chỉ “xin” tí ti nhân quyền, dân chủ, và tự do tôn giáo.
Chúng không bao giờ nghĩ rằng chúng đang ở trong cái thế chết. Sớm hay muộn thì Bắc Kinh cũng giết chết. Nếu không thì khi tiêu diệt Cộng sản, người quốc gia Việt Nam sẽ phải tiêu diệt bọn chó săn nằm vùng quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang và tập thể sư công an.
Toàn bộ GHPGVNTN với hơn 30,000 sư công an đảng viên Cộng sản loại nòng cốt, trung kiên nhất, chiếm ngụ hơn 10,000 chùa chiền trên toàn quốc, và hơn 200 ngôi chùa tại hải ngoại ( Hoa Kỳ và Canada) . Những chùa này và tăng ni quốc doanh Cộng sản GHPGVNTN đã trở thành ổ hoạt động Cộng sản nằm vùng, với đầy đủ tiền bạc phương tiện, kể cả các phương tiện tuyên truyền dối trá, bịp bợm, gian ngoan, và sẵn sàng đánh phá bất cứ chính quyền quốc gia nào sau này, để cướp lại chính quyền.
Chủ nhiệm Tổng Cục Phản Gián, tướng Dương Thông, một người “biết quá nhiều” và có thể tiêu diệt các cán bộ thân Bắc Kinh, đã bị hạ sát ngày 27 tháng 4, 1995. Dương Thông được coi là tai mắt của chế độ. Mất Dương Thông, Cộng sản Hà Nội đã trở thành điếc, mù, mặc tình cho cán bộ Bắc Kinh thao túng. Đến đầu năm 1996 thì người quốc gia tung ra Đại Sát Lệänh tiêu diệt Cộng sản trước khi đại hội Đảng kỳ 8 nhóm họp ngày 28 tháng 6, 1996. Đại Sát Lệnh này đã được cán bộ Bắc Kinh tích cực thi hành để tiêu diệt và loại bỏ gần như toàn bộ lãnh đạo Cộng sản phe người Việt. Đầu tiên là Trần văn Trà, đã từng đi Mỹ tham quan với Nguyễn thị Định, ngày 20 tháng 4, 1996. Vài ngay sau đến lượt Đào Duy Tùng và hàng chục cán bộ ít tên tuổi hơn. Trà và Tùng đều được đưa gấp đi Tân Gia Ba chữa bệnh. Trà chết hẳn, còn Tùng thì sống sót nhưng ngớ ngẩn, não bộ hỏng vì thuốc độc làm cho tê liệt và mất trí, và không dám trở về Việt Nam.
Phải đến cuối năm 1997, để khỏi mang tiếng giết đồng chí, thượng tướng Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, đã buộc Tùng phải trở về Việt Nam cho y mang ra trình diện rằng còn sống. Tùng đã ra sân khấu với vẻ ngơ ngẩn, mất hồn. Tùng chết mấy tháng sau đó, đầu năm 1998. Người miền Bắc đều hiểu rằng tổng bí thư Lê Khả Phiêu là một thứ đao phủ của Bắc Kinh để tiêu diệt những người Cộng sản Việt Nam, có tinh thần truyền thống chống Bắc Kinh.
Sau Tùng đến lượt thứ trưởng Ngoại Giao Lê Mai bị giết ngày 12 tháng 6, 1996. Mai là “kiến trúc sư” thực hiện hiệp ước Thương Mại với Hoa Kỳ. Mai có triển vọng lên chức bộ trưởng Ngoại Giao sau khi ký kết hiệp ước Thương Mại xong. Sau Lê Mai đến Nguyễn đình Tứ, tân ủy viên bộ Chính Trị, một người thân Nga và chống Tầu, bị giết ngay buổi tối ngày 28/6/96, sau khi khai mạc đại hội Đảng vào buổi sáng.
Tháng 6 năm 1995, Võ văn Kiệt và phe thân Mỹ đã soạn thảo xong “Cương Lĩnh thân Mỹ” (pro-American political platform) cho Đại Hội Đảng, với nhiều hy vọng sẽ đưa Đảng Cộng sản Hà Nội vào con đường “thân Mỹ chống Tầu”. Bắc Kinh phản ứng, gửi Bí thư tỉnh ủy Giang Tây (Jiang Xi) đến Hà Nội trong mấy tuần lễ vào tháng 11, 1995, để viết Cương Lĩnh Mao Ít, theo Trung Quốc. Cương lĩnh này đã được áp dụng cho Đại Hội Đảng kỳ 8 và có hiệu lực cho đến Đại Hội Đảng kỳ 9 năm 2001 (nếu đảng Cộng sản còn sống).
Cũng trong thời kỳ đại hội đảng kỳ 8 năm 1996, một màn thanh trừng, tiêu diệt các đảng viên thân Mỹ đã xẩy ra và hoàn toàn bí mật. Hàng trăm đảng viên đã bị loại.
Người Mỹ sững sờ và trở nên dè dặt khi họ thấy Cộng sản Hà Nội không hoàn toàn tự do đi với Mỹ. “Đi với Mỹ” đã trở thành bản án tử hình cho bất cứ đảng viên nào. Cán bộ Bắc Kinh thâm độc ở điểm họ “mặc kệ” cho cán bộ người Việt hoạt động với Mỹ. Nếu “được” cái gì thì càng hay. Nhưng dù “được” hay “không được” thì cái “tội” đi với Mỹ, hứa hẹn với Mỹ, đều là tội tử hình hay loại bỏ.
Người Mỹ thì ngẩn ngơ khi thấy cán bộ người Việt ra mặt, nói chuyện, thương thảo, hứa hẹn cam kết đủ thứ. Để rồi những kẻ hứa hẹn đó biến đâu mất, chỉ còn những bộ mặt ngu ngốc, ngớ ngẩn, “đám ma” để nói láo, nói lếu cho qua. Chính các giới chức Mỹ cũng trở thành “nói láo” khi báo cáo tốt đẹp về những chuyện thương lượng cam kết của phía Hà Nội. Các doanh gia Mỹ và quốc tế thừa hiểu rằng những kẻ ăn tiền và hứa hẹn ngày hôm nay thì ngày mai đã biến mất tiêu, để đưa các bộ mặt khác ra, để rồi lại có yêu cầu mới, vòi vĩnh mới, luật lệ mới và ăn tiền cũng mới nốt!
Ngày 22 tháng 3, 2000, thủ tướng CS Phan văn Khải phải ký sắc lệnh hủy bỏ khoảng 600 loại “giấy phép con” trước ngày 1 tháng 7, 2000. Loại giấy phép lẻ loi này không căn cứ vào luật, mà do các địa phương “chế tạo” ra để làm tiền các doanh gia, doanh nghiệp để có cơ hội sách nhiễu, làm tiền, đòi điều kiện thì dụ như cung cấp xe hơi, “bao” du lịch tu nghiệp, tham quan....
Tuy nhiên, một số nhân viên ngoại giao Mỹ không có tầm vóc hiểu nổi tình huống chính trị và chiến lược vô cùng phức tạp tại Việt Nam, đã cố gắng làm hết sức để tiến tới ký kết hiệp ước Thương Mại với Hà Nội. Họ giúp đỡ Cộng sản nhiều ưu tiên, quyền lợi, và dẹp tan mọi mưu toan và hành động chống Cộng của người Việt quốc gia. Những giới chức ngoại giao này quá kiêu căng. Họ coi là họ đi đúng đường. Họ tin tưởng là Trung Cộng không dám trực diện đối đầu với Mỹ tại Việt Nam. Họ tin tưởng là Cộng sản sẽ phải theo Mỹ, thay đổi từ đỏ sang xanh, và trung thành với Mỹ để tìm đường sống. Họ tin tưởng Cộng sản Hà Nội sẽ dám chống Bắc Kinh và có khả năng động viên toàn thể nhân dân Việt đứng lên chống xâm lăng phương Bắc. Những nhà ngoại giao ngây thơ người Mỹ không thể hiểu rằng các nước Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Cao Miên, Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Miến Điện .... đều do những người gốc Hoa (ethnic Chinese groups) nắm toàn bộ chính trị, kinh tế và quyền lực.
Những nhà ngoại giao Mỹ phải hiểu rằng nhân dân Việt Nam căm thù Cộng sản thấu xương. Họ phải tiêu diệt Cộng sản và hoan nghênh bất cứ ai, kể cả Trung Cộng, giúp họ tiêu diệt Cộng sản. Cộng sản phải bị tiêu diệt để Việt Nam sống. Chỉ có một dân tộc việt Nam độc lập, tự do, mới có thể đương đầu với những đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc! Dù sao thì tình hình chiến lược tại Á Châu đã trở nên thuận lợi tốt đẹp về phía Hoa Kỳ khi những nhà ngoại giao Mỹ ngây thơ bị gạt bỏ qua một bên. Vấn đề Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai là “chiến lược”, không phải ngoại giao!
Vào năm 2003, Trung Cộng đã thành công chiếm lĩnh Việt Nam bằng số cán bộ người gốc Hoa. Bắc Kinh không cần dùng quân đội theo đường lối xâm lăng thông thường. Những tên người gốc Hoa Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Phạm văn Trà, Nguyễn văn Hưởng, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên, Vũ Khoan, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Võ viết Thanh, Trương Mỹ Hoa... đã công khai ra mặt làm chó săn cho Tầu và nhận mệnh lệnh từ Bắc Kinh. Chính bọn này đã tiêu diệt đầu não Cộng sản người Việt Nam.
Trên phương diện nhiều kẻ thù, thì dân tộc Việt Nam đã dùng Cộng sản Tầu tiêu diệt Cộng sản người Việt và bớt đi một kẻ thù. Ta có thể ước lượng sau chuyến đi của ông Cohen trước đây, đến Hà Nội, một số tướng CS người Việt sẽ bị loại bỏ hay thủ tiêu. Đến một ngày nào đó, những người quốc gia Việt Nam sẽ tiêu diệt tập thể lãnh đạo Cộng sản người gốc Tầu tại Hà Nội.
Trước ngày 30/4/1975, Tổng Thống Ford đã báo động là coi chừng sẽ có tắm máu nếu Cộng sản chiếm được Miền Nam. Phải chăng Tổng Thống Ford ngụ ý vụ thảm sát Tết Mậu Thân có thể tái diễn khắp Miền Nam, hay ông được báo cáo trước là Cộng sản có tiêu lệnh thanh toán tất cả những người làm việc trong guồng máy chính quyền quốc gia?
Ngày 30/12/1974, Việt Cộng khởi sự tấn công và chiếm Phước Long. Chúng tàn sát tập thể khoảng 5,000 quân nhân và công chức VNCH các cấp bị kẹt trong vòng vây, không thể thoát ra. Ngày 2/1/1975, Tổng thống Thiệu quyết định bỏ Phước Long, không tiếp viện.
Sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 9/3/1975, ngày 15/3/1975, theo lệnh của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II, đã ra lệnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên theo liên tỉnh lộ số 7B, một con đường nhỏ dài 260 cây số xuyên rừng núi để xuống Tuy Hòa. Khoảng 40 vạn dân các tỉnh Pleiku, Kontum, Phú Bổn và khoảng 60,000 quân vùng II đã đi trong 13 ngày về tới tỉnh Phú Yên. Dọc đường, nhiều sư đoàn Cộng sản chận đường, tấn công tàn sát hơn 300,000 dân, phần lớn là đàn bà và trẻ nhỏ gia đình binh sĩ, và khoảng 40,000 quân sĩ. Đây có thể là cuộc thảm sát kinh hoàng và dã man với nhiều nạn nhân nhất của Cộng sản tại miền Nam trong suốt cuộc chiến.
Vùng I cũng bị chết rất nhiều, có thể đến 100,000 quân quốc gia và khoảng 50,000 dân và gia đình binh sĩ. Tổng cộng riêng trong hai tháng 3 và 4/1975, miền Nam đã bị Cộng sản tàn sát hơn nửa triệu thường dân và binh sĩ. Tuy Cộng sản tàn sát những người này nhưng Tổng Thống Thiệu cũng có “công” góp vào cái chết của họ.
Ngày 28/3/1975, Cộng sản chiếm tỉnh Tuy Hòa, Phú Yên. Lập tức chúng gom tất cả công chức, quân nhân toàn tỉnh được khoảng 15,000 người và sửa soạn cho họ tắm máu ngay lập tức. Một số người này là những người mới thoát nạn trên con đường máu, tử lộ số 7B, từ Pleiku về. Đêm hôm đầu chúng tàn sát khoảng 2,000 người. Đêm hôm sau hơn 6 ngàn người. Chúng giải nhiều nạn nhân đến bờ sông Đà Rằng đập vào đầu bằng búa và bắn chết rồi ném xác xuống sông. Tại các nơi tập trung khác, máu người bị giết chết chảy như suối hay thành vũng. Những người chưa bị chúng giết phải đào hố chôn xác tập thể. Đến ngày hôm sau, viên chánh án tòa án Nhân Dân Cộng sản (tên là Chiêu) và một sĩ quan quân đội Bắc Việt, thấy sự tàn sát quá thảm khốc, dã man, vội báo cáo cho Lê Duẫn, lúc đó đang ở Ban Mê Thuột.
Lê Duẫn vội họp tham mưu và quyết định ra lệnh cho tỉnh ủy Tuy Hòa phải ngưng vụ thảm sát. Vì nếu tin thảm sát lộ ra ngoài thì quân dân miền Nam sẽ tử chiến đến cùng. Một nhân chứng trong vụ này và cũng quen biết chánh án Chiêu chính là dân biểu “hai chế độ”, hay là cán bộ Cộng sản nằm vùng tên là Nguyễn Công Hoan. Hoan đã đắc cử Dân Biểu Việt Nam Cộng hòa. ”.( cũng như dân biểu “hai chế độ”, Trần Văn Sơn hay Trần Bình Nam) .Sau khi Cộng sản chiếm miền Nam, Hoan lại đắc cử đại biểu Quốc hội Cộng sản. Hoan vượt biên sang Mỹ khoảng tháng 4/1978. Trần Văn Sơn hay Trần Bình Nam hiện cư ngụ tại bang California, y có viết cho một vài tờ báo lá cải tại điạ phương lấỳ tên là Trần Bình Nam
5. Người Mỹ dung túng cho sinh viên Cộng sản nằm vùng được xuất ngoại đi học tại Hoa Kỳ.
Trong thời gian từ 1960 đến 1975, sinh viên các đại học Sài Gòn cũng chia làm nhiều phe tranh đấu. Người thì theo chính phủ, người thì theo GHPGVNTN. Nổi nhất là Tổng Hội Sinh Viên, nhưng hội này đã bị cán bộ Cộng sản nằm vùng cầm đầu để trờ thành một công cụ hỗ trợ cho GHPGVNTN Ấn Quang.
Những sinh viên lý lịch Cộng sản và không quốc gia như Nguyễn Thái Bình và sinh viên đại học Vạn Hạnh và các đại học khác tại Sài Gòn... thường được người Mỹ cho đi Hoa Kỳ du học và tha hồ hoạt động chính trị chống quốc gia và phản chiến tại Hoa Kỳ. Nguyễn Thái Bình sau này bị giết vì tội không tặc trên một chuyến máy bay về Việt Nam, lúc đó đã gần ngày 30/4/1975. Có lẽ Nguyễn Thái Bình quá cuồng tín, không chịu “theo” Mỹ, và có thể sẽ phanh phui câu chuyện bị Mỹ dụ dỗ, nên phải bị giết để diệt khẩu!
Nhiều sinh viên Cộng sản nằm vùng khác, cũng từ Mỹ về, thì được yên ổn tiếp tục hoạt động Cộng sản ngay trong các trường đại học với tư cách giáo sư. Chúng giữ bí mật đảng tịch và chức vụ gián điệp, phản gián trong đảng Cộng sản. Đảng bộ đại học Vạn Hạnh, Hòa thượng Thích Minh Châu là một cán bộ Cộng sản vào hàng thâm niên, trên 60 tuổi đảng. Thích Minh Châu cũng làm viện trưởng Học viện Phật học. Đại Học Vạn Hạnh và Học Viện Phật Học được tổ chức tinh vi để đào tạo cán bộ Cộng sản loại “có học” để đưa vào hàng cán bộ lãnh đạo Giáo hội PGVNTN quốc doanh trong âm mưu thay thế đảng Cộng sản.
Cộng sản Hà Nội rất sợ CIA (Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ). Ta có thể nói rằng Cộng sản Hà Nội bị "hội chứng CIA" (the CIA syndrome). Cộng sản Hà Nội nhìn ai cũng thấy là kẻ thù của chúng. Và chúng nhìn bất cứ ai cũng nghi là nhân viên CIA nhất là những người làm cho Mỹ, có quốc tịch Mỹ, sinh viên học bên Mỹ hoặc từ Mỹ về. Thành thử cán bộ sinh viên đi du học và trở về hoạt động Cộng sản, đều phải là thứ đảng viên trung kiên nhất, sắt máu nhất.
Đoàn Viết Hoạt rất thận trọng trong điểm này. Khoảng năm 1970, khi đang đi học cùng với Trần Thị Thức. Hoạt làm đám cưới với Thị Thức. Khi vợ y có bầu, Hoạt cương quyết buộc vợ phải về Việt Nam sinh con rồi sang Mỹ trở lại. Hoạt không muốn con mình sinh ở Mỹ và lấy khai sinh người Mỹ.
Tuy nhiên vấn đề và mức độ hoạt động của CIA tại Việt Nam rất tinh vi và khó biết. Cộng sản thiếu cán bộ “có học” nên miễn cưỡng dùng bọn sinh viên cán bộ từ Mỹ về. Nhưng chúng vẫn canh chừng bọn này rất kỹ. Manh nha có gì khác ý là chúng thủ tiêu ngay. Cộng sản canh chừng những tên cán bộ thuộc băng Vạn Hạnh như Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ rất chặt chẻ không cho tiếp xúc với bất cứ ai bên ngoài. Những tên này đều mang cấp bậc cao trong Trung Ương Đảng. nếu những tên này phản thùng tiết lộ điều gì cho CIA thì kể như đảng Cộng sản sẽ chết với người Mỹ.
Từ sau khi công bố bang giao tháng 7/1995, một số sinh viên du học trong đó có cán bộ, gián điệp, con cán bộ giàu được đi Mỹ dưới danh nghĩa du học sinh. Các “tổ đảng” (party cells) được tổ chức trong các đại học Mỹ có sinh viên từ Việt Nam Cộng sản. Các “phòng liên lạc” thay cho Lãnh sự quán cũng được đặt tại Los Angeles, San Diego, Washington D.C... Tất cả đều kiểm soát chặt chẻ các sinh viên du học từ Việt Nam. Khi Trần Trường làm nổ vụ treo cờ và ảnh cộng sản tại quận Cam thì “tổ đảng” tại đại học Syracuse, New York, cũng ra chỉ thị cho các tổ đảng các nơi cũng phải treo cờ treo ảnh cộng sản.
Các “tổ đảng” có dụng ý và mục đích “đường dài” (long-term purposes). Chúng sẽ lan rộng và hầu hết sinh viên gốc Việt Nam tại Mỹ. Trong vài thế hệ, các sinh viên này sẽ trở thành bị bắt buộc phải làm việc như gián điệp kỹ thuật cho Cộng sản Hà Nội trong các ngành điện tử và quốc phòng Hoa Kỳ. Làm chó săn loại “trí thức” cho cộng sản thật là nguy hiểm. Chúng phải cố gắng hết sức để tỏ lòng trung thành với đảng Cộng sản. Nhưng Cộng sản không bao giờ hoàn toàn tin cậy bọn này. Chúng chỉ dùng những tên tốt nghiệp đi học Mỹ về cho nhu cầu kỹ thuật nào đó, nhưng không bao giờ giao cho các chức vụ quan trọng. Trước sau gì thì bọn này cũng bị Cộng sản loại bỏ hay giết chết. Giả thử người quốc gia tiêu diệt Cộng sản thì bọn sinh viên, sư tăng quốc doanh làm chó săn Cộng sản cũng bị giết trước tiên.
Một vài giới chức Hoa Kỳ cũng giả bộ thân mật với bọn cán bộ Cộng sản “học Mỹ” này. Nhưng họ có nhiều dụng ý khác nhau, và uyển chuyển thay đổi theo thời thế. Điểm rõ ràng là người Mỹ biết rõ mọi hoạt động của Cộng sản Hà Nội tại Hoa Kỳ. Họ để yên cho cán bộ Cộng sản hoạt động để tiện dò xét. Họ hiểu rằng những hoạt động này chỉ gây được tiếng vang nho nhỏ kéo dài được vài ba ngày và không có chiều sâu, trong dư luận báo chợ Việt Nam hải ngoại.
Trong những năm từ 1972 đến 1978... các cán bộ sư quốc doanh như Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ... của đảng bộ Vạn Hạnh được đề cao với hải ngoại là những người có học, có bằng cấp Hoa Kỳ , để gây uy tín “trí thức” cho GHPGVNTN Ấn Quang. Cán bộ Cộng sản hải ngoại tạo ra cảnh tượng bịp bợm rằng Trí Siêu và Tuệ Sỹ bị Cộng sản “xử tử hình” nhưng không có lý do và cũng không chết. Chúng hô hoán rằng bị “tù” mấy chục năm nhưng không tù thật. Tóm lại chúng không hề hoạt động gì gọi là chống Cộng để đến nỗi bị tử hình hay bị tù.
Cộng sản gian ngoan ở điểm vẫn sống nhăn, vẫn làm việc bóp méo lịch sử, vẫn bình an vô sự nhưng miệng vẫn hô rằng bị tử hình “oan” bị xử án “oan” và bị xử tù “oan” mà thật ra không có gì xảy ra! Khôi hài hơn nữa là bọn cò mồi, báo và đài của bọn cán bộ Cộng sản hải ngoại vẫn trơ tráo trắng trợn tung hô, tâng bốc và đề cao rằng đó là những nhà “tranh đấu” nhân quyền, những người “dám” dấn thân tranh đấu với Cộng sản! Chúng tưởng như vậy là đã đánh lừa được người hải ngoại phải tôn vinh bọn nhà quê này, và người Mỹ phải đổi hướng chính sách, chính trị.
