Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy, sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh.
Thành phố Huế có 3 quận đó là quận I, II, III. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội). Tỉnh Thừa Thiên có 10 quận, từ Bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía Nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía Tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng côïng có 73 Xã.
Dựa theo hệ thống tổ chức địa dư và hành chánh của Chính Phủ VNCH, Phật giáo Ấn Quang có 73 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, 13 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Quận, và Tỉnh hội Phật giáo. Ngoài ra, trong chính quyền, Phật giáo Ấn Quang còn có các tổ chức ngoại vi : Công Chức Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Sư Đoàn I thì có Quân nhân Phật Tử (Chiến Đoàn Nguyễn đại Thức), Cảnh Sát Quốc Gia thì có Cảnh Sát Phật Tử, đặc biệt hơn nữa là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba.
Lãnh đạo Phật giáo miền Trung và Thừa Thiên Huế là thầy Thích Đôn Hậu, trụ trì Chùa Linh Mụ, với chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh.
Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và lá bài tối quan trọng của cộng sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan.
Mậu Thân 1968, trong những ngày đầu chiếm Huế, Hà Nội tưởng đã thắng, nên cho thầy tu Thích Đôn Hậu xuất đầu lộ diện, trong lực lượng ngoại vi của cộng sản : Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình.
Những ngày kế tiếp, khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Cảnh Sát Quốc Gia và lực lượng Hoa Kỳ phản công mạnh, tái chiếm Huế, Hoàng Kim Loan đã phái cán bộ hộ tống Thích Đôn Hậu qua ngã Chợ Thông, Văn Thánh lên mật khu và từ đó đi ra Bắc.
Tại Hà Nội, Đôn Hậu cùng với các tên cộng sản nằm vùng tại Huế trước 1966, như Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm v.v.. theo lệnh Trung Ương Đảng, thành lập phái đoàn Đại Diện Trí Thức và Tôn Giáo Miền Nam đi Trung Cộng, Tây Tạng, truyên truyền cho Hà Nội. Đến 1975 y trở lại trụ trì tại Chùa Linh Mụ. Nhân vật thứ hai đầy quyền uy, không những đối với Phật Giáo đồ miền Trung, mà toàn cả Phật Giáo đồ miền Nam Việt Nam, đó là Thích Trí Quang – Ông này tên thật là Phạm Văn Bồng. Quê quán làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cùng quê với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Xuất gia từ năm 14 tuổi, trước 1955, y đã trú ngụ tại Chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm nằm về phía Tây thành phố Huế cạnh dốc Nam Giao và dốc Bến Ngự, sát bên nhà thờ cụ Phan Bội Châu. Trụ trì chùa Từ Đàm là Thích Thiện Siêu cũng là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Sau năm 1975 Thiện Siêu được Hà Nội cho làm Dân Biểu trong Quốc Hội của chúng.
Theo hồ sơ của sở Liêm Phóng, tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và sau này tin tức thẩm vấn cán bộ Việt cộng được cập nhật thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên côïng sản. Thích Trí Quang gia nhập đảng cộng sản Việt Nam vào 1949, tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu, Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phía Tây lăng vua Gia Long, cách làng Đình Môn khoảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam.
Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng cộng sản.
Tên Việt Côïng thứ 3 đội lốt thầy tu, tối nguy hiểm, đó là Thích Chánh Trực, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang. Thích Chánh Trực tu tại Chùa Tường Vân, nằm giữa chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao. Chùa Tường Vân là nơi tu hành của Ngài Thích Tịnh Khiết Giáo Chủ Phật Giáo V. N.
Thích Chánh Trực hoạt động bề nổi, mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, lên đường xuống đường, đều có mặt Thích Chánh Trực. Trực là cơ sở Tôn Giáo Vận của Hoàng Kim Loan đã từng đưa Hoàng Kim Loan vào ở với y tại Chùa Tường Vân trong hơn 1 năm. Tên này dáng dấp cao to, mắt trắng môi thâm, nhìn thẳng vào hắn thấy rõ 3 chữ : Tham, Sân, Si, hiện trên nét mặt, khuôn mặt của kẻ lưu manh gian ác. Hắn đã lén lút có một đứa con trai với một nữ tín đồ, chuyện này Hoàng Kim Loan biết rõ hơn ai hết.
Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên cộng sản :
Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây.