Bộ máy tuyên truyền báo chí thân Cộng và tuyên vận Cộng sản ở hải ngoại loan truyền những chuyện bịa đặt này. Nhưng ở trong nước hoàn toàn yên lặng , không ai nghe thấy những tên Quảng Độ, Tuệ Sỹ, Trí Siêu và Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Chí Thiện , Vũ Thư Hiên là ai? Chúng nhằm gây uy tín và tiếng tăm với quốc tế và hải ngoại để tạo một cái “vốn chính trị”. Cái vốn chính trị này sẽ giúp GHPGVNTN an toàn, xóa tên “quốc doanh” không sợ người quốc gia sẽ giết chúng vì tội làm Cộng sản. Một mặt khác là chúng thấy Cộng sản sớm muộn gì cũng sụp đổ như Cộng sản Liên Xô. Chúng làm ra vẻ không dính líu gì đến Cộng sản. Nhưng không ai thấy chúng nói năng một chút xíu gì đến tội ác Cộng sản. Chúng không hề đả động đến vấn đề Cộng sản cai trị bạo tàn trong hơn 50 năm qua. Chúng đánh lừa, muốn làm cho mọi người Việt hải ngoại quên hẳn các hoạt động và thành tích Cộng sản của chúng.
Giả thử Cộng sản sẽ bị tiêu diệt nay mai thì bọn sư “trí thức quốc doanh Cộng sản Vạn Hạnh” này có thể thoát nạn để tiếp tục hoạt động gây uy tín và lãnh đạo GHPGVNTN. Chúng tin với thành tích bịp bợm “đã” bị Cộng sản “xử tử hình”, có thành tích bị Cộng sản “bỏ tù” lại có tiếng tăm với hải ngoại quốc tế, thì chính quyền mới sẽ không dám giết chúng. Nhân dân trong nước đã biết rõ ràng mặt thật của chúng, và sẽ thẳng tay xử bọn này, không phải người hải ngoại. Vả lại khi thời thế thay đổi, thì chính sách Hoa Kỳ sẽ thay đổi. Lòng người Việt Nam cũng sẽ thay đổi. Họ sẽ vùng lên tiêu diệt những gì dính líu đến Cộng sản Nội Xâm, Nội Thù.
Thật là tiện lợi khi chính các giáo sư thân Cộng lại khéo léo dụ dỗ các sinh viên nhẹ dạ hoạt động trong các tổ chức và phong trào tranh đấu Cộng sản. Nói đến Đại Học Vạn Hạnh, người ta hiểu ngay là tập thể giáo sư tại đó, từ Viện trưởng Thích Minh Châu trở xuống và các Khoa trưởng, và hầu hết Ban Giảng Huấn và một số sinh viên đều là cán bộ quốc doanh hoạt động cho Cộng sản hoặc đã bị tuyên truyền nhồi sọ để theo Cộng sản.
Có lẽ vì vậy mà trong năm 1974 sang đầu 1975, Viện trưởng Thích Minh Châu, Chính ủy Nguyễn Trực, Viện Phó Đoàn Viết Hoạt và Ban Giáo sư Giảng Huấn Vạn Hạnh đã thành lập được 1 sư đoàn Đặc Công với hơn 7,000 sinh viên và thanh niên Phật tử hăng hái, cuồng tín, chống chính quyền quốc gia và căm thù Mỹ Ngụy với hơn 6,000 khẩu súng, để chuẩn bị tiếp ứng cho bộ đội Cộng sản và bắn sau lưng quân đội Việt Nam Cộng Hòa, khi Cộng sản tiến quân vào thành phố Sài Gòn.
Một số cán bộ nằm vùng và tăng ni quốc doanh được Cộng sản cài cho đi Mỹ trước và sau 30/4/1975, trong dịp di tản, theo các diện vượt biên, đoàn tụ gia đình, ODP, HO,... và vẫn được hoạt động Cộng sản công khai tại Mỹ cho đến ngày nay 2003. Các cán bộ quốc doanh và tuyên vận Cộng sản đã có đủ hậu thuẩn tiền bạc, thế lực để ra báo, ra đài, lập hàng ngàn chùa chiền trong mấy chục năm qua tại Hoa Kỳ. Họ vẫn có vẻ bình yên, bình chân như vại. Nhưng thật khó mà biết rằng ai là Cộng sản giả, ai là Cộng sản thật, ai là quốc doanh và ai là gián điệp nhị trùng? Cũng không ai có thể đoán rằng sự nghiệp của bọn cán bộ nằm vùng sẽ kết thúc thê thảm tới mức nào?
6. Tại sao GHPGVNTN Ấn Quang lại nguy hiểm hơn đảng Cộng Sản?
Đến ngày nay, Cộng sản Hà Nội vẫn không dám nhắc đến vụ thảm sát Tết Mậu Thân. Chúng không dám nhắc đến vụ thảm sát trên đường 7B và Tuy Hòa. Chúng ra vẻ không trực tiếp ra lệnh đó. Thật ra đó là “tiêu lệnh” (Standing order) quen thuộc của Cộng sản: mỗi khi cướp chính quyền hay chiếm được địa phương nào, hay trong bất cứ trường hợp nào có thể, thì phải tàn sát tất cả thành phần công chức, thương gia, tôn giáo, quân đội, cảnh sát... để làm sạch guồng máy chính trị địa phương, để cướp đoạt tài sản, và để tiêu diệt mọi mầm mống có thể lãnh đạo dân chúng nổi loạn hay chống đối.
Bọn sư quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang chính là bọn cán bộ Cộng sản nằm vùng nguy hiểm nhất cho toàn dân Việt Nam. Chúng nằm ngay trong dân chúng, chúng nghe ngóng, dò la bất cứ nhân sự hay hoạt động nào chống Cộng. Chúng rỉ tai tuyên truyền phật tử. Chúng làm như là chúng tu hành, hiền lành, đạo đức lắm. Từ thập niên 1990s, bọn tăng ni quốc doanh GHPGVNTN chuẩn bị mạnh mẽ để có thể tồn tại khi Cộng sản bị thay đổi hay tiêu diệt. Chúng sẵn sàng thay thế Cộng sản và nắm chính quyền.
Bọn tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang rất sợ dân tộc Việt Nam “không thể quyên” nguồn gốc, nòi giống Lạc Việt, và nhìn thấy rõ bộ mặt ma quỷ quốc doanh của chúng. Tinh thần Lạc Việt chắc chắn sẽ trở lại và phục hoạt mạnh mẽ trong mỗi người Việt ngay sau khi Cộng sản bị tiêu diệt. Mỗi người Việt đều nhớ công ơn tổ tiên Âu Lạc, các vua Hùng Vương đời Hồng Bàng. Truyền thống Lạc Việt đã giúp cho dân tộc Việt Nam, nòi giống Việt Nam, tồn tại hơn 5 ngàn năm qua cho đến ngày nay. Do truyền thống Lạc Việt mà mọi người Việt nhìn thấy ngay sự vong bản của tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang khi chúng muốn bóp méo lịch sử, Khoe rằng chính Giáo hội Phật Giáo Quốc Doanh đã có công “mở nước, dựng nước trong hơn 2 ngàn năm qua” (Kiến Nghị 9 điểm của Tăng Thống quốc doanh Thích Huyền Quang ngày 25/61992).
Muốn thay thế Cộng sản thì bọn tăng ni GHPGVNTN phải xóa bỏ truyền thống Lạc Việt để thay thế bằng lý thuyết Phật giáo. Chúng không đợi đến khi dân tộc Việt Nam diệt xong Cộng sản. Chúng hoạt động ngay từ đầu thập niên 1990s để thay thế chủ thuyết cộng sản bằng giáo lý Phật giáo, với nhân sự Cộng sản nguyên vẹn.
Nếu ta nghiên cứu hoạt động của Thích Quảng Độ, Thích Trí Siệu, Thích Tuệ Sỹ và báo chí, sách vở của tăng ni GHPGVNTN trong nước và hải ngoại, ta thấy chúng có giọng lưỡi viết lại, bóp méo lịch sử Việt Nam để “tẩy não” người Việt. Chúng hy vọng các thế hệ người Việt sau này sẽ tin tưởng “lịch sử” Việt Nam theo ý chúng viết. Chúng không bao giờ dám viết lịch sử về tội ác đẫm máu của Cộng sản đối với cả nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. Chúng không bao giờ dám viết lên những sự kiện lịch sử như việc Giáo hội PGVNTN hoạt động Cộng sản đánh phá các chính quyền quốc gia, và đón rước cộng sản vào chiếm miền Nam từ năm 1963 đến 1975. Chúng không dám nhắc đến hơn 2 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi để tị nạn Cộng sản. Vì nếu nói ra thì phải kể rằng Cộng sản quá tàn ác nên dân chúng đều muốn bỏ nước ra đi. Chúng hy vọng các thế hệ trẻ hải ngoại và trong nước sẽ không biết đến quá khứ đẫm máu, đầy tội ác Cộng sản của chúng.
Bọn tăng ni quốc doanh và cán bộ tuyên vận cò mồi nhân quyền ở hải ngoại vô cùng thận trọng. Ta thấy chúng không bao giờ dám nói đến tội ác Cộng sản. Chúng chỉ “đòi” nhân quyền một cách bịp bợm vì cộng sản làm gì có “nhân quyền” mà cho ai? Thành thử mà ta có thách thức, chúng cũng không dám chửi Cộng sản hay nói đụng đến lãnh tụ Cộng sản đương quyền. Với tư cách cán bộ Cộng sản, chúng chỉ sai lầm một câu nói, một câu viết là có thể bị trừng trị và giết chết. Chúng làm bộ làm đơn, thỉnh nguyện, kiến nghị (nhưng không bao giờ gởi cho chính quyền Cộng sản) để khoe với người hải ngoại rằng chúng khiếu nại, ăn mày ăn xin này nọ để có dịp khéo léo đề cao và công nhận chế độ, tên tuổi, chức vị các lãnh tụ Cộng sản của chúng.
Cộng sản cũng không dám nói rằng tăng ni, cư sĩ và một số thanh niên phật tử của GHPGVNTN vùng Thừa Thiên Huế đã giết người với tính cách địa phương. GHPGVNTN vùng Thừa Thiên Huế, Liên Khu 5 và toàn thể Việt Nam với toàn bộ hơn 10,000 chùa chiền trên toàn quốc, và hơn 200 ngôi chùa tại hải ngoại ( Hoa Kỳ và Canada) vẫn là một công cụ được việc, một ổ công an gián điệp chìm của chế độ Cộng sản, và Cộng sản cần phải duy trì để có dịp xử dụng sau này.
Khi tiêu diệt Cộng sản thì hãy quét sạch sẽ các chùa chiền. Phải thu hồi toàn bộ chùa chiền trả lại cho chính quyền nhân dân quản lý. Phải đặt các tăng ni quốc doanh của GHPGVNTN và Giáo Hội Quốc Doanh, vì tuy 2 nhưng vẫn là 1, và các “nhân sự”, cán bộ trong các tổ chức ngoại vi Cộng sản trong Mặt Trận Tổ Quốc ra ngoài vòng pháp luật.
7. Biến Đảng thành Đạo và Biến Đạo thành Đảng
Cộng Sản Hà Nội và GHPGVNTN liên tay tìm cách tồn tại dưới hình thức GHPGVNTN công an trị để thành thế Cộng sản công an trị. Cộng sản và tăng ni quốc doanh âm mưu xử dụng nhiều phương án khác nhau để tồn tại. Khi tính trước thấy tình hình sẽ nguy hiểm, Đảng Cộng sản sẽ thoát xác đội lốt thành “đạo” hay là GHPGVNTN, để bảo toàn nguyên vẹn chủ lực, ta gọi đó là “Biến Đảng thành Đạo” . Đảng Cộng sản sẽ “bị” GHPGVNTN “tiêu diệt”, “tha hóa”, và cán bộ cao cấp của đảng sẽ thành tăng ni tuốt luốt. Nhưng chúng chưa ngưng ở đó. Bọn cán bộ cộng sản giả tăng ni sẽ mau chóng “Biến Đạo thành Đảng” để tiếp tục hoạt động khủng bố công an trị, cướp chính quyền và khống chế cả nước, dưới chiêu bài “tôn giáo Phật”.
Ngay từ năm 1990-1991, Cộng sản Hà Nội và Phật giáo VNTN đã phối hợp tìm phương án ẩn nấp và tồn tại trong trường hợp chế độ Cộng sản bị lật đổ như ở Rumani. Nhân dân và cả công an đã phẫn nộ đi tìm vợ chồng tên Tổng Bí Thư Ceaucescu và nhiều cán bộ cao cấp khác để giết tại chỗ. Vì bất ngờ, bọn này không có đường chạy trốn và không biết chạy đi đâu nên đã bị đám đông cuồng nộ giết chết hết. Một số lớn công an, cán bộ Cộng sản cũng hùa theo nhân dân để tìm giết lãnh đạo Cộng sản.
Lãnh đạo Cộng sản Hà Nội đã bàn tính với Thích Trí Quang và đầu não GHPGVNTN chuẩn bị chạy trốn trong các chùa. Từ tháng 11/1981, GHPGVNTN đã họp đại hội kỳ 1 để “cải tạo tiêu diệt” 21 Giáo hội Phật giáo khác và chiếm đoạt hơn 10,000 chùa chiền (tự viện) trên toàn quốc, và đã trở thành giáo hội quốc doanh chính thức của Hà Nội. Để chuẩn bị đối phó với nhân dân nổi loạn, các chùa cần phải dự trử lương thực, vàng bạc, đôla và kể cả máy vi tính, máy in, truyền tin, điện thoại. Khi có biến loạn các cán bộ cao cấp sẽ chạy trốn trong các chùa. Chúng sẽ cạo đầu xuống tóc giả làm sư. Chúng sẽ đứng nhởn nhơ ngay trước chùa để xem đám đông cuồng nộ đang đi tìm giết những tên Cộng sản và công an cấp nhỏ địa phương.
Với tư cách “tăng ni” Phật giáo, bọn sư giả hiệu này sẽ mau chóng ra “lãnh đạo” nhân dân nổi dậy để làm một cuộc “cách mạng” chống Cộng ! Lúc này không có lãnh đạo nào khác nắm các đám đông ngoài các tăng ni GHPGVNTN! Không ai, trừ người Mỹ có thể ngờ rằng chính cán bộ Cộng sản làm cách mạng tiêu diệt Cộng sản để xóa tên Cộng sản!
Cuộc cách mạng “Phật giáo” này thành công thì GHPGVNTN cũng xóa luôn được tên “quốc doanh” và được đi vào lịch sử là đã tiêu diệt được Cộng sản vì vậy mà tội ác cuộc thảm sát Tết Mậu Thân vẫn được che đậy để duy trì hệ thống chùa chiền quốc doanh do sư công an GHPGVNTN quản lý. Mọi người đều ngậm miệng và không ai nói ra thủ phạm.
Sau khi thỏa thuận dùng PGVNTN và chùa chiền làm một thứ cách mạng kiểu mới hay là đảo chánh giả, Cộng sản Hà Nội và tăng ni quốc doanh và GHPGVNTN ra nhiều phương án khác nhau để tùy cơ, tùy thời hành động.
Một phương án là cho Thích Huệ Đăng (Nguyễn Ngọc Đạt) chuẩn bị biểu tình với khoảng 200,000 người để làm cách mạng, đảo chánh giả bất cứ lúc nào, khi lòng dân phẩn nộ lên cao và xuống đường, biểu tình, bạo động, nổi loạn. Vào năm 1990-1991, Cộng sản Hà Nội tưởng rằng sẽ có tòa Đại Sứ Mỹ tại Hà Nội rất sớm. Thích Huệ Đăng sẽ cho biểu tình ngay trước tòa Đại sứ Mỹ để biểu diễn làm "cách mạng" như ở Đông Âu. Nhưng vì Hoa Kỳ chậm trễ gởi đại sứ Mỹ đến Hà Nội nên phương án này không được xử dụng. Vì tin đồn lộ liễu ra đến ngoài nên Thích Huệ Đăng phải bị bắt “giả” và bỏ tù giả để làm ăng ten dò tin những tù nhân chống Cộng khác và được tiếng là sư tăng GHPGVNTN chống chính phủ.
Một phương án khác là cho cán bộ cầm đầu Đại Học Vạn Hạnh, ta gọi “băng Vạn Hạnh”, ra mở màn diễn đàn tự do, tù nhân lương tâm nhân quyền Cộng sản với các sư Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Phó viện trưởng Đoàn Viết Hoạt. Phương án này có nhiều mục đích gây tiếng vang với hải ngoại là có “chống đối” ngay trong nước. Che khuất cuộc tranh đấu "một mình" của bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Tiếng Anh gọi thủ đoạn này là “ăn cắp ánh đèn sân khấu” (to steal the limelight) của bác sĩ Quế.
Cũng cùng “ăn cắp” luôn cả sự tranh đấu chống Cộng thầm lặng của toàn dân Việt Nam bằng cách làm cho quốc tế và mọi người hải ngoại chỉ chú ý tới chúng, mà quên hẳn dân tộc Việt Nam, quên hẳn sự cai trị tàn ác của Cộng sản tại Việt Nam.
Bộ máy tuyên vận Cộng sản cố gắng tạo tên tuổi và nổi danh tại hải ngoại cho các cán bộ tăng ni, giáo sư Vạn Hạnh mà từ trước tới nay chưa ai biết tên tuổi. Chúng tính thu hút quần chúng hải ngoại và đưa những tên tuổi này lên thành “lãnh tụ” người hải ngoại cho mục đích hòa giải hòa hợp với Cộng sản, đòi Cộng sản phải dân chủ hóa, phải giải thể nhằm mục đích xóa bỏ mọi mưu toan dùng vũ lực tiêu diệt Cộng sản Hà Nội. Luận điêu tuyên truyền tung ra hải ngoại là vấn đề dùng vũ lực chiến tranh chống Cộng đã lỗi thời, không được Hoa Kỳ và quốc tế hưởng ứng. Vậy chỉ còn cách duy nhất là tranh đấu hòa bình và tìm cách sống chung với Cộng sản trong tinh thần dân chủ đa nguyên, với diễn tiến hòa bình và hy vọng Cộng sản sẽ thay đổi, đổi mới.
Bộ máy tuyên vận Cộng sản và quốc doanh hải ngoại hoạt động rất uyển chuyển. Chúng đe dọa rằng chúng mạnh và được người Mỹ ủng hộ, trước sau gì thì cũng nắm chính quyền. Chúng gây “uy tín” với khủng bố đe dọa ngầm làm cho các trí thức hay chính trị gia hải ngoại, và các tôn giáo khác, kể cả Công giáo, phải hùa theo chúng và liên minh, liên hiệp với chúng.
Vì không thể đoán trước được thời thế sẽ biến chuyển ra sao, và vì không hề có sự ủng hộ của người Mỹ, nên bọn tăng ni quốc doanh GHPGVNTN và bộ máy tuyên vận Cộng sản hải ngoại rất lo âu ví chúng không có bước đi rõ rệt. Chúng không biết ai sẽ làm lãnh tụ quốc gia tiêu diệt Cộng sản? Chúng không biết những ẩn số chính trị của người Mỹ. Chúng không bao giờ được tiếp xúc với quyền lực Hoa Kỳ. Chúng quá ngu dốt thấp kém nên không thể hiểu nổi các tính toán siêu chiến lược và hoạt động, hành động hay nước cờ mà người Mỹ sẽ đi trong tương lai. Chúng không dám hoạt động Cộng sản công khai hay lộ liễu vì tuy người Mỹ công bố bang giao với Cộng sản Hà Nội nhưng họ vẫn giữ thái độ lạnh lùng dửng dưng.
Bọn tăng ni quốc doanh và tuyên vận Cộng sản vẫn gây ấn tượng với người Mỹ và người Việt hải ngoại rằng trong nước vẫn có tự do phát biểu, chống đối và đối lập với các “tù lương tâm nhân quyền Cộng sản”. Có chống đối mà nhà nước Cộng sản vẫn khoan hồng độ lượng. Gây chú ý quốc tế vào những cán bộ trá hình thành tù nhân nhân quyền và lương tâm Cộng sản mà không nhìn thấy hàng ngàn trại tù và hàng triệu tù nhân khác.
Chúng gây ấn tượng Việt Nam không còn là một cái nhà tù khổng lồ, và những người chống đối vẫn được đối xử tử tế... gây ấn tượng là Cộng sản đã thay đổi vì “sợ” bị lật đổ như ở Đông Âu. Gây ấn tượng rằng chính Cộng sản cũng muốn xóa bỏ Cộng sản để thành dân chủ và có nhân quyền. Tạo bộ mặt cải tổ và thay đổi thành dân chủ để được Mỹ công nhận và bang giao. Tạo phương tiện điển hình và lý do cho cán bộ tuyên vận hải ngoại hoạt động với mục đích lái các hoạt động chống Cộng sắt máu sang hướng hòa giải hòa hợp, bất bạo động...
Nhưng chúng không ngờ rằng người Mỹ và quốc tế vô cùng khôn ngoan. Họ đóng kịch rất khéo. Họ làm ra vẻ tin tưởng màn kịch bịp bợm của chúng. Họ ra vẻ tin tưởng chúng, thân mật với chúng, và lơ là người quốc gia, lơ là vấn đề chống Cộng hay tiêu diệt Cộng sản. Nếu nhìn kỹ, ta thấy chính quyền Mỹ rất ít nói và rất dè dặt. Trái lại, những “dư luận” mà ta thấy trên các báo lá cải, báo chùa, báo chợ và đài phát thanh rẻ tiền thì chỉ là muối bỏ biển, hay là tiếng chó tru trong đêm vắng, không có ảnh hưởng gì đến chính trị và chiến lược của Hoa Kỳ. Chuyện chính trị hay nhân quyền thì phải có sức mạnh hay lực lượng hùng mạnh hậu thuẫn đứng đàng sau, thì mới nói. Chính khách Cộng sản được Hà Nội cho đi chính thức công khai ra hải ngoại, chỉ có người không với Mác Cộng Sản to tổ bố, mà nỏ mồm “đòi” nhân quyền nhưng không làm gì cả, thì đúng là một lũ bịp nhà quê, chỉ biết bịp bợm theo kiểu ngu dốt, bần cố nông, chứ ai có thể tin? Sư quốc doanh Cộng sản Thích Quảng Độ quả xứng đáng được đề nghị giải Nobel “hòa bình Cộng sản” vì nếu có “hòa bình” thì Cộng sản Hà Nội mới sống lâu và giáo hội quốc doanh Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới tồn tại làm “quốc giáo Cộng sản”! Tội nghiệp cho giáo hội Công Giáo trong Hội Đồng Liên Tôn, đóng vai chầu rìa mà chẳng ăn thua gì! Cộng sản sống thì chỉ có GHPGVNTN quốc doanh được “ăn có”. Khi Cộng sản bị tiêu diệt thì giáo hội Công Giáo lại mang tội cấu kết, bang giao, hợp tác với Cộng sản!
Phải chăng Giáo hội Công Giáo đã hết thời nên mới làm chính trị lối ngu xuẩn như vậy? Phải chăng giáo hội Công giáo còn thích thú cái thời kỳ “đoàn kết” với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Quốc Doanh những năm 1964, 1965, 1966 để đánh phá các chính quyền quốc gia và để báo thù cho Tổng Thống Công giáo Ngô đình Diệm? Phải chăng Giáo Hội Công Giáo lúc nào cũng phải cấu kết với bạo quyền, bất cứ bạo quyền nào, từ thực dân đến Cộng sản, để dựa thế lực và tiếp tục bành trướng giáo hội?
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã hăng hái về Washington DC để trực tiếp điều hành chương trình vận động Tự Do Tôn Giáo cho Việt Nam trong vòng 2 năm tới. Linh mục Lễ tin rằng với sự hỗ trợ của “tôn giáo”, người dân Việt Nam đã mạnh dạn bầy tỏ nguyện vọng và thái độ bất mãn qua các cuộc biểu tình chống đối chế độ...”
Chúng tôi xin nhắc lại cho linh mục Lễ rằng tinh thần chống Cộng của dân tộc Việt đã trở thành một thứ truyền thống chung của toàn thể dân tộc Việt Nam, không phải nhờ đến giáo hội của ông “dậy bảo”. Mấy triệu người vượt biên, vượt biển đi hải ngoại là do động lực tinh thần chống Cộng thúc đẩy họ, không phải do giáo hội Công Giáo hay Phật giáo quốc doanh. Chúng tôi cũng xin nhắc cho linh mục Lễ nên biết phân biệt tôn giáo thiêng liêng cao cả với các vị Chân Sư siêu phàm, hoàn toàn khác với các giáo hội ma mãnh, tham lam, ngu dốt, do những người lãnh đạo phàm tục tổ chức, và chỉ thích cấu kết với các bạo quyền.
Chúng tôi xin nhắc cho linh mục Lễ biết rằng chính giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Công Giáo quốc doanh đang cấu kết với Cộng sản, đã trở thành các tổ chức ngoại vi Cộng sản trong Mặt Trận Tổ Quốc. Linh mục Lễ và giáo hội Công Giáo không nên bắt cá ba bốn tay, vừa “tự do tôn giáo” làm giáo hội quốc doanh Cộng sản, vừa muốn bang giao bắt tay với chế độ Cộng sản lại vừa muốn khoe rằng nhân dân nổi dậy là do “sự hỗ trợ của tôn giáo”! Cuộc nổi dậy ở Thái Bình và khu Tư từ năm 1997 đến nay hoàn toàn do nhân dân tự phát, không có bất cứ giáo hội nào nhúng tay vào! Chúng tôi không quên năm 1975, chính Tòa Tổng Giám Mục Saigon, do mệnh lệnh từ Vatican, đã niêm yết cấm giáo dân di tản, giáo dân ở đâu ở đó, để làm sức mạnh hậu thuẫn chính trị cho Giáo hội Công Giáo.
Linh mục Lễ không thông minh chút nào khi “ngài” chỉ lo ngồi ở bên Mỹ, thúc đẩy đấu tranh “ma” ở trong nước, trong khi mặc nhiên công nhận sự tồn tại hiện hữu của chế độ Cộng sản và sự bang giao vui vẻ với giáo hội Công giáo Vatican, giáo hội Mẹ của “ngài”.
Chúng tôi khẳng định với linh mục Lễ rằng chúng tôi có sẵn động lực căm thù Cộng sản và tinh thần chống Cộng cao độ của cả nước, cả dân tộc Việt Nam. Chúng tôi sẽ dùng vũ lực chiến tranh tiêu diệt Cộng sản và tập thể ma giáo quốc doanh trong Mặt Trận Tổ Quốc. Chúng tôi sẽ tiêu diệt toàn bộ cán bộ Cộng sản giả tăng ni GHPGVNTN ẩn núp trong các chùa chiền toàn quốc. Chính quyền Việt Nam Quốc Gia trong tương lai sẽ không bao giờ bang giao với Vatican vì Vatican không bao giờ từ bỏ tham vọng khuynh đảo chính trị Việt Nam để tái lập giáo hội, gia đình, gia nô công an trị!
Chúng tôi nghĩ rằng linh mục Lễ nên trở về nghề nghiệp linh mục thì hơn là nhẩy ra làm chính trị, tranh đấu cuội, để dọa dẫm áp lực Cộng sản phải bang giao với Vatican và cho phép Giáo Hoàng đến thăm Việt Nam. Cộng sản đã hi vọng và vẫn còn hi vọng rằng Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ, có lệnh từ Vatican, đang vận động ráo riết với chính quyền Hoa Kỳ để ký kết hiệp ước này nọ với Hà Nội. Tháng 7 năm 1999, tổng giám mục Phạm Minh Mẫn đã được Cộng sản cho phép “tự do” đi Hoa Kỳ để nói với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ vận động chính quyền Mỹ ký kết hiệp ước Thương Mại và do đó cứu sống Cộng sản Hà Nội. May cho dân tộc Việt Nam là chính quyền Mỹ, vì lý do chiến lược và an ninh Hoa Kỳ và toàn thế giới, đã “không” mắc lừa Cộng sản.
Linh mục Lễ nên hiểu rằng giáo hội Vatican đang cố gắng giúp đỡ Cộng sản bằng mọi giá để được sự hợp tác của Cộng sản. Linh mục Lễ nên hiểu rằng dân tộc Việt Nam chúng tôi đã chán ngấy cái cảnh đạo đức giả, chính trị ma mãnh của Vatican. Vatican bất chấp nguyện vọng muốn tiêu diệt Cộng sản của dân tộc Việt Nam. Vatican chỉ thích dựa vào thực dân Pháp rồi Cộng sản, hay bất cứ bạo quyền nào, để cả hai “cùng đồng tâm” tiêu diệt người quốc gia Việt Nam!
Tổng Cục Phản Gián và bọn cò mồi quốc doanh không ngờ rằng “đề nghị giải Nobel Hòa Bình” chỉ là đề nghị bánh vẽ. Thích Quảng Độ và Đoàn viết Hoạt “chưa bao giờ” được coi là chính khách chính trị gia có tầm vóc quốc tế và đại diện chính trị của dân tộc Việt Nam. Đề nghị giải Nobel hòa bình có tới hơn 150 người, Quảng Độ chỉ là một.
Không ai coi Thích Quảng Độ là Mandela của Việt Nam. Quảng Độ và bọn cò mồi quốc doanh đã nhầm khi chỉ chú trọng “đòi” tự do tôn giáo, đòi nhân quyền, nhưng không bao giờ đòi dẹp bỏ chế độ và nhân sự Cộng sản. Ông Nelson Mandela thì khác. Ông Mandela không đòi tự do, nhân quyền hay đòi người Da Trắng phải bỏ kỳ thị. Ông Mandela thẳng thừng đòi người Da Trắng phải trao trả chủ quyền “hoàn toàn” cho người bản xứ da đen để tránh sự tàn sát.
Ông Mandela đang ở “tù thật” và được chính quyền Mỹ vận động mạnh mẽ “buộc” chính quyền da trắng Nam Phi phải cho ông ra khỏi tù. Sau đó hãng Coca Cola chi 16 triệu đôla cho cựu tù Mandela sang Mỹ “bán chính thức”. Tại Mỹ, ông Mandela được đón tiếp như quốc khách, được ra trước Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ trong sự hoan nghênh nồng nhiệt. Khi trở về Nam Phi, chính quyền Da Trắng sửa soạn tổng tuyển cử và ông Mandela đương nhiên đắc cử Tổng Thống và tổ chức chính quyền Da Đen thay thế. Người da trắng mừng vì tránh được chiến tranh đổ máu và cuộc tàn sát khủng khiếp. Tài sản và sinh mạng của người da trắng được bảo vệ với quyền lợi đầy đủ.
Ở Việt Nam thì khác hẳn. Thích Quảng Độ và Đoàn viết Hoạt chỉ được Tổng Cục Phản Gián tung ra hải ngoại với tính cách cò mồi bánh vẽ “đòi nhân quyền, tự do tôn giáo” để bịp người hải ngoại. Thích Quảng Độ và Đoàn viết Hoạt cũng được thêm các tổ chức ngoại vi của Mặt Trận Tổ Quốc là Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất quốc doanh, Hội Đồng Liên Tôn Quốc Doanh, Mặt Trận Kháng Chiến Phục Quốc Quốc Doanh Phở Tái Hoàng Cơ Minh, Mạng Lưới Nhân Quyền Quốc Doanh, Liên Minh Việt Nam Tự Do Quốc Doanh, Phong Trào Trẻ Quàng Khăn Đỏ Dấn Thân, Thanh niên Quốc Doanh Phan Bội Châu... ủng hộ liên minh và hoạt động như một Mặt Trận Cò Mồi để bịp người Việt hải ngoại.
Chính quyền Mỹ chưa bao giờ tỏ thái độ hay cử chỉ công nhận Thích Quảng Độ hay Đoàn viết Hoạt là những chính khách, lãnh tụ chân chính của dân tộc Việt Nam. Không bao giờ họ đối xử với hai tên này như họ tôn trọng ông Mandela. Ngay cả bộ Chính trị và chính phủ Cộng sản Hà Nội cho đến nay vẫn chưa được người Mỹ tiếp đón chính thức. Cũng không có cả sự đối thoại chính trị vì hai tên chó săn quốc doanh này “không bao giờ” dám kêu gọi phải tiêu diệt Cộng sản.
Tổng Cục Phản Gián và Hà Nội đã bị những bài báo chợ lòe bịp và tưởng rằng hai tên cán bộ cò mồi quốc doanh này đã thành công chính trị hải ngoại. Nếu Thích Quảng Độ, Đoàn Viết Hoạt, Thích Tuệ Sỹ và toàn băng Mafia GHPGVNTN Vạn Hạnh còn chút liêm sỉ, biết thân biết nhục, thì nên câm họng, chui đầu vào đâu mà trốn, không nên chường mặt bịp ra nữa.
Có bao giờ ta thấy Thích Quảng Độ, Đoàn viết Hoạt, báo Người Việt, Việt Báo Kinh Tế, Mạng Lưới Nhân Quyền, Hội Đồng Liên Tôn, Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh, Liên Minh Việt Nam Tự Do, và bọn Phong Trào Tuổi Trẻ “quàng khăn đỏ” Dấn Thân, Hội Chuyên Gia quốc doanh, Thanh niên quốc doanh Phan Bội Châu... nói năng gì đến “độc lập tự do cho quốc gia, dân tộc” và vấn đề cần phải tiêu diệt Cộng sản? Chúng chỉ đòi tự do... tôn giáo và hòa bình sống chung, để cứu sống chế độ Cộng sản.
Người Việt quốc gia không có báo, không có đài phát thanh, và đứng trong bóng tối. Như vậy rất dễ nhìn rõ ràng mặt mũi bọn tăng ni, giáo hội quốc doanh và chó săn cò mồi, tay sai Cộng sản. Cộng sản nuôi bọn ăn hại này thì làm nên trò trống gì? Cộng sản tin tưởng những trò bịp bợm của bọn này thì sẽ chết không có chỗ chôn. Cộng sản hi vọng sẽ trốn vào trong chùa thì chính các chùa sẽ là tử địa, sẽ là nơi chúng bị tàn sát để được tắm trong máu của chúng.
Cần phải dùng chiến tranh vũ trang lật ngược thế cờ ở Việt Nam hiện nay và tiêu diệt Cộng sản và đồng bọn chó săn cò mồi quốc doanh, để mang lại độc lập, tự do và sự trường tồn cho tổ quốc dân tộc Việt Nam. Cán bộ Cộng sản Thích Quảng Độ và đồng bọn đồng chí quốc doanh, cò mồi cứ làm “cán bộ hòa bình nhân quyền Cộng sản”. Dân tộc Việt Nam chỉ thích dùng chiến tranh vũ trang tiêu diệt Cộng sản và bọn chó săn cò mồi quốc doanh nhân quyền. Để xem ai sẽ thắng?
Nói thật với các đồng chí tăng ni quốc doanh GHPGVNTN và các đồng chí cò mồi nhân quyền, cò mồi chê Đảng, cò mồi phê Đảng để xây dựng Đảng, và bọn văn nô bồi bút báo chùa, báo chợ quốc doanh rằng chúng tôi đã treo sẵn án tử hình trên đầu các đồng chí! Đảng viên Cộng sản cầm thẻ đảng thì có thể tha. Nhưng các đồng chí quá nguy hiểm, quá gian ngoan, tráo trở, giảo quyệt và vô cùng thâm độc, tàn ác, thì bắt buộc chúng tôi phải hạ sát lệnh tiêu diệt các đồng chí. Các đồng chí có thể hi sinh vì đảng Cộng sản và sẽ thành liệt sĩ Cộng sản. Lệnh truy nã sẽ theo đuổi truy diệt các đồng chí đến cùng, cho đến khi nào các đồng chí chết mới thôi. Dân tộc Việt Nam cần phải tiêu diệt các đồng chí, và đó là một cái giá quá rẻ để được sống trong hòa bình, ổn định.
Sự đời “Cùng tất biến, biến tất thông!” Việt Nam đã ở đường cùng, trên bờ vực thẳm của sự diệt chủng do tay Cộng sản. Dân tộc Việt Nam đã chịu đựng muôn vàn đau thương, tang tóc trong gần 2 thế kỷ đã qua. Cái thế “biến” tất phải có để làm lối thoát chấm dứt một giai đoạn lịch sử và để mở một giai đoạn lịch sử mới .
Người Mỹ có bổn phận phải giúp Việt Nam tiêu diệt Cộng sản. Nhưng giúp hay không giúp còn tùy theo lương tâm và sự khôn ngoan chiến lược của lãnh đạo Hoa Kỳ. Yếu tố duy nhất để làm thăng bằng cán cân quân sự và ổn định chính trị tại Á Châu, trớ trêu thay, lại là khối 80 triệu người dân Việt Nam! Nhưng cho đến giờ này, tháng 1/2003, chưa ai biết cách nào để sử dụng khối nhân lực hùng mạnh này.
8. Sư quốc doanh Thích Quảng Độ và những thủ đoạn dùng cò mồi của Cộng sản.
Vào năm 1999, song song với chiều hướng chính trị có vẻ thuận lợi cho Cộng sản Hà Nội – ký hiệp ước thương mại với Hoa Kỳ – bọn cò mồi nhân quyền, các tổ chức và nhân sự chính trị, kháng chiến ma mãnh, các tổ chức “liên tôn ma giáo”, tăng ni quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang đều nín khe, không dám lên tiếng chống đối cuộc ký kết hiệp ước thương mại được ấn định vào đầu tháng 9/1999. Bọn này công khai ra mặt “không” chống Cộng.
Tin ngày 31/8/1999. Công an khủng bố HT Quảng Độ, nửa đêm đập cửa chùa hăm dọa.
Paris. Công an Sài Gòn đang tung ra đợt khủng bố mới nhằm vào Hòa thượng Thích Quảng Độ, theo lời Hòa thượng kể cho một biên tập viên tạp chí Thông Luận tại Paris hôm Chủ Nhật 29/8.
Trong cuộc nói chuyện qua điện thoại, Hòa thượng cho biết là vừa phải vào bệnh viện rửa ruột, trong khi bệnh tiểu đường vẫn hành hạ và gây nhiều biến chứng trong đường tiêu hóa. Hòa thượng cho biết bây giờ đi lại rất khó khăn vì chân yếu đi.
Đặc biệt, Hòa thượng kể rằng vào đêm 13/8, lúc 12:30 đêm, một toán công an tới gõ cửa chùa, đòi gặp “ông Quảng Độ”. Các nhà sư nói, chùa không tiếp khách ban đêm, có gì các ông trở lại sáng mai. Băng công an này làm dữ, dọa phá cửa chùa vào. Các thầy vẫn không chịu mở, viên chỉ huy ra lệnh phá cửa, nhưng khi sắp phá thì lại thôi.
Hòa thượng Quảng Độ cho rằng “người ta bắt tôi trong đêm để không ai biết. Không biết rồi họ sẽ làm gì đây? Tôi chờ đợi.” Trong cuộc nói chuyện này, Hòa thượng tỏ ra vui vẻ, nói đùa rất nhiều trong cuộc nói chuyện.
Ta thấy ngay cái trò hề bịp bợm của Thích Quảng Độ. Công an Cộng sản nào dám bắt sư quốc doanh nhà nước? Để đến khi nhân dân Việt Nam tiêu diệt Cộng sản rồi xem Quảng Độ và tập thể tăng ni Ấn Quang, Vạn Hạnh sẽ bị bắt và tiêu diệt ra sao?
Đảng Cộng sản thường xử dụng cán bộ cò mồi ra vẻ chống đảng và phê bình đảng Cộng sản, để lôi cuốn những đảng viên khác nói theo và chống theo. Những đảng viên mắc mưu cò mồi lên tiếng hùa theo chửi đảng hay phê đảng đều bị bắt giết, thủ tiêu vì tội phản đảng. Cộng sản gọi đó là thanh lọc đội ngũ cán bộ đảng viên. Thanh trừng nội bộ là truyền thống đặc biệt của Cộng sản. Khi Cộng sản ngả theo Liên Xô thì cán bộ loại thân Trung Cộng bị gạt sang một bên, hoặc giết hoặc cho về hưu. Khi đảng Cộng sản manh nha theo Mỹ thì chính đảng Cộng sản tung cò mồi để bắt giết những cán bộ đảng viên tỏ vẻ thân Mỹ và nhìn đâu cũng thấy CIA, nên sự thanh trừng đảng viên manh nha khen Mỹ hay thích Mỹ đã trở thành sự cần thiết phải có.
Biết đảng viên miền Nam bất mãn với đảng và quen lối làm giàu, thích Mỹ, nên đảng Cộng sản đã ra lệnh cho Nguyễn Hộ và Trần văn Trà lập ra “Câu Lạc Bộ những người Kháng Chiến Cũ” ở miền Nam vào những năm 1985, 1986. Kết quả có khoảng 15,000 đảng viên miền Nam loại nòng cốt, công lao nhiều, nhưng dám lên tiếng chống đối Cộng sản Bắc Kỳ, đều đã bị giết hoặc thủ tiêu.
Sau đó năm 1988, Bùi Minh Quốc, Đỗ Trung Hiếu, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Hữu Loan đã làm một chuyến đi dài từ Nam ra Bắc để làm cò mồi chống đảng. Kết quả, con đường máu của bọn cò mồi này đã đầy xác chết của khoảng 10,000 đảng viên! Từ 1977 đến 1984, tại miền Nam đã có nhiều cuộc đảo chánh “cò mồi” và đã có nhiều đảng viên loại cao cấp bị mang ra Bắc để hỏi tội, kể tội rồi thủ tiêu luôn.
Khi một người bị Cộng sản bắt tình nghi tội chống đảng hay phản đảng, thì không phải chỉ có một người bị giết. Nhà cửa họ bị tịch thu và vợ con bị đuổi ra ngoài đường. Họ sẽ bị tra tấn đến mức phải khai những người khác, người thân, bạn bè, họ hàng. Và những người này cũng bị bắt, gia đình họ phải tan nát. Và cứ tiếp tục như thế. Thành thử khi một người bị bắt thì có thể xảy ra bị bắt dây chuyền với hàng ngàn người bị bắt theo và hàng ngàn gia đình, con cái, trẻ nhỏ đều bị giam tù hay giết chết trong sự âm thầm, vô danh. Không bao giờ có tin tức nào lọt ra ngoài.
Nếu hiểu thế nào là Cộng sản công an trị với hàng ngàn trại tù và hàng triệu tù nhân, không bao giờ được xử án, hay thời hạn bị giam tù, thì ta hiểu ngay những tên sư quốc doanh và cán bộ được nhà nước Cộng sản tung ra hải ngoại, với tiếng tăm bị xử án, bị tù mà không ở tù, bị xử tử hình mà không chết, gia đình vợ con được Nhà Nước Cộng sản cho đi Mỹ để tiếp tục viết lách, hoạt động, tuyên truyền khéo cho chế độ Cộng sản... đều chỉ là những nhân vật trong một màn kịch nhân quyền bịp bợm do chính Cộng sản dựng lên.