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v...v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa Thiên – Huế, đều phải có sự chấp thuận của chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu.
Trong khi đó thì tên điệp báo Việt cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật giáo. Từ Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân sự, Hành chánh của chính phủ Việt Nam Côïng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào.
Ngay khi tiếng súng đảo chánh 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ.
Thừa Thiên - Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu, hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được.
Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương, cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về, hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ, phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng này là của một giai nhân quý phái nào đó ở đất Thần Kinh.
Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những điệp vụ ngoài Bắc. Những điệp viên của cơ quan này tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội.
Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc, vào năm 1956, là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này.
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh này đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm, thì cũng nghĩ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những điệp vụ phía Bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một bông hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam.
Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung, kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền Bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận.
Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế, đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên sĩ quan:
- Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh. Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:
- Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó, Thiếu tướng lo cho họ. Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy móc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ, trước khi căn nhà màu hồng này bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc.
Các cuộc biểu tình hoan hô “cách mạng”, đả đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quý Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm.
Trước 1963, ít ai nghe và cũng chẳng ai biết địa danh Chín Hầm. Chín Hầm nằm về phía Tây thành phố Huế, ngay phía sau lăng Vua Khải Định và cạnh dòng tu Thiên An. Đó là một dãy 9 hầm của quân đội Nhật, rồi đến quân đội Pháp dùng để chứa đạn, đúng nghĩa đó là 9 hầm chứa đạn, kho đạn.
Sau khi nguồn tin được tung ra là các Thầy bị giam tại Chín Hầm, đã có người hướng dẫn, hằng ngàn thiện nam, tín nữ, sinh viên, học sinh, các bà tiểu thương chợ Đông Ba ào ạt kéo lên Chín Hầm giải thoát cho quý Thầy.
Màn kịch diễn ra tại Chín Hầm thật thương tâm, khiến người thiệt thà, ngây thơ đứng xem phải rơi lệ. Soạn giả và diễn viên của vở kịch này quá xuất sắc. “Quý Thầy” được các tín đồ đưa từ các hầm giam ra ngoài, có thầy quá đuối sức đi không nổi phải có người dìu đi. Quý Thầy đều mặc áo nâu sồng, đầu cạo láng bóng. Tín đồ nhào vào, nhất là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, ôm chầm quý Thầy, khóc lóc thảm thiết. Nào ai biết được, tất cả là đồ giả, quý Thầy là đồ giả. Bọn chúng là đám Việt cộng thứ thiệt, thứ cao cấp bị bắt giữ.
Trước đó một vài hôm, cơ sở của bọn chúng đã đem áo nâu sồng vào cho bọn chúng mặc, cạo đầu láng bóng, ngồi đợi để được giải thoát. Mà quý Thầy được giải thoát thật, nhưng sau khi được giải thoát, quý Thầy không về chùa, mà lại lên núi tu hành tại các mật khu, để rồi Mậu Thân 1968, tu hành đắc đạo xuống núi bắn giết đồng bào Huế. Ra lệnh chôn sống hơn 5000 ngàn thường dân trong những mồ chôn tập thể, trong số hơn 5000 ngàn nạn nhân đó, số lượng phật giáo đồ chân chính không phải là nhỏ, rồi đến 1975, bọn này lại bắt bớ tù đày biết bao nhiều người dân Huế.
Màn bi kịch Chín Hầm vừa nói trên, đạo diễn là Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Diễn viên là nhân viên do Hoàng Kim Loan và các cơ sở của hắn đã cài vào trong hàng ngũ Phật giáo. Bọn chúng đã hoàn tất nhiệm vụ mà Hà Nội giao phó: giải thoát tất cả các cán bộ cộng sản cao cấp bị lực lượng An ninh của Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa bắt giữ .
Những ngày kế tiếp, dưới áp lực của quý Thầy, Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Ông Phan Quang Đông ra xử.
Theo hồ sơ số 95 ngày 8-5-1964 lưu trữ tại Văn khố BCH/Thừa Thiên Huế, thì người hỏi cung Phan Quang Đông là Trần Văn Cư, Chủ sự phòng Cảnh sát thuộc Nha Cảnh Sát miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần và Tư Pháp Cảnh Lại là Nguyễn Văn Mão, làm thư ký .