Cộng sản tung cò mồi ra hải ngoại với mục đích xóa sự căm thù Cộng sản, dò tìm và vô hiệu hóa các âm mưu kế hoạch hoặc cá nhân chống Cộng được người Mỹ ủng hộ, lái hướng chống Cộng và ý chí tiêu diệt Cộng sản sang hướng hòa giải hòa hợp bất bạo động, hô hào “xin” Cộng sản ban cho nhân quyền, dân chủ... Chúng bắt tay với bọn chó săn hải ngoại do kháng chiến mafia làm hậu thuẫn với sự công khai hóa bắt tay với Cộng sản dưới chiêu bài liên kết, nối kết “trong ngoài”. Gần đây nhất, bọn cò mồi luôn luôn hô hào rằng “Cộng sản phải giải thể” và “tranh đấu nhân quyền, dân chủ cho Việt Nam”.
Bọn cò mồi đã lộ mặt bịp bợm một cách ngu dốt, nhà quê khi mọi người Việt hải ngoại đều nhìn thấy rõ ràng rằng không ai có thể bắt đảng Cộng sản phải giải thể. Và nếu có nhân quyền dân chủ thì cũng chỉ là nhân quyền dân chủ theo kiểu Cộng sản công an trị. Mọi người đều hiểu rằng nếu Cộng sản “cho” nhân quyền, dân chủ thật sự thì Cộng sản đã tự hủy diệt.
Từ năm 1992 cho đến 1998..., ta thấy những tên tù nhân lương tâm và nhân quyền Cộng sản được báo đảng, đài đảng, báo chùa, báo chợ hải ngoại đánh bóng, đề cao... Hầu hết các báo chùa, báo chợ, báo đảng, đài đảng, kể cả đài Á Châu Tự Do với các nhân vật “không quốc gia” như Nguyễn Ngọc Bích, Ngô Vương Toại, Nguyễn Khanh, Đinh Quang Anh Thái..., đều không có một tiếng nói chống Cộng. Tất cả chỉ xoay quanh vấn đề phỏng vấn và đăng bài những tên có mồi nhân quyền dân chủ, và đồng thời mặc nhiên công nhận sự hiện hữu của chế độ và đảng Cộng sản. Ta cũng thấy rằng năm 1998, cán bộ Cộng sản hải ngoại được chỉ thị cố gắng công khai với người hải ngoại. Vũ Bình Nghi ở San José đã công khai phỏng vấn tổng lãnh sự Cộng sản Nguyễn Xuân Phong, cũng nằm trong mục đích làm cho nổi bật sự hiện diện của chính quyền Cộng sản. Hoàng Cơ Định, lãnh tụ Mặt Trận kháng chiến (nhưng chỉ bán phở) Hoàng Cơ Minh cũng lên tiếng bênh vực Vũ Bình Nghi.
Người Việt hải ngoại đã lạnh lùng thờ ơ vì tự nhiên trong thâm tâm họ, chẳng ai có cảm tình và tin được một lũ cán bộ Cộng sản và những tên đón gió trở cờ rất ngu ngốc, nhà quê, mà lại cứ lên mặt ta đây trí thức, khoe bằng cấp và muốn làm lãnh tụ! Những tên Cộng sản ra hải ngoại đóng kịch đòi nhân quyền dân chủ vào giờ thứ 25 thì làm sao cứu được chế độ Cộng sản?
Người Mỹ tỏ vẻ ủng hộ, hỗ trợ cho bọn cò mồi Cộng sản này. Chắc chắn người Mỹ phải biết chúng là Cộng sản và hoạt động cho Cộng sản. Nhưng tại sao người Mỹ lại để yên cho chúng hoạt động? Tại sao người Mỹ tỏ vẻ lơ là với công cuộc chống Cộng? Tại sao lại chỉ có những tố chức chống Cộng “ma”, kháng chiến “ma”, chính phủ “ma” để cho Cộng sản yên tâm rằng hải ngoại không có bất cứ hoạt động chống Cộng sản hữu hiệu nào? Nếu tìm hiểu sâu xa, ta thấy rằng một vài cá nhân hay tổ chức, thân cộng hay chống Cộng, dù có vỗ ngực xưng danh cũng chẳng làm nên trò trống gì. Chống Cộng và tiêu diệt Cộng sản là một vấn đề chiến lược quốc gia và siêu quốc gia, quân sự và siêu quân sự. Hầu hết các chiến lược gia trên thế giới đều không nghĩ ra hay đoán ra cái thế chiến lược bí hiểm này!
Một phương án khác là sửa soạn cho GHPGVNTN thay thế đảng Cộng sản và dùng lý thuyết Phật giáo thay thế lý thuyết Cộng sản. Kế hoạch này sẽ cứu sống nhân sự Cộng sản. Nếu tồn tại, những nhân sự Cộng sản này sẽ hoạt động đánh phá các chính quyền quốc gia cho đến khi cướp lại được chính quyền. Trong trường hợp người Mỹ ủng hộ GHPGVNTN làm đối lập chính trị với Cộng sản theo kiểu dân chủ đa nguyên trong diễn biến hòa bình, thì GHPGVNTN và nhân sự lãnh đạo Cộng sản vẫn nắm chính quyền, chỉ thay thế cái tên Cộng sản.
GHPGVNTN vẫn gắn bó với Cộng sản như một tổ chức ngoại vi hàng đầu từ mấy chục năm qua, thì làm sao mà người Mỹ hay người ngoài có thể tin? Lại còn cái tên “quốc doanh” do nhân dân Việt đặt tên từ năm 1975, thì làm sao xóa bỏ?
Từ năm 1992, Tăng Thống quốc doanh Thích Huyền Quang và tổng bí thư GHPGVNTN Thích Quảng Độ ký tên và Cục Phản Gián gửi nhiều bản điện thư tranh đấu ra hải ngoại. Tiền gởi hàng chục ngàn trang giấy điện thư đi khắp báo chí, đài phát thanh trên thế giới từ năm 1990, có thể đã tốn hàng triệu đôla. Ta có thể hiểu ngay là chỉ có Tổng Cục Phản Gián mới có thể đài thọ chiến dịch “điện thư” tranh đấu cuội này.
Trong khi đó thì Huyền Quang vẫn nói rằng bị “quản chế” tại chùa, với công an vây bọc 3 vòng trong ngoài! Hỏi ra thì “ngài” Tăng thống quốc doanh Thích Huyền Quang của GHPGVNTN làm Ủy viên Chủ tịch, Chủ tịch đoàn Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc kiêm đại biểu Quốc Hội Cộng sản, kiêm Ủy viên Trung Ương Đảng... vẫn ở trong chùa Hội Phước lộng lẫy nguy nga nhất tỉnh Quảng Ngãi. “Ngài” Tăng Thống quốc doanh Thích Huyền Quang được cả một đại đội công an bảo vệ rất kỹ càng, vòng trong vòng ngoài, đi đâu có xe ô tô đưa đón, chứ không có bao vây gì ráo!
Sau loạt bài Hoa Sen Đỏ lột trần mặt nạ sư quốc doanh, Thích Huyền Quang từ bỏ Tăng Thống mà dùng chữ xử lý thường vụ Viện Tăng Thống (ma). Danh từ Tăng thống cũng khó dịch sang tiếng Anh trong các bản văn phát ra hải ngoại. Nếu dịch là Monk President thì nghe nó kệch cỡm, đầy vẻ cao ngạo, ngu xuẩn. Làm sư thì làm sư, chứ sao lại là “Tổng Thống Sư”? Người nghe có thể mỉa mai là “Monkey President”! Huyền Quang cũng đóng kịch bị quản chế ở chùa khác. Thật ra thì mỗi khi có khách nước ngoài đến thăm, như trường hợp trước đây Phó Tham Vụ tòa đại sứ Mỹ David Young đến phỏng vấn đầu tháng 12/1999, thì Huyền Quang tạm ra ngoài ở một cái chùa nhỏ hơn với công an bảo vệ, để tiện tiếp khách.
Trong bản kiến nghị 9 điểm đề ngày 25/6/1992, Thích Huyền Quang đã vong bản phản bội tổ tiên Hồng Lạc tới mức khoe rằng 80% dân chúng cả nước hay là 56 triệu người (1992) kể cả đàn bà và trẻ con mới đẻ đều là phật tử, con Phật, ngụ ý gần hết cả nước Việt Nam là “con dân” của GHPGVNTN. Thích Huyền Quang cũng vong bản khi khoe rằng GHPGVNTN của y có công “mở nước, dựng nước” trong hai ngàn năm qua! Năm 1997, Đinh Văn Thanh tức Thích Giác Lượng còn khoe rằng 90% dân chúng Việt Nam (72 triệu người) là Phật tử!
Phải chăng Thích Huyền Quang và tập thể tăng ni GHPGVNTN đã vong bản tới mức quên rằng dân tộc Việt Nam là con Hồng, cháu Lạc và tổ tiên người Việt từ đời Hồng Bàng đã mở nước, dựng nước từ 5 ngàn năm trước? GHPGVNTN mới thành lập tại chùa Xá Lợi ngày 1/1/1964, mà bọn tăng ni Cộng sản dám vong bản hỗn láo với tổ tiên rằng chúng đã mở nước dựng nước từ hai ngàn năm trước! Chúng nhập nhằng nói rằng chúng “là” Phật giáo trong khi chúng chỉ là một giáo hội “giả” Phật giáo với cán bộ Cộng sản giả làm tăng ni!
Huyền Quang và Quảng Độ cùng rêu rao là Nhà Nước đã giải tán GHPGVNTN và bắt buộc phải cải tạo thành Giáo hội Nhà nước tức là giáo hội quốc doanh. Thật ra thì GHPGVNTN vẫn nguyên vẹn là một công cụ ngoại vi của Cộng sản, với quy chế họp đại hội 5 năm 1 lần ngang bằng với đảng Cộng sản và Mặt Trận Tố Quốc, không bao giờ thay đổi.
Năm 1995, khi Hoa Kỳ công bố thiết lập bang giao với Hà Nội, bọn sư quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang và hải ngoại thấy Cộng sản có vẻ tồn tại vĩnh viễn, chắc chắn hơn thời điểm năm 1991 và 1992. GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ thấy không cần phải chia đôi, cách ly với nửa bên trong nước và chúng gọi là “giáo hội quốc doanh”. Chúng liền tính làm một màn “thống nhất” hai giáo hội trong và ngoài nước làm một như cũ. GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ đã họp trong 2 ngày 16 và 17/9/1995 tại chùa Việt Nam do Thích Mãn Giác làm chủ chùa, Los Angeles, California để thống nhất 5 giáo hội Phật giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại.
Trong Tuyên Ngôn Chung có câu: 3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tuyệt đối không kỳ thị đối với tăng ni, phật tử nào. Giáo hội luôn luôn thân ái, đoàn kết với tất cả tăng ni, phật tử như nước với sữa, như ánh sáng với không gian, cùng nhau chung góp tài lực xây dựng và phát triển Phật giáo khắp nơi tại hải ngoại cũng như tại quê nhà.
Và thư gởi Chư Tôn Đức lãnh đạo Phật giáo Việt Nam quê nhà.
Chúng tôi “nguyên” là các thành viên trong Hội Đồng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Việt Nam, đã cùng nhau họp mặt thân mật vào các ngày 16 và 17 tháng 9, 1995, tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ, xin kính lời về chấn an chư tôn đức.
Kính thưa Chư Tôn Đức,
Chúng tôi họp mặt nơi đây để cùng nhau nghiêm túc trao đổi các tin tức và suy nghĩ về hiện tình con đường đi tới của Phật Giáo Việt Nam...
Kính thưa Chư Tôn Đức,
Để có được một nền Phật Giáo Việt Nam vững mạnh thì con đường đi tới chỉ có thể là con đường hợp nhất cùng nhau xây dựng một Giáo hội thực sự của Phật giáo...
Nay kính
Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Hòa Thượng Thích Huyền Vi, Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn, Hòa Thượng Thích Hộ Giác...
Thế là sau 3 năm phân biệt rằng giáo hội PGVNTN trong nước là quốc doanh, còn GHPGVNTN hải ngoại không phải là quốc doanh, đã được chấm dứt bằng sự hợp nhất, liên kết trong ngoài trở lại như cũ. Các Hòa thượng cũng tự xác nhận rằng mình “nguyên” cựu thành viên trong hội đồng Viện Hóa Đạo trước 1975, hay là trước khi sang Mỹ để trà trộn với người tị nạn Cộng sản và tiếp tục hoạt động quốc doanh.
Trong tất cả mọi tuyên ngôn, tuyên cáo, thông bạch, kiến nghị, tâm thư của tăng ni GHPGVNTN từ năm 1992 đến 1999..., “không bao giờ” có lập trường chống Cộng hoặc kể lể tội ác Cộng sản.
Vào năm 1998, thì GHPGVNTN rõ rệt có thêm hai đầu (three-headed monster) để hoạt động. Đầu chính là GHPGVNTN đã bị nhân dân Việt tặng cho cái tên “quốc doanh” (state-owned) ngay từ năm 1975, ngụ ý giáo hội của nhà nước Cộng sản tạo dựng lên để hoạt động nằm vùng cho Cộng sản tại miền Nam. Đầu chính do Thích Trí Quang cầm đầu với tư cách chính ủy đảng bộ Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Thích Quảng Độ làm Tổng bí thư rồi Viện trưởng Viện Hóa Đạo (1998-1999). Đến cuối năm 1999, Quảng Độ nhường cho Thích Tuệ Sỹ chức vụ Tổng bí thư kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Đầu phụ thứ nhất là đảng bộ Vạn Hạnh do Thích Minh Châu cầm đầu. Đầu này gồm một số nhỏ cán bộ có học tốt nghiệp ở Mỹ. Bọn này hãnh diện tự nhận là “trí thức” và tự coi là giỏi hơn các cán bộ Cộng sản dốt nát bần cố nông. Đảng bộ Vạn Hạnh và Thích Minh Châu đào tạo cán bộ “trí thức” để sau này dễ cầm quyền và đủ chữ nghĩa đối ngoại. Đảng bộ Vạn Hạnh chủ trương viết lại lịch sử, biến lịch sử Việt Nam là con đẻ của Phật giáo quốc doanh từ hơn hai ngàn năm trước. Đảng bộ Vạn Hạnh chủ trương tráo đổi văn hóa và truyền thống quốc gia, dân tộc bằng văn hóa Phật giáo lai căng Cộng sản. Đảng bộ Vạn Hạnh hy vọng sẽ cướp chính quyền và cầm quyền với chế độ Phật giáo công an trị để tiện thay đổi lịch sử và văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Đầu phụ thứ hai là tổ chức Gia Đình Phật Tử. Tổ chức này có mục đích đoàn ngũ hóa, tẩy não và điều khiển tư tưởng các thế hệ trẻ sau này (xin coi đoạn sau về Gia Đình Phật Tử).
9. Thành lập Phong Trào, Mặt Trận, Mạng Lưới cò mồi. Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Tâm và những tên cư sĩ quốc doanh đi Kyoto năm 1970 để tranh đấu đuổi Mỹ và đón Cộng sản vào chiếm miền Nam.
Một phương án khác nữa là thành lập rất nhiều loại Mặt Trận, Liên Minh, Phong Trào, Mạng lưới Nhân Quyền, Kháng Chiến Phục Quốc ma, chính phủ (Việt Nam Tự Do) ma, Liên Quân Kháng Chiến Đông Dương ma, hoàn toàn hữu danh vô thực, không có lực lượng cụ thể. Nhưng loại tổ chức ma này có dụng ý “cò mồi” để gom những người có thực tâm kháng chiến, chống Cộng, những người có tâm huyết vì nước vì dân, kể cả những người ham danh lợi, vào trong vòng kiềm tỏa, kiểm soát và chi phối của chúng.
Về phương diện này, Cộng sản đã thành công một phần nào trong thời gian đầu. Sau này, những danh từ “kháng chiến chống Cộng”, “phục quốc”, “chính phủ ma quốc gia lưu vong” đã trở thành đồng nghĩa với kháng chiến phở bò, phở tái, Mafia, giết người, ăn cướp, bịp bợm, lừa gạt, buôn lậu, buôn bán súng lậu, buôn bán ma túy và băng đảng, ám sát, khủng bố... Những tên cầm đầu, giật dây các tổ chức chính trị, kháng chiến, quốc doanh này đều là cán bộ quốc doanh hoạt động cò mồi cho Cộng sản!
Với chiêu bài kháng chiến và lợi dụng tinh thần hăng say chống Cộng của đồng bào hải ngoại vào những năm đầu thập niên 1980s, bọn kháng chiến ma đã thu được mấy chục triệu đôla của đồng bào hải ngoại. Với số “vốn” này, bọn kháng chiến ma đã mau chóng trở thành tổ chức Mafia khổng lồ như đã nêu trên.
Những phương án khác do Cục Phản Gián thi hành là tung ra hải ngoại bằng điện thư những bản văn gọi là phê đảng sai lầm, đòi Đảng phải thay đổi, phải cởi mở, phải đổi mới, dân chủ... và ký tên các cán bộ Cộng sản cấp cao, trung kiên và hưu trí như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Bảy Liếm, Lữ Phương, Hoàng Tiến, Hoàng Hữu Nhân, Nguyễn Thanh Giang, Phan Đình Diệu... Lý lịch bọn cán bộ này và ban lãnh đạo GHPGVNTN Ấn Quang đều là cấp cao trong ngành công an, phản gián.
Một điều rõ rệt là các bản văn dài đặc đã được gởi bằng điện thư (fax) ra hải ngoại rất tốn tiền, có thể đã đến hàng triệu đôla trong thời gian từ 1990 đến 1998. Người tù hay đảng viên Cộng sản nào mà được phép và có tiền gởi bằng điện thư nhiều như vậy? Cũng phải ghi nhận là báo Người Việt ở quận Cam, California, do Đỗ ngọc Yến làm chủ, đã luôn luôn đăng tải đầu tiên những bản văn cò mồi bịp bợm của Cộng sản từ trong nước gởi ra bằng điện thư, không thiếu một chữ hay một dấu chấm, phẩy. Các báo Thế Kỷ 21 và Văn Hóa cũng cùng một luận điệu với báo Người Việt.
Việt Báo Kinh Tế của Trần Dạ Từ và Nhã Ca thì đặc biệt đăng tải những bản văn của tăng ni quốc doanh Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ và những bài viết bịa đặt do Phòng Thông Tin Phật Giáo của Võ văn Ái ở Paris tung ra.
Đài phát thanh VNCR do Lê Đình Điểu làm chủ ở quận Cam và đài Á Châu Tự Do do Nguyễn Ngọc Bích làm giám đốc phần Việt ngữ với những phóng viên “quen thuộc” như Ngô Vương Toại, Nguyễn Khanh, Đinh Quang Anh Thái, phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc tế của Võ văn Ái tại Ba Lê đã tích cực đến mức trung thành là luôn luôn phỏng vấn và phát thanh những bài viết, bài nói do các cán bộ Cộng sản và tăng ni quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang từ trong nước đưa ra. (Lê Đình Điểu đã chết năm 1999.)
Trong khi tưởng tranh đấu bằng điện thư từ năm 1992 êm xuôi và hầu như không mấy người biết quá khứ thành tích Cộng sản của Thích Huyền Quang, thì như một cái tát vào mặt sư quốc doanh, báo Văn Nghệ Tiền Phong số 456 Tất Niên cuối tháng 1/1995 đã đăng lại bài viết của cố ký giả Lê Triết có bằng chứng với hình ảnh rõ ràng là Thích Huyền Quang, Tổng bí thư (1970) GHPGVNTN Ấn Quang, đã cùng với Thích Thiện Minh , Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Tâm, các cư sĩ quốc doanh Vĩnh Bữu, Ngô văn Giao đến dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình Kyoto ngày 17/10/1970 để hoạt động cho Cộng sản.
Khi dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình Kyoto bị báo chí vặn hỏi chúng trả lời : “chúng tôi không vào rừng rậm nên không thể biết rõ được. Dẫu sao đi nữa họ cũng là người Việt Nam!”
Ngày 17/10/1970, tại Kyoto, Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích Minh Tâm, Vĩnh Bữu và Ngô văn Giao cũng đưa ra 6 điều kiện và có tính cách “ra lệnh”.
Hai bên ngưng bắn vào ngày tết Ất Hợi (đầu năm 1971). Mỹ ngưng mọi cuộc hành quân lùng diệt Việt Cộng, ngưng ném bom B-52, ngưng thả thuốc khai quang. Phía Viết Cộng mà Thích Nhất Hạnh cung kính gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời thì ngưng pháo kích vào khu đông cư dân.
Liên Hiệp Quốc cấp thời chỉ định thành lập Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát cuộc đình chiến gồm có đại diện các nước trung lập và VNCH và Việt Cộng.
Chính phủ quốc gia VNCH phải phóng thích tất cả tù nhân chính trị như sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đang bị giam giữ và tranh đấu cho hòa bình tự chủ cho quốc gia.
Ta không thấy Thích Huyền Quang và Nhất Hạnh đòi Việt Cộng phải thả tù người quốc gia! Trong thời gian từ 1975 đến 1990 và cho đến ngày nay, có hàng triệu người quốc gia bị Cộng sản “tù đày học tập cải tạo” tại miền Nam, ta không bao giờ thấy bọn tăng ni Cộng sản của GHPGVNTN tranh đấu đòi Cộng sản thả họ!
Từ sau năm 1992, chúng giả bộ tranh đấu nhưng chỉ đòi thả những tên “tù” giả hiệu vẫn là sư công an GHPGVNTN hoặc “chính trị gia” của băng Vạn Hạnh như Đoàn Viết Hoạt, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, và băng Ấn Quang như Thích Huyền Quang. “tù” loại này chỉ là “tù nói” hay là chỉ thấy GHPGVNTN “nói rằng” bị tù, vì không thể kiểm chứng và không có bằng chứng gì là “tù thật”!
Trái lại có nhiều bằng chứng cho thấy những người được bộ máy tuyên truyền Việt Cộng nói là ở “tù”, đã không ở tù thật sự! Hành động đòi thả “tù giả”, được gọi là “tù nhân lương tâm và nhân quyền Cộng sản”, thâm độc ở điểm làm cho thế giới, các hội Nhân quyền người Mỹ chỉ chú ý và đòi tha đám tù giả này mà không chú ý đến hàng triệu “tù thật” nạn nhân khác đang bị đày đọa trong hàng ngàn trại tù trên khắp nước Việt Nam. Khi Cộng sản thả “tù giả” và cho vài tên đi Mỹ thì chúng vẫn được tiếng nhân quyền. Bọn tù giả này sang Mỹ thì lại tiếp tục hoạt động tuyên vận và gián điệp Cộng sản đánh phá các cộng đồng người Việt tị nạn Cộng sản tại hải ngoại. Chúng cố gắng làm tiêu tan mọi nỗ lực và tinh thần chống Cộng.
Chính Phủ Hoa Kỳ phải ngưng ủng hộ chính phủ quốc gia (mà bọn sư hổ mang gọi là) “thối nát, độc tài và bất lực” tại miền Nam để cho người Việt tự do chọn lấy một chính quyền có thể đại diện cho đa số quần chúng, có căn bản hòa giải hòa hợp dân tộc, không liên kết và đầy đủ khả năng... a/. Thương thuyết với Hoa Kỳ rút quân Mỹ. b/. Thương thuyết với chính phủ cách mạng lâm thời (Cộng sản) để tổng tuyển cử tự do.
Các chính phủ Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Cộng và các quốc gia liên hệ khác nên chấm dứt sự đau khổ của người Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này do chính người Việt đưa ra.
Các phía lâm chiến tại Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo, các nhà nhân bản kịp thời thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh Việt Nam chấm dứt cuộc chiến tranh tại Việt Nam, Campuchia và Lào.)
Đã 28 năm qua (1975 –2003) Thích Huyền Quang, Thích Nhất Hạnh và băng tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang và Vạn Hạnh, đã hoàn toàn toại nguyện với chính thể “dân chủ Cộng sản” tại Việt Nam nên không thấy y nói năng tranh đấu gì nữa. Thích Nhất Hạnh đã chuyển sang “thiền ôm”, “thiền the” để dụ dỗ một số nhỏ thanh niên tại Pháp và Hoa Kỳ. Khi Cộng sản lên cao thì Thích Nhất Hạnh đặt tên cho cái “làng” của y ở Pháp là “làng Hồng” hơn Chuyên. Khi Cộng sản xuống giá sau năm 1991, thì Nhất Hạnh đổi tên cái làng của y thành “làng Mai”. Thật đúng là thò lò 6 mặt, kỳ nhông đổi màu!
Cuộc tranh đấu của Thích Huyền Quang và Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh và đồng bọn sư quốc doanh GHPGVNTN đã hoàn toàn thắng lợi ngày 30/4/1975 khi đón Cộng sản vào chiếm miền Nam. Nếu ngày nay (thập niên 2000-2003) Thích Nhất Hạnh cố tình quên thành tích tranh đấu ngày trước thì còn khá nhiều người Việt không quên.
Bài này viết ra để nhắc cho Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và đồng bọn GHPGVNTN biết rằng dân tộc Việt Nam không quên. Những bài viết tố cáo âm mưu thâm độc của tăng ni GHPGVNTN và Thích Trí Quang, và những bản điện thư do bọn cán bộ cò mồi tung ra, đã được đăng trên tạp chí VNTP trong nhiều năm, và đã làm cho chiến dịch Hoa Sen Đỏ và cò mồi, bánh vẽ, quốc doanh bị thất bại tại hải ngoại. Những danh từ “quốc doanh, cò mồi, bánh vẽ, bịp bợm chính trị” đã bám chặt vào mọi hoạt động chính trị và tuyên vận của Cộng sản tại hải ngoại.
Nhưng Cộng sản Hà Nội không có sự lựa chọn nào khác. Trong 3 đầu rắn độc, hiện nay Cộng sản vẫn hi vọng có thể dùng được một đầu rắn là GHPGVNTN Ấn Quang. Những sơ hở, ấu trĩ chính trị và tâm lý hải ngoại, và lỗi lầm trong chiến dịch Hoa Sen Đỏ và tuyên vận quốc doanh, cò mồi bánh vẽ của cán bộ Cục Phản Gián đã làm cho Cộng sản thất bại thê thảm và mất nhiều năm tháng công toi, vô ích. Người hải ngoại vẫn thờ ơ vì chẳng ai biết mặt những tên sư quốc doanh và cán bộ tù nhân lương tâm và nhân quyền Cộng sản, thì làm sao hưởng ứng? Có muốn hưởng ứng cũng khó vì người hải ngoại không có mặt trong bất cứ đoàn thể chính trị cò mồi nào do cán bộ Cộng sản tổ chức, cầm đầu hay giật dây!
10. GHPGVNTN Âm mưu viết lại và bóp méo lịch sử Việt Nam. Tìm hiểu Gia Đình Phật Tử Việt Nam, một tổ chức ngoại vi của GHPGVNTN.
Thích Trí Quang ,Thích Quảng Độ và tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang tưởng rằng sẽ thành công (1975) và Cộng sản sẽ vĩnh viễn. Tháng 11/1981, GHPGVNTN tổ chức đại hội kỳ I để cải tạo hay là tiêu diệt 21 giáo hội khác để cướp gọn hơn 10 ngàn chùa chiền toàn quốc. Nhưng bọn tăng ni GHPGVNTN không ngờ rằng Cộng sản Liên Xô có ngày sụp đổ và bản thân Cộng sản Hà Nội có ngày phải chạy theo Mỹ để ăn mày ăn xin đôla.
Từ năm 1992, Thích Trí Quang, GHPGVNTN Ấn Quang và Cục Phản Gián Hà Nội tổ chức cho Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và mấy tên sư Cộng sản cấp nhỏ khác tổ chức “tranh đấu bịp” bằng điện thư (fax) gởi ra hải ngoại... Tuy cán bộ tuyên vận Cộng sản nắm gần hết các phương tiện truyền thông, báo chí và đài phát thanh hải ngoại, những lời lẽ bịp bợm, dối trá và không có sự thật, đã không mang lại sự ủng hộ của người hải ngoại. Chúng không thể tạo nên một làn sóng chính trị nào như ý chúng muốn. Chúng không thể dập tắt được lửa căm thù Cộng sản trong lòng mọi người hải ngoại. Chúng không thể xóa tên “quốc doanh” cho GHPGVNTN. Vả lại, không ai biết rõ mặt mũi của những tên tăng ni quốc doanh và cán bộ Cộng sản loại kỳ cựu mấy chục năm tuổi đảng này.
Trong thập niên 1990s, tình hình chính trị và chiến lược quốc tế diễn biến quá nhanh khiến cho các hoạt động tuyên vận, quốc doanh, cò mồi, bịp bợm của Cộng sản Hà Nội tại hải ngoại trở thành lỗi thời, trật đường rầy, ngay khi vừa khởi sự.
Tuy nhiên, Thích Trí Quang và tổng bí thư GHPGVNTN Ấn Quang hiện nay là Thích Quảng Độ, cùng với Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, đều có tham vọng chuyển đổi lý thuyết Mác Lê Nin sang lý thuyết Phật giáo Cộng sản. Chúng muốn đưa cả nước Việt Nam vào nô lệ một chế độ mới mà ta có thể gọi là Phật giáo công an trị. GHPGVNTN vẫn là quốc giáo như trong chế độ Cộng sản. Năm 1997, 1998, chúng đã manh nha gọi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của chúng là “quốc đạo” trong các báo chùa, báo đảng Cộng sản.
Tổng bí thư GHPGVNTN Thích Quảng Độ đã học tiếng Nga nhiều năm và chuyên nghiên cứu phương pháp sát nhập lý thuyết Cộng sản Nga (Lê Nin Nít) hòa chung với lý thuyết Phật giáo để trở thành một thứ lý thuyết mà ta có thể gọi là Phật giáo Cộng sản. Các Phật tử sẽ thấy lý thuyết này rất êm dịu, xuôi tai, hấp dẫn, nhưng họ không ngờ là chủ nghĩa Cộng sản thay hình đổi dạng thành một thứ gọi là “Phật giáo đổi mới” hay là Phật giáo có tinh thần Cộng sản. Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ cũng ráo riết làm việc này với Quảng Độ trong vấn đề “đổi mới” lý thuyết Phật giáo và viết lại lịch sử Phật giáo và lịch sử Việt Nam theo kiểu bóp méo, để kịp thời thay thế chủ nghĩa Cộng sản.
Ta hãy đọc một đoạn ngắn trong bài “Đến Sài Gòn từ Thuận Hóa, Thăng Long và Luy Lâu” (Giao Điểm số 30, Hè 1998) do Lê Hiếu Liêm viết: “... Trong suốt 2,000 năm qua, dù Phật giáo lúc nào cũng là tín ngưỡng của đại đa số nhân dân, lúc nào cũng là tôn giáo lớn nhất của đất nước, nhưng chỉ trong những thời thịnh đạt huy hoàng nhất, Phật giáo mới trở thành quốc đạo của Việt Nam, đó là trong các thời Sĩ Nhiếp – với thủ đô Phật giáo Luy Lâu (Hà Bắc) – đây cũng là thủ đô chính trị – văn hóa toàn cõi Lĩnh Nam vẫn còn là một cõi chạy dài từ hồ Động Đình, đến Hoành Sơn – thời Lý Nam Đế, với tên nước là Vạn Xuân và với chùa Khai Quốc, thời Lý Trần – thời kinh thành Thăng Long được khai sinh – bởi một quân vương Phật tử Lý Công Uẩn và bóng dáng kỳ vĩ của đại sư Vạn Hạnh, và thời các chúa Nguyễn trong buổi đầu lập quốc thời thành phố Sài Gòn được chính thức chào đời...”
Từ nhiều năm qua, Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ được Cộng sản “nói” là ở tù, và mới được “thả” ngày 31/8/1998. Khi được phỏng vấn, những tên sư quốc doanh này khoe rằng chúng đã “làm việc nghiên cứu” nhiều năm trong “tù”. Quảng Độ khoe đã hoàn thành bộ Phật Quang đại tự điển 18,000 trang ở trong “tù”, và đang tính dịch mấy bộ sách về Phật giáo (Cộng sản) do mấy tên Cộng sản người Nga biên soạn. Thích Quảng Độ đã in xong bộ Phật Quang đại tự điển 18,000 trang ơ ûTaipei (Đài Bắc ).
Trong kỳ họp thường niên thứ 53 của Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva ngày 21/3/1997, Võ văn Ái chủ tịch Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc Tế (Ấn Quang), kiêm phó chủ tịch Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế, cũng là chủ tịch “Hội Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam” ở Paris, nói rằng gần 200 phật tử ở Việt Nam đang “dọa” tự thiêu vì Giáo Hội Phật giáo (cũng là GHPGVNTN Ấn Quang) do Nhà Nước CSVN thành lập, đầu năm nay ngày 13/1/1997, đã giải tán Gia Đình Phật Tử gồm trên 300,000 thành viên thuộc giới thiếu nhi và nhi đồng từ 6 tới 18 tuổi, được tổ chức giống như hướng đạo sinh.
Ông Ái nói rằng biện pháp của CSVN ban hành ngày 13 tháng Giêng (1997) là một hành động nghiêm trọng cho chiến dịch hủy diệt Phong Trào Gia Đình Phật Tử đã hiện hữu ở Việt Nam trong 50 năm qua, một chiến dịch được thi hành kể từ năm 1955 bởi cơ quan đặc trách những vấn đề tôn giáo của chính phủ Hà Nội.
Ông Ái nói: “Sự căng thẳng lên tới độ những người lãnh đạo của Gia Đình Phật Tử cho biết rằng gần 200 phật tử ngỏ ý muốn tự thiêu để phản đối đàn áp tôn giáo và việc giải thể tổ chức của họ.” Ông kêu gọi ủy ban nhân quyền gồm 53 quốc gia hãy khẩn cấp can thiệp để tránh cho những vụ tự thiêu khỏi xảy ra. (nguyên văn – báo Người Việt ngày 24/3/1997).
Ta thấy Võ văn Ái “ăn cướp” diễn đàn nhân quyền ở Liên Hiệp Quốc của dân tộc Việt Nam. Võ văn Ái, cũng như vợ chồng Đoàn Viết Hoạt sau này đều làm cho Liên Hiệp Quốc và quốc tế “quên hẳn” vấn đề Cộng sản tiếp tục cai trị tàn bạo trên cả nước Việt Nam, mà chỉ chú ý đến Gia Đình Phật Tử, hoặc vài tên sư quốc doanh và bản thân cá nhân chúng.
Rồi ta cũng thấy Liên Hiệp Quốc chẳng cần phải can thiệp. Chẳng có phật tử nào tự thiêu, Gia Đình Phật Tử vẫn nguyên vẹn hoạt động Cộng sản quốc doanh để kềm giữ 300,000 trẻ nhỏ, thiếu niên, không hề bị giải tán. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn có thêm một tên nữa là giáo hội Phật giáo Việt Nam, vẫn làm sư quốc doanh nhưng vẫn mập mờ nói rằng mình ở trong giáo hội không quốc doanh. Rồi GHPGVNTN lại bô bô nói rằng đang bị đàn áp khổ sở lắm mà vẫn được bình yên nguyên vẹn họp đại hội 5 năm 1 lần như đảng Cộng sản. Bằng thủ đoạn tung tin bịa đặt rằng 200 phật tử “dọa tự thiêu”, Võ văn Ái đã đưa Gia Đình Phật Tử ra trình diện như một cái tên mới cho GHPGVNTN.
Ta thấy Võ văn Ái “không thuộc bài” khi nói tiền hậu bất nhất. Ái nói rằng Hà Nội có lệnh giải tán Gia Đình Phật Tử ngày 13/1/1997, nhưng rồi lại nói rằng chiến dịch (hủy diệt) được thi hành từ năm 1955, 42 năm qua, mà nó vẫn lớn mạnh, lại có những 300,000 thành viên và vẫn còn nguyên vẹn, mạnh mẽ đến ngày nay mà không hề bị giải tán gì ráo!
Rút lại không có phật tử nào tự thiêu! Cũng không hề có chuyện hủy diệt, đàn áp hay giải tán Gia Đình Phật Tử. GĐPT vẫn tiếp tục hoạt động công khai là một tổ chức ngoại vi Cộng sản trong Mặt Trận Tổ Quốc và trong GHPGVNTN để nắm giữ thành phần nhi đồng, thiếu nhi tù 6 tuổi trở lên, con cháu các phật tử.
Đây cũng là một thủ đoạn cho Gia Đình Phật Tử ra thay thế GHPGVNTN để tránh cái tên “quốc doanh”. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị danh từ “quốc doanh Cộng sản” bám chặt vào trong mấy chục năm qua, nên đã không thể hoạt động “chống Cộng sản giả vờ”. Võ văn Ái làm “thông tin” cho GHPGVNTN tại Liên Hiếp Quốc, quốc tế và hải ngoại để cố gắng đưa Gia Đình Phật Tử (GĐPT) ra thay thế GHPGVNTN để hoạt động chính trị hải ngoại trong những năm 1997 trở đi. Ta thấy năm 1998 đã có nhiều hoạt động chứng tỏ GĐPT đã được xử dụng thay thế GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ.
“Gia Đình Phật Tử”, một tổ chức ngoại vi của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước và hải ngoại, được in và bán thật đắt tiền với giá $50 đôla, phát hành trong năm 1998 để kỷ niệm 50 năm “tuổi” của Gia Đình Phật Tử. Trong cuốn sách người ta không thấy gì là đạo lý tôn giáo hay “ích quốc lợi dân”. Chỉ khoe khoang hình ảnh những tên sư hổ mang Cộng sản như Thích Trí Quang, Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu và những tên sư quốc doanh có thành tích hoạt động đuổi Mỹ, đánh phá chính quyền quốc gia như Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ...
Cuốn sách kỷ niệm 50 năm Gia Đình Phật Tử chẳng nói gì đến “gia đình” hay giáo lý Nhà Phật. Chúng chỉ đề cao gương tự thiêu và các “thánh” tử đạo, nhưng không dám nói rõ rằng GHPGVNTN và Gia Đình Phật Tử đã “đốt người” và khích động những người trẻ tuổi hăng hái, cuồng tín tự thiêu, tự tử, nhằm mục đích đánh phá quốc gia, dân tộc và chính quyền để rước Cộng sản vào chiếm miền Nam.
Khi phát hành cuốn sách Gia Đình Phật Tử Việt Nam, lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất “không” giấu giếm ý đồ muốn tiến tới “đoàn ngũ hóa” các tầng lớp dân chúng cả nước dưới chiêu bài “Phật giáo”, thay vì với chủ thuyết Cộng sản đã lỗi thời và không hợp với người Việt Nam.
Vậy ta cần tìm hiểu tại sao cuốn sách “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” nhấn mạnh đến vấn đề “đoàn ngũ hóa” (regimentation) với các con em, thanh thiếu nhi phật tử trở thành “đoàn sinh, đoàn viên”? Ta cần tìm hiểu cái gì là “đoàn ngũ hóa”? Tại sao một tổ chức “Phật tử” lại cần phải đoàn ngũ hóa con người và thanh thiếu niên?.
Thế giới tư bản ngày trước không bao giờ nghĩ đến một cách thực tế và cụ thể những vấn đề như “kiểm soát và điều khiển tư tưởng” (mind control), “tẩy não” (brainwash), “đoàn ngũ hóa, đội ngũ hóa” (regimentation). Những xứ văn minh đều có chủ trương tôn trọng tự do tư tưởng, tự do cá nhân và tự do phát triển tư tưởng, tâm linh và Đức Tin của mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
Do đó không mấy người hiểu những dụng tâm sâu độc của những tổ chức, hội đoàn, có vẻ hiền lành, bình thường nhưng có những ẩn ý thâm độc để xử dụng con người, hay là các đoàn sinh, đoàn viên, hội viên thành những công cụ chính trị, bạo động mà chúng gọi là làm “cách mạng” với tranh đấu, chống đàn áp, bất công, bạo động, tự thiêu, khuynh đảo, gây hỗn loạn... cho đến khi các chính quyền các cấp từ xã ấp, lên đến quận, tỉnh, quốc gia, đều phải lệ thuộc chúng, vâng lệnh chúng, hoặc bị chúng đánh đổ. Các hội đoàn, tổ chức khác và báo chí, truyền thông, và toàn xã hội... đều bị chúng khủng bố, dọa dẫm, áp lực, dụ dỗ, bịp bợm... đều phải hùa theo chúng mà không ai dám lên tiếng phản đối.
Một thí dụ rõ rệt nhất là ở hải ngoại, nhất là Hoa Kỳ, với tự do báo chí, mà hầu như không một đoàn thể, chính khách, chính trị gia và báo chí, phát thanh nào “dám” lên tiếng tố giác các tội ác hoạt động Cộng sản của tăng ni GHPGVNTN từ 1963 đến nay, và các tội ác dâm dục, tham lam, độc ác của chúng. Ngược lại, nhiều tờ báo và đài phát thanh chỉ làm những phóng sự có lợi và đề cao tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, coi chúng như những “lãnh tụ” tôn giáo, những “phật sống”, đạo đức, đạo mạo, từ bi, với lực lượng phật tử mạnh mẽ lắm, với các chùa to lớn, có thể thay thế Cộng sản và nắm chính quyền trong tương lai. Các báo và đài phát thanh “thân” và “sợ” GHPGVNTN đã cố tình che đậy, khỏa lấp các tội ác của bọn tăng ni quốc doanh, với mục đích đánh lừa các thế hệ trẻ, thanh niên hải ngoại.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hồng quân Liên Xô được Đồng Minh thỏa thuận cho chiếm đóng Đông Âu để giải giới quân Đức. Nhưng lợi dụng sức mạnh, Liên Xô đã ép buộc các quốc gia như Đông Đức (East Germany) Ba Lan (Poland), Hung Gia Lợi (Hungary), Ru Ma Ni (Roumania), Albany, Tiệp Khắc (Czechoslovakia)... đều phải thành lập đảng và chế độ, chính quyền Cộng sản với công an trị. Tất cả dân chúng Đông Âu đều phẫn uất nhưng không thể chống lại Liên Xô.
Tại Hung Gia Lợi có một vị Hồng Y (Cardinal) Thiên Chúa Giáo tên là Joseph Mindszenty đã lên tiếng mạnh mẽ tố giác Cộng sản. Ông được sự hậu thuẫn và ủng hộ nồng nhiệt của toàn thể nhân dân Hung Gia Lợi và dư luận báo chí quốc tế. Tự nhiên, mọi người thấy ngay sự tranh chấp một giáo chức tôn giáo cao cấp trực diện đối đầu với Cộng sản. Trùm Cộng sản Liên Xô lúc đó là Stalin hiểu ngay vấn đề. Stalin thấy cần phải bẻ gẫy Hồng Y Mindszenty xong thì tất cả dư luận chống đối sẽ xẹp xuống ngay.
Khoảng cuối năm 1948, công an Cộng sản Hung nhào vào nhà thờ và bắt Hồng Y Mindszenty trước sự ngơ ngác của giáo dân. Không ai đề phòng. Không ai nghĩ rằng Cộng sản có thể làm bất cứ điều gì, thủ đoạn gì, mà không phải sợ dư luận, chửi rủa hay pháp luật. Cộng sản chỉ có lý lẽ của kẻ mạnh, của công an, của bạo lực khủng bố, của súng đạn, tù đày trong các trại tập trung, để làm khiếp đảm tinh thần, mọi người phải sợ hãi và im tiếng.
Khi được hỏi vấn đề chống Cộng ở miền Bắc thì một cán bộ đã già, nhiều kinh nghiệm, nói: “Ngay chúng tôi là cán bộ của nhà nước mà còn chịu không nổi, huống hồ là dân! Nhưng trong một chế độ mà hai người không dám nói thật với nhau thì làm sao chống đối? Mỗi cá nhân chúng tôi đều hiểu rằng chỉ cần bị nghi ngờ thôi, cũng đủ bị bắt đi tù cải tạo. Cái thân mình bị tù đã đành, nhưng vợ con, gia đình ai lo? Tất cả mọi người đều sợ vì bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắt giam tù không giới hạn, không xử án và hoàn toàn vô tội. Người ta (Cộng sản) tha hồ buộc tội mình và bịt miệng không cho cãi. Họ lấy đa số tập thể và sức mạnh để đè bẹp mình là cá nhân, cô đơn, thiểu số. Thành thử cái sợ không phải là sợ bị tù, sợ chết, hay sợ chính quyền hay công an nhà nước (Cộng sản), mà là sợ gia đình tan nát, con cái trẻ nhỏ bị đói rét, không nhà, phải sống đầu đường xó chợ cho đến khi chết dập vùi đâu đó... !
Thành thử nếu sơ ý, lỡ mồm miệng, bị nghi ngờ phản động mà bị tù, bị giết, thì các nạn nhân có “tội” với gia đình con cái trước tiên!
Trong chế độ công an trị thì cả nước là một cái nhà tù khổng lồ. Nhưng người bình thường hay phật tử thì bị “tù” trong các tổ chức “đoàn ngũ hóa” thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, hay là tổ chức ngoại vi Cộng sản. Như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất , Gia Đình Phật Tử Việt Nam, Tăng Đoàn Bảo Vệ Chánh Pháp, Liên Hiệp Phụ Nữ, Việt Kiều Yêu Nước, Công Giáo Yêu Nước. Các tổ chức "đoàn ngũ hóa" khác trực thuộc đảng Cộng sản như Thiếu Nhi Khăn Quàng Đỏ, Thanh Niên Xung Phong, Hội Văn Nghệ, Hội Nhà Văn, Tổng Công Đoàn Lao Động, Hiệp Hội Báo Chí, và rất nhiều các tổ chức phụ thuộc hay ngoại vi nhỏ hơn đều có ý đồ khép chặt người dân Việt Nam trong mọi thành phần, lứa tuổi đều phải nằm trong các loại "khuôn đoàn ngũ" do cán bộ Cộng sản cầm đầu, chỉ huy.
Sau một thời gian ngắn bị giam cầm, đầu năm 1949, Cộng sản Hung Gia Lợi (Hungary) đưa Hồng Y Mindszenty ra tòa xử công khai và mời báo chí quốc tế tham dự. Tại tòa, Hồng Y Mindszenty khai rõ ràng ông làm gián điệp cho Hoa Kỳ! Kết quả, Hồng Y bị tòa xử 7 năm tù.
Cả thế giới tự do và Giáo Hội La Mã bàng hoàng! Không ai hiểu tại sao một người có trình độ tôn giáo thâm sâu, đã trưởng thành và nhiều tuổi, với giáo phẩm cao bậc nhất trong giáo hội, lại có thể bị Cộng sản “bẻ gẫy” tinh thần và ý chí nhanh đến như vậy? Nói cách khác, Cộng sản đã “giết” con người tinh thần công giáo và tư tưởng bất khuất chống Cộng sản của Hồng Y Mindszenty chỉ trong một thời gian thật ngắn. Giáo Hoàng vội triệu tập cuộc họp mật với tất cả Hồng Y để bàn kế hoạch đối phó với thủ đoạn tàn bạo “tẩy não” và “điều khiển tư tưởng” của Cộng sản.
Phải đến 7 năm sau, năm 1956, Hồng Y Mindszenty mới mãn hạn tù và được thả. Khi cuộc nổi dậy ở Hung Gia Lợi năm 1956 với thủ tướng Imre Nagy bất thành thì Hồng Y Mindszenty chạy vào tòa đại sứ Mỹ và xin tị nạn. Ông hiểu rằng ông sẽ bị bắt lại và có thể bị buộc tội đã chủ mưu hoặc kích động cuộc nổi dậy. Ông Imre Nagy sau đó bị mật vụ Liên Xô bắt đi và thủ tiêu mất tích. Hồng Y mindszenty kể lại rằng Cộng sản tra tấn, hỏi cung suốt ngày đêm cho đến khi ông kiệt quệ và tê liệt tinh thần. Sau đó, chúng bỏ đói, bỏ lạnh cho đến khi thể xác ông hết tự chủ và cũng tê liệt, chỉ tuân theo mệnh lệnh nhu cầu của ăn uống, quần áo. Mỗi ngày, trước khi cho ăn uống, thì cán bộ Cộng sản buộc Hồng Y phải trả lời sao cho chúng vừa ý. Nếu không biết trả lời thì chúng đọc cho ông nghe câu trả lời và bắt ông phải học thuộc và nói như một con vẹt... đến khi ra tòa, thì Hồng Y Mindszenty không cần nhớ những gì là của mình. Đầu óc gần như rỗng không vì tê liệt, ông chỉ nhắc lại một câu nói “tôi làm gián điệp cho Mỹ!” Như một băng cassette hay một con vẹt!
Có lẽ vì vậy mà sau này Giáo hội La Mã không đặt vấn đề chống Cộng cho các lãnh tụ, giáo phẩm tôn giáo tại các xứ Cộng sản. Tất cả phải cố gắng hòa mình và sống chung với Cộng sản để bảo vệ sinh lực và thực lực. Trên thực tế thì giáo hội không thể nào chống lại chính quyền, Cộng sản hay tư bản, bằng vũ lực hay bạo lực. Nếu giáo hội có thể sống chung với các chính quyền thế giới tự do mà không xen vào chính trị, thì tại sao lại không thể sống chung với Cộng sản và đứng ngoài chính trị?
Cộng sản sớm hay muộn cũng phải cáo chung. Cộng sản thường tiêu diệt hết tinh hoa dân tộc và những người quốc gia, chống đối. Lúc đó giáo hội vẫn còn đủ chủ lực và thực lực với cán bộ giáo chức, chức phẩm. Giáo hội gần như một mình một chợ, lại bung ra và bành trướng, có khi còn mạnh mẽ hơn trước Giáo Hội La Mã không cần phải lo đến chủ quyền hay sự tự do ấm no của quốc gia dân tộc, hay sự đe dọa tù đày, đói khổ, cùm kẹp công an trị Cộng sản. Đó không phải là việc của Giáo hội La Mã, và giáo hội không cần phải quan tâm.
Khoảng năm 1972, cô Patricia Hearst, ái nữ của nhà tỷ phú báo chí Hearst, đã bị mất tích từ căn nhà sang trọng của cô ở Beverly Hills, California. Ít lâu sau, cô xuất hiện với vài tên giang hồ khác, tay cầm súng, đi cướp nhà băng! Tại nhà băng cô hô to “Ta là Tania, thuộc quân đội Symbionese Army!”. Ngân hàng bị cướp đi khoảng 9,000 đôla. Người ta không hiểu tại sao một cô con gái nhà tỷ phú, sống trên nhung lụa, lại nhập đảng cướp và đi ăn cướp một cách hung bạo như vậy? Phải đến khi bắt được cô Hearst và đảng cướp, người ta mới rụng rời vì thủ đoạn tẩy não và bịp bợm thật tinh vi của bọn cướp. Chúng nhồi sọ cô con gái nhà giàu, ngây thơ và trong trắng tinh thần này bằng đủ các câu chuyện tưởng tượng về tư bản ngân hàng, bót lột, về chính trị, cảnh sát...
Khi sửa soạn đi cướp nhà băng thì cô gái này đã gần thành như người máy, hay là “chiến sĩ cách mạng” sẵn sàng đứng ra thay đổi hẳn quốc gia, xã hội! Bọn cướp đã dạy cô Hearst rằng chúng đã nắm hết cảnh sát, quan tòa, và đã làm chủ tình hình. Cô Patricia cứ việc hiên ngang cầm súng vào nhà băng, hô to cho mọi người biết mình là ai, và đàng hoàng lấy tiền, đi ra, mà không cần phải sợ ai! Sau khi điều tra xong, cảnh sát hiểu rằng cô Patricia Hearst chỉ là nạn nhân của “tẩy não” và “điều khiển tư tưởng, suy nghĩ”. Nhưng luật là luật. Cô Hearst vẫn bị án tù. Phải sau này, cô mới được Tổng Thống Ronald Reagan đặc cách ân xá.
Trên đây chỉ là trường hợp cá nhân và có vẻ bị dồn ép. Nhưng đến năm 1982, vụ giáo phái Temple xảy ra tại Guyana thuộc Anh, Nam Mỹ, với hơn 1,000 người uống thuốc độc chết cùng với ông “đạo” Jones thì cả thế giới sửng sốt. Rồi đến các vụ Waco ở Texas năm 1994 chết hơn 80 người, giáo phái AUM ở Nhật với chủ trương đầu độc tập thể làm cho cả nước Nhật và thế giới kinh hoàng. Năm 1997, giáo phái “Cổng Trời” đã khiến cho 39 người “tự nguyện” chết để được lên phi thuyền không gian về... thiên đàng!
Người ta còn nhớ ông “đạo” Bagwan người Ấn Độ đã tụ tập khoảng 7,000 người vào năm 1983, 1984 và đã thành lập một tỉnh nhỏ được gọi là “đạo viện” ở bang Oregon. Mỗi người đều làm việc sản xuất nhưng mỗi tháng chỉ được ăn và được 10 đôla bỏ túi, còn bao nhiêu lợi tức “thầy” Bagwan lấy hết. “Thầy “ Bagwan giữ hết để tiêu xài và không thèm nộp thuế. “Thầy” Bagwan cho các đệ tử tự do làm tình thả giàn bất cứ ai, tha hồ đẻ con rồi cho tập thể nuôi. “Thầy” Bagwan tuổi mới ngoài 50 nhưng vì hành lạc, trác táng quá độ nên đau lưng thường xuyên và trông hom hem như một ông già 80 tuổi. Thầy “phải” mua xe Rolls Royce để đi lòng vòng quanh đạo viện cho êm cái lưng. Khi cảnh sát giải tán cái đạo viện lý thú này họ đã ngạc nhiên thấy “thầy” Bagwan có những 105 cái xe Rolls Royce, mỗi cái theo thời giá năm 1984 khoảng 200 ngàn đôla! Trong khi đó thì các đệ tử đi... bộ, vì không ai cần phải có xe!
Người ta coi phim ảnh thấy cảnh “thầy” Bagwan ngồi xe Rolls Royce bỏ mui đi chầm chậm quanh đạo viện cho đệ tử chiêm ngưỡng. Các đệ tử nam nữ mặc áo tu màu nâu đứng nghẹt hai bên đường để đợi “thầy”. Khi xe của “thầy” Bagwan đi tới thì mọi người tươi vui hoan hỉ như được nhìn thấy Phật sống hay Thượng Đế, cúi đầu chắp tay xá một cách vô cùng cung kính... Sau này “thầy” Bagwan bị một cô đệ tử kiêm thư ký riêng và vệ sĩ, đã làm phản và tố giác “thầy” với cảnh sát địa phương. Tại tỉnh nhỏ này, người ta bắt đầu sợ “thầy” Bagwan vì nếu có bầu cử thì đệ tử của “thầy” sẽ nắm đa số phiếu. Nếu “thầy” kiêm luôn cả chức thị trưởng thì cả tỉnh còn có nước dọn nhà đi tỉnh khác, nếu muốn con cái được nên người.
Bị cảnh sát bố ráp đạo viện vì tội trốn thuế, “thầy” dông lên máy bay chạy trốn, nhưng chính viên phi công lại báo cho cảnh sát và hạ cánh xuống cho cảnh sát bắt. Người ta tịch thu toàn bộ tài sản, bán đấu giá dàn xe Rolls Royce nhưng cũng chưa đủ để trừ số thuế còn thiếu khoảng hơn 100 triệu đôla. “Thầy” Bagwan bị tống xuất về xứ vì Hoa Kỳ chẳng muốn mất lòng Ấn Độ và mang tiếng “đàn áp” một giáo phái (?) từ Ấn Độ qua.
Một ông đạo khác tên là Sun Young Moon, người Nam Hàn, cũng giỏi về đoàn ngũ hóa, tập thể hóa và điều khiển tư tưởng đám đông đệ tử không kém bất cứ ông đạo nào. Ông này tụ tập hàng ngàn đệ tử từ khắp các nước trên thế giới. Ông chỉ người nam này lấy người nữ nọ, bất chấp sự kiện họ chưa bao giờ quen biết nhau, khác chủng tộc và ngôn ngữ bất đồng. Nhưng các đệ tử kính sợ và tin tưởng “thầy” một cách thật cuồng tín, vẫn răm rắp tuân theo. Từ năm 1984 đến nay, thầy Moon đã làm nhiều lần đám cưới tập thể cho các đệ tử, mỗi lần vài ngàn cặp vợ chồng, có lần đến hơn 4,000 cặp! Đầu tháng 2/1999, ông Moon làm đám cưới cho 40,000 cặp vợ chồng tại Hán Thành (Seoul). 12,000 cặp khác giống, khác tiếng nói, được ông Moon lựa chọn theo ảnh của họ.
11. Cuộc biểu tình chống Cộng rầm rộ tại phố Bolsa, quận Cam, California đã làm thay đổi thái độ chính quyền Hoa Kỳ đối với dân tộc Việt Nam. Hoạt động chính trị Cộng sản của Gia Đình Phật Tử trong tương lai.
Việt Nam có những ông “đạo” nổi danh như thầy nhân điện Lương Minh Đáng mới bị bắt tại Bỉ đầu năm 1999 vì tội lường gạt, chữa bệnh không bằng cấp, ông Tám Lương Sĩ Hằng, Thanh Hải Vô Thượng Sư... Đặc biệt là những “thầy” này công khai tự xưng là thượng đế sống, là phật sống, với “khai ngộ, truyền tâm ấn, thành Phật tức thì” (Instantly reach anh Buddhahood) mà vẫn có nhiều người tin theo. Nhiều người đã tan nát gia đình, tán gia bại sản, tiêu tùng sự nghiệp, mà vẫn u mê không tỉnh.
Nhưng các cá nhân này không nguy hiểm bằng tập thể tăng ni quốc doanh. Bọn này rất gian ngoan. Chúng làm việc có hệ thống, có phương pháp, có sách vở, đường lối chính sách giống Cộng sản để đoàn ngũ hóa các thành viên, đoàn viên. Chúng khéo léo tẩy não, nhồi sọ cho họ trở thành cuồng tín, sẵn sàng “tử vì đạo”!
Cuối năm 1998, Trần văn Trường về Hà Nội và nhận cờ Cộng sản và ảnh Hồ chí Minh. Từ tháng 12/1998, Trường treo cờ và ảnh trong tiệm Hi-Tek của y, tại phố Bolsa, quận Cam, California. Trường treo cờ và ảnh cả tháng rồi nhưng không ai thèm chú ý. Y viết hai lá thư thách thức Cộng đồng người Việt biểu tình chống y. Ngày 19/1/1999, khoảng hơn 400 người biểu tình chống đối và đả đảo Trường trong nhiều ngày. Họ dùng chân dày xéo lên hình ảnh Hồ. Tòa án phải ra lệnh khẩn cấp buộc Trường phải bỏ cờ, ảnh. Khi bỏ cờ ảnh, hai vợ chồng Trường, vợ tên Kim, quỳ lạy ảnh Hồ và cờ Cộng sản. Tên Kim còn âu yếm hôn ảnh Hồ đề chọc tức đám đông.
Cộng sản Hà Nội lập tức lên tiếng bênh vực Trường, nói rằng Trường có quyền tự do phát biểu theo Hiến Pháp Hoa Kỳ. Ngày 10/2/1999, khoảng 400 cảnh sát dã chiến Mỹ, vũ trang dẹp biểu tình đến tận răng, đã hộ tống Trường tới tiệm của y để treo cờ, ảnh trở lại. Cảnh sát Mỹ đánh đập những người biểu tình đả đảo Trường và Cộng sản. Hình ảnh này được TV Mỹ chiếu. Lập tức cả mấy chục ngàn người Việt từ khắp nơi kéo đến tràn ngập đường Bolsa. Đến 9 giờ 30 tối, thì cảnh sát Mỹ chịu rút lui. Đám đông tự động giữ trật tự và biểu dương tinh thần chống Cộng với cờ quốc gia và những khẩu hiệu, ca hát cho đến sáng.
Một sự tình cờ của lịch sử là ngày 20/2/1999 cũng là ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Mão, kỷ niệm trận Đống Đa tiêu diệt quân Thanh 210 năm trước, năm Kỷ Dậu, 1789.
Tối ngày 22/2/1999, một nhạc hội với 2 khán đài và khoảng 150 nghệ sĩ đã thu hút khoảng 50 ngàn người Việt chống Cộng. Họ tỏ rõ thái độ chống Cộng, không phải chống Mỹ. Họ chứng tỏ trình độ văn minh bằng cách tự động giữ trật tự và vệ sinh, không xả rác, không cần có mặt cảnh sát, khiến cho toàn thể dư luận Mỹ phải khen ngợi.
Chính quyền Mỹ thay đổi ngay thái độ chính trị đối với Cộng sản Hà Nội. Họ hiểu rằng từ Thái Bình và toàn Việt Nam sang đến Hoa Kỳ, hơn 80 triệu người Việt Nam đều nhất chí chống Cộng và phải tiêu diệt Cộng sản.
Tuy bọn chó săn, cò mồi Cộng sản và ma giáo quốc doanh đã mau chóng “lái” dư luận và tinh thần chống Cộng sang “tranh đấu và cầu nguyện cho dân chủ và nhân quyền”, nhưng đã trễ. Một cao trào truy lùng, tố giác Cộng sản và những tên thân Cộng ở hải ngoại đã bắt đầu. Các “lãnh đạo tinh thần” của các giáo hội tưởng rằng mình nắm được tín đồ, phật tử, đã trơ mắt ếch vì chẳng lãnh đạo được ai!
Sang đầu tháng 3/1999, cảnh sát lục soát tiệm của Trường và bắt được khoảng 160 đầu máy sang băng và 15,000 cuốn băng lậu. Trường phải ra tòa về tội ăn cắp tác quyền và bản quyền. Cộng sản Hà Nội nín khe khi lộ chuyện là cán bộ của chúng toàn đồ ăn cắp. Các luật sư của tổ chức ACLU đứng ra biện hộ, tranh cãi cho Trường, cũng tự động rút lui trong sự sượng sùng.
Hậu quả của vụ treo cờ ảnh Cộng sản đã khiến cho nẩy ra 2 cuộc biểu tình biểu dương khí thế và tinh thần chống Cộng mãnh liệt của toàn dân Việt. Bọn ma giáo quốc doanh, cò mồi nhân quyền, dân chủ, và Cộng sản Hà Nội hiểu rằng thời thế của chúng đã hết. Chúng đã thất bại vì không thể lay chuyển nổi ý chí căm thù Cộng sản. Giấc mơ Cộng sản Hà Nội đặt lãnh sự quán khắp nơi để nắm người Việt bằng khủng bố công an trị, đã tan thành mây khói.
Sự xử dụng đức Tin và tôn giáo để đoàn ngũ hóa, “kiểm soát và điều khiển tư tưởng” (mind control) đã trở thành một khoa học tinh vi. Các cán bộ “thầy” chỉ huy điều hành mặc áo cà sa, “tận tâm” hướng dẫn, dìu dắt, nhồi sọ các đoàn viên, đoàn sinh, đệ tử, miệng luôn luôn nói những lời đạo đức giả. Chúng mê hoặc mọi người "đồng đạo" và đệ tử, đoàn sinh, đoàn viên tới mức chúng nói gì, ra lệnh gì, họ đều răm rắp nghe, không ai dám cưỡng lại, và cũng không thể bỏ trốn hay bỏ chạy.
Thủ đoạn thông thường của bọn ma giáo, ma quỷ là chúng dùng cò mồi để khéo léo, tâng bốc, vỗ tay. Các “thầy” thường dùng vài ba chục đệ tử để vỗ tay mỗi khi “thầy thuyết pháp”. Khi “thầy” vừa dứt câu là bọn đệ tử cò mồi vỗ tay vang dội, nồng nhiệt, khiến cho cả hội trường vỗ tay theo. Những người mới đến để nghe ngóng xem sao, thấy chấn động và dễ bị lôi cuốn theo. Chắc “thầy” phải nói hay lắm, hấp dẫn lắm nên mới có nhiều người vỗ tay hoan nghênh như vậy!
Tại Việt Nam thì ta thấy hiện tượng “tranh đấu” xuống đường, biểu tình, tự thiêu... do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức để đánh phá chính quyền quốc gia từ 1963 đến 1975, cũng là một hình thức đoàn ngũ hóa và điều khiển tư tưởng đám đông. Những bài báo viết lách cũng nhằm mục đích nhồi sọ đám đông và thanh thiếu niên, thế hệ trẻ, một cách từ từ và đồng thời bóp méo lịch sử.
Từ năm 1992, bọn tăng ni quốc doanh GHPGVNTN Ấn Quang vẫn tiếp tục hoạt động Cộng sản, vẫn chửi các chính quyền quốc gia, vẫn chửi Tổng Thống Diệm và công giáo, vẫn khéo léo khoe khoang thành tích Cộng sản. Nhìn kỹ hoạt động của bọn tăng ni quốc doanh, ta thấy chúng đang “tẩy não” cả nước bằng cách bóp méo lịch sử Việt Nam cho lẫn lộn với lịch sử Phật giáo Cộng sản của chúng. Thích Quảng Độ, Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ đang được bộ máy tuyên truyền quốc doanh hải ngoại đề cao, cũng là do công tác bóp méo lịch sử để tẩy não cả nước Việt Nam. Chúng chỉ nói rằng sư tăng Phật giáo đã mở nước, dựng nước từ Luy Lâu xuống đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn, từ hơn 2 ngàn năm trước. Chúng không dám nói rằng Phật giáo là “ngoại lai” xuất xứ từ Ấn Độ cũng giống như đạo Nho, đạo Lão và Thiên Chúa giáo ngày nay. Mỗi người đều có tự do tín ngưỡng. Nhưng bọn ma giáo quốc doanh GHPGVNTN cố tình xử dụng tôn giáo để bóp méo lịch sử, tự nhận là “mở nước, dựng nước”, phủ nhận luôn cả tổ tiên Hồng Lạc.
Ngoài GHPGVNTN Ấn Quang, ta thấy các hiện tượng nhân điện và vô thượng sư sú ma (supreme master) đã làm cho nhiều người phải khánh tận vì dâng hiến tài sản cho chúng, nghe chúng nói láo bịp bợm, và gia đình tan nát. Ta cũng thấy những văn nghệ sĩ, báo sĩ, đài sĩ, trí thức, khoa bảng, tai to mặt lớn cũng khúm núm trước mặt “thiền sư vén váy”. Có vị chỉ cần thấy tí tiền còm là bán rẻ ngay danh dự và linh hồn sẵn sàng tôn “thiền sư vén váy” lên làm “phật sống”!
Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam (GĐPTVN) chỉ là một tổ chức “ngoại vi” (satellite) của GHPGVNTN. Ngày nay GHPGVNTN bị kẹt cái tên “quốc doanh” do nhân dân đặt cho, nên phải dùng GĐPTVN làm mũi nhọn chính trị với mưu đồ “đoàn ngũ hóa” các tầng lớp dân chúng, phật tử, lấy Phật giáo làm bình phong hay là nòng cốt lý thuyết. Từ căn bản này, chúng sẽ điều khiển tư tưởng nhân dân cả nước, kể cả báo chí truyền thông, bằng các thủ đoạn “tranh đấu” để xách động quần chúng.
Khi tổ chức GĐPT đủ lớn mạnh ở tầm mức quốc gia, bọn ma đầu quốc doanh sẽ yêu sách, đòi hỏi, xuống đường tranh đấu, khích động những người trẻ tuổi thanh niên và dân chúng tham gia thật đông đảo. Miệng chúng hô to rằng bị đàn áp, “Pháp nạn” với “Mạt Pháp”. Chúng khuyến khích các đoàn viên thanh niên trẻ tuổi hăng hái “tử vì đạo” bằng tự thiêu, liều mạng chống cảnh sát, rồi làm “cách mạng”. Có khi chúng dàn cảnh “đốt” người rồi hô rằng nạn nhân đã “tự thiêu” và đổ tội cho chính quyền đàn áp tôn giáo, cấm đoán tự do tôn giáo.
Chúng có thể cho các thiếu nhi đi đầu các đám biểu tình. Lỡ có một trẻ nhỏ bị chết, hoặc chúng dàn cảnh cho chết, thì chúng sẽ thổi phồng lên rằng chính quyền, cảnh sát đàn áp, giết trẻ nhỏ để gây công phẫn, căm thù trong dân chúng, phật tử. Thiếu nhi, thiếu niên nào bị chết thì chúng sẽ phong làm “thánh tử đạo” để làm gương cho các thiếu nhi khác bắt chước. Để rồi lại tiếp tục tranh đấu, xuống đường với nhiều “thánh tử đạo” nữa.
Dân chúng dễ bị lung lạc, sẽ hùa theo chúng thành dư luận chống đối chính quyền. Bọn ma giáo quốc doanh sẽ tổ chức đình công, bãi thị, xuống đường biểu tình đánh phá, khích động cảnh sát phải dẹp biểu tình. Khi cảnh sát dẹp biểu tình, chúng sẽ bạo loạn, chống lại và gây thương tích, đổ máu. Rồi chúng sẽ hô hoán rằng chính quyền đàn áp “dã man” và kêu cứu với quốc tế... cho đến khi thành một phong trào và dư luận chống đối bao trùm cả nước, rồi lan rộng sang đến quân đội, cảnh sát, công chức...Chúng sẽ liên minh, liên kết với các đoàn thể, hội đoàn, tổ chức hay đảng phái khác qua hình thức dọa nạt, lôi kéo, khủng bố tinh thần, hoặc dụ dỗ dối trá rằng sẽ chia ghế, chia phần... Với các phương tiện và thủ đoạn tuyên truyền bịp bợm và lưu manh sẵn có, chúng sẽ làm cho báo chí quốc tế và dư luận thế giới xúc động, hùa theo chúng, bênh vực chúng...
Vấn đề bọn ma đầu đoàn ngũ hóa và kềm kẹp con người, cá nhân, trong tổ chức hay đảng phái thường rất tinh vi, thâm độc. Bọn ma đầu chính trị, ma giáo quốc doanh thường dùng những danh từ, danh xưng có vẻ hiền lành “vô tội” như Gia Đình Phật Tử, Tăng Đoàn Bảo vệ Chánh Pháp, khiến không ai có đủ lý do hành chính hay chính trị để cấm cản hay ngăn chặn chúng hoạt động.
Nếu không trình bày rõ ràng những cạm bẫy của bọn ma giáo quốc doanh này thì rất nhiều người trẻ tuổi sẽ bị mắc vào lưới nhện ma quỷ của chúng. Các phụ huynh dễ vô tình khuyến khích con em gia nhập các đoàn thể, tổ chức với danh xưng có vẻ hiền lành, vô hại. Một khi đã mắc vào mạng lưới nhện “đoàn ngũ hóa” thì bản tính cá nhân thay đổi rất nhanh. Đảng viên, đoàn viên, hội viên, tín đồ, phật tử đều mau trở thành cuồng tín, quá khích, say mê, bị mê hoặc và không còn suy nghĩ sáng suốt. Các phụ huynh vì thờ ơ không chú ý, đã có thể “mất con” cho bọn ma quỷ lợi dụng.
Từ năm 1992, thấy không thể xóa bỏ cái tên “quốc doanh” và sự hợp tác “tuy hai mà là một” của GHPGVNTN. Từ năm 1998 danh xưng GĐPTVN là tổ chức gốc.
Tại miền Nam và hải ngoại GHPGVNTN tổ chức nhiều đơn vị GĐPT và tên GĐPT Long Hoa. GĐPT miền Thiện Minh, GĐPT Miền Quảng Đức, GĐPT Chánh Pháp, Chánh Tín, Pháp Bảo, Pháp Hoa, Ấn Quang, Vạn Hạnh v.v... Các đơn vị GĐPT đã trở thành một mạng lưới nhện khắp nước Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới để thu gom các thiếu niên, thiếu nhi phật tử, để giáo dục, nhồi sọ, tẩy não và huấn luyện (Indoctrination – brainwash) chúng trở thành những phật tử có tinh thần hăng say, cuồng tín và sẵn sàng “tử vì đạo” cho GHPGVNTN!
Tổng số các đơn vị và đoàn viên GĐPT tại Việt Nam là 1,496 đơn vị và 219,000 đoàn viên, 192,000 đoàn sinh. Tại Âu Châu 32 đơn vị, 1,057 đoàn viên và 889 đoàn sinh. Tại Canada 10 đơn vị, 650 đoàn viên và 600 đoàn sinh. Tại Úc Châu 10 đơn vị, 650 đoàn viên và 600 đoàn sinh. Tại Hoa Kỳ 58 đơn vị, 6,850 đoàn viên và 6,500 đoàn sinh. Tổng cộng có 1606 đơn vị và 27,655 huynh trưởng GĐPT tại Việt Nam và trên thế giới. Nhưng đây cũng là một bằng chứng các đơn vị của tổ chức GĐPT thuộc GHPGVNTN vẫn được Cộng sản cho phép hoạt động công khai trong nước, trong Mặt Trận Tổ Quốc, trong vấn đề đào tạo thiếu nhi phật tử trở thành một thứ cán bộ Cộng sản kiểu mới, trá hình.
Các cư sĩ quốc doanh đã lầm lẫn khi khoe rằng Lê Đình Thám đã tổ chức Gia Đình Phật Tử từ năm 1935 và chết năm 1969. Thật ra thì Lê Đình Thám, một cán bộ Cộng sản loại trung kiên, từng là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Liên Khu 5 của Cộng sản Việt Minh, đã tổ chức Gia Đình Phật Tử rập khuôn theo tổ chức hướng đạo từ năm 1945, và bao gồm luôn cả gia đình, anh chị em của các thiếu niên phật tử. Thám chết năm 1979. Cộng sản tổ chức giáo hội Phật Giáo Cứu Quốc và Gia Đình Phật Tử. Người ngoài thấy thì tưởng rằng Cộng sản cho tự do tín ngưỡng. Không ai ngờ Cộng sản chỉ dùng Phật giáo làm chiêu bài, vỏ ngoài, bình phong. Thực chất thì cán bộ giả làm tăng ni lãnh đạo để đoàn ngũ hóa và điều khiển tinh thần tư tưởng của phật tử và thanh thiếu niên.
Cuốn sách GĐPT Việt Nam công khai khoe mục đích chính là “đoàn ngũ hóa” các gia đình và thanh thiếu niên phật tử để đưa họ vào những mục tiêu chính trị và đấu tranh đổ máu cho chúng. Chúng nêu lên những gương tranh đấu, tự thiêu, thánh tử đạo với những tên Nhất Chi Mai, Quách thị Trang, Thích Quảng Đức, Thích Tiêu Diểu, Thích Thanh Tuệ, Thích Nguyên Hương, ni cô Diệu Quang, Thích Quang Hương, Thích Thiện Mỹ... của thời tranh đấu đánh phá các chính quyền quốc gia từ 1963 đến 1975 để cho thanh thiếu niên phật tử tiêm nhiễm và noi theo làm một thứ “anh hùng quốc doanh” hay “thánh tử đạo quốc doanh”!
Chúng bịa đặt ra hai câu “thơ” khuyến khích tử đạo và nói rằng của sư Thích Quảng Đức:
Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh!
Trong cuốn sách, bọn tăng ni và cư sĩ quốc doanh công khai tôn vinh những khuôn mặt Cộng sản như Tố Liên, Đôn Hậu, Minh Châu, Nhất Hạnh, Trí Quang, Trí Thủ, Huyền Quang, Thiện Hoa, Tâm Giác, Trí Tịnh, Thiện Minh, Thiện Siêu... Chúng gọi giai đoạn 1963-1975 mà GHPGVNTN nằm vùng đánh phá các chính quyền quốc gia miền Nam và đón Cộng sản vào chiếm miền Nam năm 1975, là “Thời Kỳ Dấn Thân và Tái Ổn Định 1963-1975”.
Lê Đình Thám đã khoe là “thầy” Thích Trí Quang. Lê Đình Thám có một người con trai tên là Lê Đình Duyên làm dân biệu Việt Nam Cộng Hòa. Một người con trai khác tên là Lê Đình Luân. Trước 1975, ông Luân là đại tá Phòng Nhì (Quân Báo) trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi mất miền Nam năm 1975, ông Luân hiểu sự tàn bạo dã man của Cộng sản. Ông đã tự tử nhưng được binh sĩ của ông cứu sống. Sau đó ông bị Cộng sản bắt đi tù học tập cải tạo.
Năm 1975, Lê Đình Thám (bác sĩ) từ Bắc vào tiếp thu Viện Pasteur ở Sài Gòn. Năm 1977, Thám đến trại cải tạo thăm con trai là ông Luân. Khi biết có bố đến thăm thì ông Luân, một người căm thù và kinh tởm Cộng sản, đã ra gặp Lê Đình Thám. Khi thấy mặt bố, ông Luân quỳ xuống lạy 3 lạy và nói: “Tôi lạy ông 3 lạy để trả ơn nghĩa cha con và để đoạn tuyệt từ đây. Từ nay trở đi, mỗi người một ngả, kể như không còn liên hệ gia đình!” Nói xong, ông Luân quay vào trong trại. Nếu chịu nhận họ hàng thì cán bộ Cộng sản cấp cao Lê Đình Thám có thể bảo lãnh cho ông Luân được về sớm. Nhưng đại tá Luân đã không hèn, và không thèm cái thứ ân huệ Cộng sản đó. Đại tá Luân đã bị Cộng sản giam cầm khoảng 15 năm và đã qua Mỹ theo chương trình H.O. Nghe nói các con ông Luân đều thành nhân và thành danh. (Chuyện này do một sĩ quan VNCH cùng học tập cải tạo kể lại).
Từ năm 1998 trở đi, tổ chức quốc doanh của GHPGVNTN có tên là Gia Đình Phật Tử Việt Nam đang được đưa lên sân khấu chính trị hải ngoại. Đảng Cộng sản Hà Nội và GHPGVNTN sẽ dùng Gia Đình Phật Tử như một tổ chức chính trị không có cái tên quốc doanh. Nhưng thời thế vào năm 1998 đang biến chuyển quá nhanh trong khi chính đảng Cộng sản đã mất hết quyền hành, không thể chỉ huy được bất cứ ai, và không thể thi hành được bất cứ âm mưu, thủ đoạn chính trị bịp bợm nào.
Thích Trí Quang và tập thể tăng ni GHPGVNTN còn có tham vọng đặt một nền tôn giáo công an trị mà chúng gọi là xây dựng một triều đại giống như nhà Lý ở thế kỷ 11. Nhưng bọn sư hổ mang quốc doanh Cộng sản này có “tu that và không có Đạo Đức đâu mà đòi bắt chước nhà Lý?
Một số phật tử và cư sĩ trong giai đoạn 1963-1975 và cho đến ngày nay cũng không hiểu những thủ đoạn độc ác, nham hiểm, lưu manh của bè lũ cán bộ Cộng sản núp dưới áo cà sa và tự xưng là tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang và các giáo hội, tổ chức phụ thuộc.
Hi vọng rằng sau 1975 và ngày nay, mọi người phật tử, cư sĩ đã sáng suốt và hiểu rằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang và các tổ chức phụ thuộc do cán bộ Cộng sản dựng lên và núp dưới chiêu bài Phật giáo để hoạt động Cộng sản, đoàn ngũ hóa người Việt trong mục đích đánh phá tổ quốc và dân tộc Việt Nam và áp đặt độc tài tôn giáo công an trị. Chúng không bao giờ thay đổi bản chất Cộng sản. Chúng muốn trá hình dưới hình thức “Đạo Phật” với các danh xưng có vẻ hiền lành, Phật giáo. Chúng muốn “biến Đạo thành Đảng” để tiếp tục khống chế dân tộc Việt Nam dưới bàn tay sắt công an trị!
Chúng ta không nên để bọn tăng ni Cộng sản đoàn ngũ hóa con em chúng ta dưới một danh hiệu hiền lành “Gia Đình Phật Tử” để có ngày sẽ làm vật hy sinh, tranh đấu xuống đường, biểu tình, cuồng tín đánh phá ngay quốc gia dân tộc mình, làm “thánh tử đạo”, cho những mục đích chính trị đen tối của GHPGVNTN Cộng sản. Dân tộc và chính quyền Việt Nam trong tương lai đương nhiên không thể cho Cộng sản tồn tại dưới bất cứ hình thức, danh xưng nào. Sang thế kỷ 21, mọi hoạt động chính trị và tôn giáo trong nước Việt Nam phải có sự minh bạch, rõ ràng. Không thể có sự mập mờ. Ma quỷ núp trong chùa, trong lớp áo thầy tu, trong bất cứ tổ chức “hiền lành” nào cũng bị tiêu diệt tận gốc.
Chư vị phật tử, cư sĩ cũng nên coi chừng vấn đề nghiệp báo hay là hậu quả. Nếu chư phật tử, cư sĩ phụ họa bênh vực tăng ni quốc doanh Cộng sản thì cũng phải chịu chung nghiệp báo tội ác Cộng sản của chúng, và đó là đạo kiếp vĩnh viễn. Tại sao tu theo Phật mà lại đi cung kính ma quỷ Cộng sản và “lạy thầy xưng con”? Nếu không thể phân biệt ai là Cộng sản, ai không, thì nên tu tại gia và trực tiếp cầu nguyện chư Phật là tốt nhất.
Theo Luật Trời, cũng là luật Nhân Quả, tội ác Cộng sản phải nhân bình phương với khoảng hơn 100 triệu người dân tộc Việt hiện nay và các nạn nhân Cộng sản đã chết trong hơn 50 năm qua, và dội lại thành nghiệp báo đánh vào bè lũ Cộng sản, tăng ni GHPGVNTN và những người hùa theo chúng, bênh vực chúng. Cộng sản phải bị tiêu diệt cũng vì lẽ chúng phải đền trả những tội ác nhân lên gấp trăm triệu lần.
Cái tài tình của người Mỹ là họ đã xử dụng những tên Cộng sản nằm vùng tại miền Nam “làm việc” không lương cho họ. Người Mỹ không cho cảnh sát miền Nam bắt giam bọn này. Trái lại họ còn dung túng, tỏ vẻ hỗ trợ và đồng ý với hoạt động Cộng sản của bọn tăng ni GHPGVNTN. Các báo cáo tốt đẹp và thành công của tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang đã khuyến khích Cộng sản Bắc Việt phải tấn công miền Nam.
Cộng sản Hà Nội đã coi Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Trí Dũng, Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Quảng Liên, Thích Minh Châu, Thích Thiện Minh, Ni sư Huỳnh Liên và tập thể tăng ni GHPGVNTN Ấn Quang ... là lập được công đầu khi chiếm xong miền Nam năm 1975.
12. Chúng ta cần phải chú trọng đến vấn đề ma đầu lưu manh toan tính đoàn ngũ hóa các tầng lớp dân chúng, nhất là thanh thiếu nhi. Một vài suy nghĩ về tự do, dân chủ trong tương lai.
Thượng tọa Thích Minh Tuyên của GHPGVNTN đã tổ chức Đại Hội Thế Giới Cư Sĩ Phật Tử Việt Nam trong 3 ngày 6, 7 và 8/1996 tại Hoa Thịnh Đốn. Đại Hội phật tử này có đến 4 cương lĩnh... tổ chức và chính trị! Đáng kể nhất là trong Cương Lĩnh số 2 Thích Minh Tuyên khẳng định phải “đoàn ngũ hóa” các tầng lớp phật tử hải ngoại. Trong cái gọi là Cương Lĩnh số 4, Thích Minh Tuyên có tham vọng đoàn ngũ hóa luôn tất cả các tôn giáo, đoàn thể, và các tổ chức quốc tế thành một khối do Tổng Hội Cư Sĩ Phật Tử Thế Giới của y cầm đầu, điều khiển. Tham vọng của Thích Minh Tuyên đã xì hơi, thất bại vì bị lật tẩy.
Sự kiện trên đây chứng tỏ thủ đoạn thông thường và cốt lõi của đảng Cộng sản, GHPGVNTN và bất cứ tổ chức nào có dã tâm khống chế người Việt Nam, là đoàn ngũ hóa tất cả mọi người, mọi giới, cả nam lẫn nữ, từ thiếu nhi đến lão nhân, trong nhiều tổ chức có vẻ tầm thường, bình dân, vô hại, để rồi tập trung vào những cái gọi là mặt trận liên minh, thống nhất.
Từ đó, những cán bộ gộc, những tên đầu sỏ sẽ tự phong những danh xưng oai vệ, hách dịch, để chúng biến thành những người “khổng lồ”. Chúng sẽ được sự cung kính, sợ sệt của các cá nhân nhỏ bé trong tổ chức. Chúng sẽ điều khiển họ như... lính cảm tử cuồng tín để liều mạng, liều chết cho các mục tiêu khuynh đảo chính quyền quốc gia, và các mục tiêu chính trị và cướp chính quyền. Rồi chúng gọi những người chết cho chúng là “hi sinh vì đạo pháp”, là “thánh tử đạo!”
Nước Việt Nam độc lập tự do trong tương lai sẽ phải chăm lo đến tự do hạnh phúc của toàn khối dân tộc, gồm hơn 80 triệu người đang trên đà gia tăng với nhiều sắc dân. Các chính quyền quốc gia Việt Nam không thể để cho một thiểu số lưu manh ma đầu, ma giáo quốc doanh núp dưới bóng tôn giáo để khuynh đảo quốc gia dân tộc, xâm phạm đến quyền tự do và sự an sinh của nhân dân, và đe dọa sự trường tồn, đoàn kết của dân tộc và quốc gia.
Tất cả mọi tội ác gian manh của Cộng sản và các tổ chức và nhân sự ngoại vi Cộng sản trong GHPGVNTN và Mặt Trận Tổ Quốc phải được chép thành sử sách để truyền lại cho đời sau. Cần phải ngăn chận bọn lưu manh, ma đầu chính trị núp dưới bóng tôn giáo và đảng phái. Chúng có thể làm bất cứ cái gì, kể cả mượn thế lực, tiền bạc ngoại bang để đánh phá chính quyền quốc gia và nền độc lập, tự chủ và tự do của Việt Nam một lần nữa. Tóm lại đảng Cộng sản Hà Nội, tập thể GHPGVNTN và các tổ chức phụ thuộc, các tăng ni quốc doanh, các nhân sự trong các tổ chức ngoại vi Cộng sản trong Mặt Trận Tổ Quốc, các tổ chức Cộng sản trá hình... đều phải được đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Trong nước Việt Nam tự do và độc lập sau này sẽ chú trọng ngăn cấm mọi hình thức “đoàn ngũ hóa” (regimentation) để kiểm soát và điều khiển tư tưởng các thanh thiếu niên, thiếu nhi. Một điều quan trọng trong Hiến Pháp của một nước Việt Nam tự do là cấm ngặt mọi hình thức đoàn ngũ hóa trói buộc công dân Việt Nam mọi lứa tuổi cho các mục đích chính trị, đảng phái, giáo hội, và chia rẽ sự đoàn kết dân tộc.
Đoàn ngũ hóa cũng có nghĩa là nô lệ hóa (subjugation, enslavement), xử dụng tổ chức, giáo hội, đảng phái như một phương tiện quyền lực khổng lồ để đè bẹp các cá nhân nhỏ bé. Các học sinh, sinh viên phải hiểu rằng không nên nhẹ dạ gia nhập bất cứ tổ chức chính trị, tôn giáo, hay giáo hội nào có tính cách bó buộc, đoàn ngũ hóa. Vì vào những tổ chức này là bị kẹt không thể rút ra. Các đoàn viên, hội viên hay đảng viên sau khi gia nhập, sẽ bị mê hoặc đến cuồng tín, sẽ bị dụ dỗ, ép buộc phải làm những việc sai trái với ý muốn, trái với lương tâm, nguy hiểm cho bản thân, làm hại người khác và phản bội tổ quốc dân tộc.
Mỗi người Việt Nam từ nhỏ đến lớn đều phải được hoàn toàn tự do trong một quốc gia độc lập, không bị trói buộc vào trong một tổ chức chính trị hay giáo hội nào có tính cách độc quyền, độc tài, chuyên chế và bịp bợm. Người Việt Nam không cho phép và không chấp nhận bất cứ ai “đoàn ngũ hóa” họ thành những đàn bò dễ bảo hay thành những đám đông cuồng tín, những lợi khí để phục vụ cho các mục đích chính trị đen tối của những tên ma đầu, lưu manh, tham tiền, tham dâm dục, tham quyền lực nhưng mặc áo thầy tu và núp dưới bóng tôn giáo.
Tất cả mọi người Việt Nam, nhất là thanh thiếu nhi, đều phải được tự do học hỏi, phát triển trong tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Mọi kỳ thị và phân biệt chủng tộc, tôn giáo, địa phương đều phải được xóa bỏ. Từ bậc trung học trở lên các học sinh, sinh viên đều phải học những bộ môn giáo dục thiết thực đến đời sống tâm linh, chính trị, kinh tế, xã hội và nền tảng gia đình.
Thí dụ trong bậc trung học, mỗi tuần phải có một giờ về triết học, triết lý tôn giáo, đường lối tu hành khác nhau của mỗi tôn giáo lớn, khoa học siêu hình, khoa học tâm linh, phát triển cơ thể và trí tuệ về hướng tâm linh, phải phân biệt giữa tôn giáo thiêng liêng và sự khác biệt giữa các giáo hội và giáo điều , giáo luật do người phàm tục đặt ra, đạo làm người quân tử, thế nào là tiểu nhân, thế nào là Cộng sản gian ngoan, giảo quyệt, tàn ác, bịp bợm, lật lọng...
Các học sinh, sinh viên sẽ phải học và nghiên cứu tập quán, tục lệ truyền thống và nền văn minh cổ xưa của giòng giống Lạc Việt và của các sắc tộc địa phương. Cần phải hiểu tại sao Việt Nam lại có truyền thống thờ cúng tổ tiên? Truyền thống này có phải là mê tín dị đoan hay không? Có cần phải duy trì và tiếp tục truyền thống thờ cúng tổ tiên đã có từ 5 ngàn năm trước, lâu hơn cả nhiều thứ tôn giáo đương thời.
Cần phải học hỏi về luật lệ, luật quốc gia và các thứ luật và giáo lý, giáo luật riêng biệt của các đảng phái và giáo hội. Cần tìm hiểu tại sao quốc gia phải cần có luật pháp để bảo vệ công dân và các quyền lợi, quyền tự do công dân. Cần tìm hiểu tại sao những luật lệ do con người, không phải quốc gia, đặt ra lại có thể trói buộc những công dân Việt Nam trong vòng nô lệ tinh thần, tâm linh và bóc lột tiền bạc? Cần phải tìm hiểu tại sao những người cũng mang giòng máu Việt Nam lại trở thành những kẻ nội xâm, nội thù, đánh phá dân tộc, tổ quốc Việt Nam?
Một giờ học khác mỗi tuần sẽ dạy về các loại chính trị khác nhau Cộng sản Bắc Việt và các hoạt động chính trị núp dưới bóng tôn giáo. Phải tìm hiểu tổ chức chính trị theo các kiểu độc tài đảng phái công an trị, độc tài giáo hội công an trị, độc tài tham nhũng công an trị, độc tài gia đình gia nô công an trị. Tại sao các chế độ độc tài phải áp dụng công an trị dưới nhiều hình thức và danh xưng. danh hiệu khác nhau?
Tại sao những tên chính trị gia hoạt đầu (opportunists), mị dân (dimagoguis), những tên tham lam ngu dốt phải núp bóng tôn giáo để thành lập các “giáo hội chính trị”? Chúng chỉ nhằm nô lệ hóa, trói buộc con người về nhiều mặc xã hội, kinh tế. Chúng bắt tín đồ, đảng viên, phật tử đóng góp tiền tài, sức lực, nô lệ tinh thần và tâm linh, trong khi chúng vẫn vổ ngực hô to dân chủ, bình đẳng tự do với mục đích bịp bợm. Bọn ma đầu, ma giáo quốc doanh chỉ giỏi bịp bợm những người đang bị Cộng sản kềm kẹp nên ít học và ít suy nghĩ. Khi dân trí tiến bộ và văn minh như những người Việt hải ngoại hiện nay thì bọn ma đầu, ma giáo quốc doanh không thể bịp bợm.
Một giờ học khác sẽ dạy lịch sử về các hình thức xâm lăng đất đai thuộc địa, xâm lăng tinh thần và tín ngưỡng, xâm lăng vào trong tâm não người dân hiền lành và các thanh thiếu nhi. Cần phải giáo dục học sinh và sinh viên hiểu rõ thế nào là đời sống dân chủ, tự do trong tinh thần yêu quê hương, tổ quốc, nòi giống, và sự kính trọng quyền tự do, dân chủ và tư hữu của người khác.
Chỉ cần phân tích và xử dụng một giai đoạn lịch sử trong 2 thế kỷ 19 và 20 để giáo dục, cũng đủ cho các học sinh, sinh viên Việt Nam có sự hiểu biết sâu rộng về chính trị đa diện và các sự tàn ác, gian ngoan, hiểm độc của các cuộc xâm lăng tinh thần, xâm lăng thực dân thuộc địa, xâm lăng và nội xâm của Cộng sản, bè lũ nội thù quốc doanh GHPGVNTN và các tổ chức phụ thuộc ngoại vi trong Mặt Trận Tổ Quốc Cộng sản.
Học đường và các trường đại học phải tổ chức các buổi tranh luận, đấu lý, phân tích giữa các nhóm sinh viên, học sinh (debating groups) về tự do, dân chủ, tôn giáo và nhiều đề tài khác. Nên đặt câu hỏi tại sao các đoàn thể, đảng phái, tổ chức, giáo hội lại có thể cướp mất quyền tự do dân chủ của người dân bằng cách đoàn ngũ hóa? Phải chăng đoàn ngũ hóa cũng là một hình thức nô lệ hóa và cầm tù con người trong những luật lệ nhỏ hẹp, không phải luật lệ quốc gia? Cần phải tranh luận về khả năng của các tổ chức, đảng phái, cá nhân, nhận tiền bạc và hậu thuẫn từ bên ngoài để khuynh đảo quốc gia, dân tộc và để cướp đi quyền tự do dân chủ của dân Việt qua nhiều hình thức, phương pháp khác nhau.
Khi được giáo dục đầy đủ như vậy thì các thanh thiếu nhi sẽ trở thành những công dân sống trong tự do dân chủ với thông minh, sáng suốt, hiểu rõ phải trái, hiểu rõ sự thật của nhiều vấn đề. Họ sẽ có đức tin thật trong sáng và thánh thiện nơi các vị thiêng liêng mà họ thờ lạy tôn kính. Họ sẽ không bị mắc vào vòng mê tín, dị đoan và nhất là không tin theo những tên ma quỷ, ma giáo núp bóng tôn giáo và các vị Chân Sư thiêng liêng.
Tín ngưỡng và đức tin là đời sống riêng tư của mỗi người. Mỗi người đều có quyền lựa chọn bất cứ tôn giáo nào họ muốn khi đến tuổi trưởng thành. Không ai, kể cả chính quyền hoặc người hôn phối có quyền xâm phạm đức tin và tín ngưỡng riêng tư của mỗi cá nhân. Không ai có quyền dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc công dân Việt phải tham gia bất cứ giáo hội hay tổ chức nào có tính cách “đoàn ngũ hóa”.
Không ai có quyền dùng xảo ngôn, xảo ngữ để lừa gạt bịp bợm, lung lạc, lợi dụng thanh thiếu niên và công dân nước Việt Nam về mặt tiền bạc, quyền lực và thao túng chính trị. Mỗi người Việt Nam đều có quyền sống tự do. Không có cá nhân hay giáo hội, đảng phái, phe nhóm nào được quyền xâm phạm tự do cá nhân của công dân Việt Nam.
Tất cả tổ chức, hội đoàn nào muốn xin phép hoạt động phải được đặt thành vấn đề là có mục đích và dụng ý đoàn ngũ hóa hay không? Phải có quy chế và cam kết rõ ràng về danh xưng, danh hiệu, điều lệ, cương lĩnh cho mọi hình thức ra báo chí, phát thanh, truyền thông, lập hội, lập đảng chính trị và lập giáo hội. Mỗi người không có quyền tự đặt tên, hoặc xử dụng những danh xưng to tát, bất xứng và quá lố để khiến cho người khác tự nhiên phải xưng hô, xưng tụng mình với các danh hiệu đầy cao ngạo và lố bịch.
Không lẽ tự đặt tên mình hay đặt tên cho con mình là “Nguyễn Ông Nội” rồi bắt các người khác phải kêu mình hay con mình là “ông nội”? Không lẽ vừa mới cạo đầu, xuống tóc, mặc áo cà sa nhưng hỉ mũi chưa sạch mà khiến cho những bậc trưởng thượng lớn tuổi phải kính cẩn kêu mình là “thượng tọa”, “đại đức”, “”ông nội” và “thưa thầy xưng con”? nếu không có những biện pháp phòng ngừa ngay từ đầu thì một số người háo danh sẽ làm cho cả nước bị loạn danh xưng. Đi đến đâu ta sẽ chỉ thấy “đức nầy, ngài nọ, chư tôn đức”, cho chí đến Vô thượng sư sú ma, thượng đế, phật sống, thánh sống, thánh chết...
Tất cả những người dùng tên các danh nhân, anh hùng liệt sĩ trong lịch sử đặt tên cho con cái một cách hỗn láo với tiền nhân, với tổ tiên với người trưởng thượng đều không được làm giấy khai sinh. Tất cả những người, trong và ngoài giáo hội, đảng phái, tự đặt tên cho mình những danh hiệu, danh xưng có tính cách cao ngạo, phạm thượng đều không được tiếp xúc với chính quyền các cấp. Những người nào in vào danh thiếp những danh xưng tự phong, không có ở trong môn bài hay giấy phép hành nghề, dù để bịp bợm hay để cao ngạo, hãnh diện, đều phải đóng một khoản tiền phạt đặc biệt nặng nề.
Tại sao những người thích tự phong cho mình những danh hiệu to tát, oai vệ và cao ngạo một cách lố bịch như vậy, mà không biết ngượng? Có lẽ họ háo danh tới mức không còn liêm sỉ nữa chăng? Những người mang danh tu hành mà còn ham các danh xưng to tát thì không phải là tu hành thật sự. Chỉ có ma quỷ mới thích được gọi bằng danh xưng, danh hiệu đầy cao ngạo, hỗn láo tới Trời, Phật, Thượng Đế.
Đức tính cao quý nhất của bất cứ người chân tu nào, kể cả các vị Chân Sư như Thích Ca và Jesus, đều là sự khiêm tốn, khiêm nhượng, nhã nhặn, từ bi, bác ái, độ lượng, vị tha. Nếu Đức Thích Ca hay Đức Jesus có hiện diện thì sự thánh thiện sẽ tỏa rộng như hào quang sáng ngời. Mọi người sẽ hiểu ngay các Ngài là siêu phàm và tự động cúi đầu cung kính các Ngài. Các Ngài không cần phải tự xưng danh Phật hay Chúa.
Các Ngài không cần cả đến sự cung kính của trần gian, thì cần gì phải có danh xưng oai vệ? Các Ngài chỉ cần độ hóa cho mọi người, bất cứ người nào, không phân biệt tôn giáo và giáo hội, khi họ cầu khẩn các Ngài để được sự cứu giúp, ân độ về đường tu hành, tiến hóa. Các Ngài không bao giờ có ý định lập các tôn giáo hay giáo hội riêng biệt, Các Ngài không bao giờ muốn đoàn ngũ hóa và nắm giữ tinh thần mọi người. “Tự do Tinh thần, Tư tưởng và Tin tưởng” và tiến tới sự Giác Ngộ... là mục đích chính yếu của sự tu hành và lý tưởng cao siêu của các vị Chân Sư.
Các vị Chân Sư không bao giờ và không cần phải hiện thân cho mọi người thấy. Sở dĩ mọi người không thể thấy được sự hiện diện của các Ngài vì các Ngài chỉ là Ánh Sáng chói lòa với sức rung (vibrations) cao độ. Đôi khi những trẻ nhỏ ngây thơ có thể nhìn thấy vì chúng còn trong sạch, vô nghiệp và được ân độ đặc biệt để gia tăng sức rung, để có thể thấy hoặc nghe... các Ngài không cần hiện diện, ra mặt, hiện thân như một lãnh tụ tôn giáo. Mọi người chỉ cần noi theo gương tinh thần của các Ngài là đủ.
Chỉ có ma quỷ Cộng sản, ma quỷ các loại, quỷ ngạo mạn, quỷ vô thường, quỷ tham và các ngạ quỷ mới cần đến những danh hiệu tự phong một cách cao ngạo, hỗn xược và phạm thượng. Ma quỷ thích hiện diện ra mặt với mũ cao áo đẹp để gây sự cung kính cho mọi người. Chúng giấu giếm sự ngu dốt, phàm tục, đầy tham lam, tội ác và không có quyền năng siêu phàm của chúng. Chúng thích thú làm cho người đời phải kính sợ chúng qua những danh xưng oai vệ với sự cung kính vái lạy, khấu đầu, và đưa tiền cho chúng tiêu!
Nước Việt Nam sau này muốn được ổn định, thái bình thì phải có những luật lệ nghiêm minh, rõ ràng để bảo vệ quyền công dân, quyền tự do sinh sống, quyền tư hữu, quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do di chuyển, lựa chọn chỗ cư trú... Phải có sự phân biệt và chia cách rõ ràng giữa các giáo hội và quốc gia (Separation of church and state). Phải có sự bảo vệ quyền tự do phát triển và tinh thần, thể xác cá nhân các công dân.
Báo chí, truyền thông, học đường, các cơ quan hành chính và các tổ chức hội đoàn cần phải thường xuyên lố bịch hóa, khôi hài hóa những danh xưng hỗn xược, ngạo mạn quá lố để răn đe và ngăn ngừa những kẻ kiêu căng, tự đắc, cao ngạo và thích tự tôn.
Cũng cần phải có luật nghiêm cấm mọi sự xâm phạm các quyền tự do, tài sản và sinh mạng của mỗi công dân. Mỗi tờ báo hay đài phát thanh, mỗi hội đoàn hay tổ chức, mỗi đảng phái chính trị hay giáo hội đều phải có những điều lệ về tổ chức, danh xưng, danh hiệu, điều hành, sổ sách, kế toán, thu nhập, thuế má, và các đòi hỏi quy định về luật pháp, hành chánh... trước khi được cấp giấy phép. Các tổ chức, giáo hội nào nhận tiền của người ngoại quốc hoặc vận động thế lực ngoại quốc để khuynh đảo chính trị quốc gia đều phải chịu tội phản quốc, phản bội dân tộc.
Không thể có chuyện treo đầu dê, bán thịt chó! Không thể vổ ngực tự xưng tu hành, rồi lập giáo hội làm chính trị, đoàn ngũ hóa, xách động tín đồ phật tử vào con đường tranh đấu chính trị, đánh phá dân tộc, tổ quốc và chính quyền quốc gia. Các giáo hội phải có điều luật trừng trị giáo chức, tu sĩ, tăng ni phạm giới, tham dâm, tà dâm, tham tiền và phải đóng tiền phạt thật nặng cũng như bồi thường thật nặng cho các nạn nhân. Phải có biện pháp trừng phạt đối phó với những tu sĩ đưa ra những bài giảng hay thuyết pháp có tính cách chính trị, xách động quần chúng, để gây rối loạn.
Những tên ma đầu, ma giáo quốc doanh, lưu manh chính trị luôn miệng đòi tự do cho hội đoàn của chúng. Chúng không bao giờ nghĩ đến tự do của dân tộc, của tổ quốc và của những người khác trong nước. Chúng không bao giờ tôn trọng quyền tự do cá nhân và quyền công dân của mỗi người. Miệng chúng hô hào tự do dân chủ, tự do tôn giáo nhưng chúng vẫn thích đoàn ngũ hóa mọi người dân để đưa họ vào vòng nô lệ chính trị, nô lệ tôn giáo, và để chúng lợi dụng trong các mục đích gian manh.
Bọn tăng ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang xúi dại những người trẻ tuổi chết cho các mục đích chính trị lưu manh của chúng. Chúng gọi đó là “tranh đấu”. Chúng đẩy những người chết cho mục đích đánh phá chính quyền, rồi chúng gọi họ là “hi sinh vì đạo pháp”, là “cúng dường Tam Bảo”, là “Thánh tử đạo”, là “bồ tát”, “bồ tát tại gia”... Bản thân chúng thì chỉ nói láo, nói bịa đặt, và thu tiền của Phật tử cho đầy túi tham, chứ chẳng thấy tên nào “hi sinh vì đạo pháp”!
Khi Thích Trí Quang nhận tiền của tướng Khánh, tướng Kỳ, y có chia chác cho tăng ni hay phật tử nào không? Hay y gởi ra chiến khu tiếp tế cho đặc công Cộng sản để giết người Việt? Tăng Thống quốc doanh Thích Huyền Quang đã hô rằng sẽ liều mình vì đạo pháp! Sư quốc doanh Thích Không Tánh, Thích Nhật Liên, Thích Hạnh Đức, Thích Nhật Ban... đã hô tuyệt thực cho đến chết biết bao nhiêu lần... để rồi vẫn sống nhăn!
Toàn thể nhân dân Việt Nam phải được hướng dẫn, giáo dục, học hỏi rõ ràng về tự do, dân chủ, nhân quyền và các quyền hạn, quyền lợi và bổn phận công dân. Khi mỗi người dân hiểu biết được thế nào là sống trong tự do dân chủ, thế nào là độc tài công an trị, thế nào là bịp bợm, mị dân, thì những tên chính trị hoạt đầu, những tên lưu manh, ma đầu, ma giáo quốc doanh sẽ không thể hoạt động chính trị bịp bợm được nữa.
Đứng trước sự đe dọa xâm lăng thường xuyên từ phương Bắc, dân tộc Việt Nam phải giữ vững cái thế đoàn kết dân tộc như tổ tiên ta đã duy trì trong hai ngàn năm qua. Dân tộc Việt Nam không cho phép những tên ma đầu chính trị, ma giáo quốc doanh, đảng phái, giáo hội phá hoại và chia rẽ sự đoàn kết để trường tồn này.
Tập Hiển Thơ Mầu Nhiệm . ghi rằng:
Quỷ truyền, ma dạy... dạ vâng!
Tu hành kiểu đó! khỏi cần quy y!
Gặp đảng quỷ, lòng thì run sợ!
Gặp Chúa Ma, ú ớ không lời!
Nghe lời quỷ dạy... ngu ngơ,
Sửa Kinh lời Phật! Ai ơi... coi chừng!
Nghe lời lũ quỷ rừng, đấu tố!
Tố Thầy sư, tố khổ các Cha!
Giả vờ... mặc áo cà sa,
Cạo đầu trọc lóc, trong là dao găm!
Đảng lũ Quỷ cố tầm Kinh sách
Cho công an... học cách tu hiền,
Giả làm.. sư sãi chùa chiền,
Giỏi mồm, giỏi mép huyên thuyên Đạo mầu,
Mấy sư quỷ! Trọc đầu Cách Mạng!
Trà trộn vô thôn bản từ bi,
Chúng làm bất cứ những gì...
Có lệnh công tác, chúng thi hành liền!
Sư lựu đạn! Chùa chiền khá bộn,
Sư dao găm! Trà trộn thế gian,
Điển Thầy phân nghĩa rõ ràng,
Coi chừng... lũ quỷ lan tràn Đạo ta!
Ghé tai ghé mắt chép ghi,
Phật Giáo yêu nước! Danh từ đúng y
“Nhắn Nhủ” Hiển Thơ Mầu Nhiệm
“Vất Dao Thành Phật”: Người Đồ Tể giết gà, chó, trâu, bò, một khi vất dao đi thì có thể tu hành đắc đạo. Còn Chính Trị Bộ Hà Nội, chính xác là giặc nội thù tới đâu bàn tay nhúng máu hôi tanh, giết hại đồng bào, phá nát quê huơng. Lột xác kiểu Tư Bản Đỏ chính là khoác áo cà sa giáp thép thật rộng để giấu gươm sắt, dao găm, lựu đạn: Dù người không thông minh cũng thấy rõ. Thật là bịp bợm! Chính trị là thuần thủ đoạn nhưng phải là Hoa Nhân Ái. Ái Hoa mới đạt tới hạnh phúc hài hòa.
Ðể kết thúc bài này Xin trích một đoạn trong Tập thơ Vô Đề & Khuyết Danh
Con rắn Đỏ vô cùng hung hiểm
Nó sinh ra lớn, lên nhờ súc siểm
Nhả nộc hận thù phờ phĩnh công phu
Khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù
Lạy lục Tầu Nga không nề điếm nhục
……………………………………………………………………………….
Có những con người giả đui, điếc thầm câm
Song rất thính và nhìn xa rất tốt.
…………………………………………………………………………..
Con rắn Hồng dù lột xác cũng không
Thoát khỏi lưới trời lồng lộng mênh mông.
Lẽ cùng thông huyền bí vô cùng
Giờ phút lâm chung quỷ yêu làm sao ngờ nỗi
Rồi đây
Khi đất trời gió nỗi
Tàn hung ơi ! Bão lữa, trốn vào đâu ? bám vào đâu ?
.........................................................
Tập thơ Vô Đề & Khuyết Danh
No comments:
Post a Comment