Như vậy có khác gì chùa và Việt cộng phối hợp hỏi cung trùm Tình báo miền Nam Việt Nam Phan Quang Đông đâu, vì Trần Văn Cư là đệ tử ruột của Thích Đôn Hậu và Nguyễn Văn Mão nguyên là Phái khiển Tình báo Chiến Lược, bị bắt trước đảo chánh 1963. Sau này Trần Văn Cư được phong làm Phó Giám đốc CSQG vùng I .
Với tội danh: Mật Vụ Nhu, Diệm, đàn áp Phật giáo, thủ tiêu, bắt giam và hành hạ dã man, tàn bạo quý Thầy và tín đồ Phật giáo. Với tội danh bị vu cáo này, toà tuyên án tử hình Phan Quang Đông. Và Ông đã bị xử bắn tại sân vận động Tự Do, tức sân Vận Động Bảo Long tại Huế.
Đồng ý khi bước chân vào nghề Tình báo, nghề của một Điệp Viên, sinh nghề tử nghiệp đó là chuyện thường tình khi bị sa vào tay địch. Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống cộng sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông, nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có Ông biết, chiến hữu của Ông biết, Trời biết, Đất biết, Hồn Thiêng Sông Núi biết và..Tổ Quốc Ghi Công. Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm, Công Tố là những Sĩ Quan, là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính Phủ miền Nam Việt Nam. Giờ này họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem Ông Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngoài Bắc ra xử bắn.
Các ông đã quá hèn hạ, sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo, như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hoàng Kim Loan, là Cục 2 Quân báo và Nha Liên Lạc, tức Cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội. Rồi đây, lịch sử sẽ phê phán, định tội các ông.
Sau ngày 1-11-1963, hệ thống tình báo hữu hiệu của miền Nam đối đầu với 2 cơ quan Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của Cộng sản Hà Nội hoàn toàn bị sụp đổ.
Cơ quan Tình Báo phụ trách miền Bắc của ông Phan Quang Đông và Đoàn Công Tác Đặc Biệt phụ trách an ninh miền Nam của ông Dương Văn Hiếu bị địch dùng bàn tay người quốc gia: “Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng” đánh phá tan tành, kẻ bị bắt tù đày, kẻ bị sa thải. Tất cả đều mang tội danh Mật Vụ của Nhu, Diệm đàn áp Phật giáo..
Thử nhìn lại một vài thành quả công tác của hai cơ quan này, để thấy có phải họ là Mật Vụ đàn áp Phật giáo hay không:
Vụ nhân dân Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế hoạch và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay, tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn chưa thể tiết lộ.
Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu chỉ huy. Trách nhiệm của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những điệp viên thuộc hai cơ quan tình báo miền Bắc gởi vào Nam : Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc.
Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của cộng sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là: Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa.
Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa.
Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân Báo đóng tại vùng núi Cao nguyên Trung phần, thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy Trưởng.
Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy mạng lưới Quân Báo các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài Gòn, đến nhà Phạm Bá Lương để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Phạm Bá Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm Bá Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức vụ Công Cán ủy Viên. Bộ trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975 Lê Câu giữ chức Vụ Tổng Thanh Tra ngành Công An Việt cộng .
Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm Trưởng lưới điệp báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.
Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài Gòn .
Tư Hùng, Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là đảng viên cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung.
Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5, gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của đảng cộng sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.
Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saigòn.
Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy trưởng Tổng Cục Tình Báo Chiến lược Việt cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục Tình báo Chiến Lược Việt cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần Ngọc Trí tức Mười Hương. Mười Hương là Khu Ủy Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại miền Nam, đồng thời phân tích và lượng giá tình hình quân sự và chính trị của chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười Hương đã bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1958.
Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo chiến lược Việt cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958.
Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp, bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sàigòn y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.
Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh. Cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Sàigòn - Chợ Lớn cộng sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Sàigòn. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
Lê Thanh Đường, phái khiển Tình Báo, thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam . Nghề nghiệp hợp pháp tại Sàigòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sàigòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.
Tôn Hoàng, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam. Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959 .
Dư Văn Chất, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Saigòn. Chức vụ Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Saigòn.
Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.
Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958.
Hoàng Hồ, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàigòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa y là Dân Biểu (!?)
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàigòn. Sau đó bị Trung Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và toán Đặc Biệt của ông bắt giữ và triệt tiêu Cụm A 22 Cục Tình Báo Chiến Lược, khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ cộng sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản, bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ, đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao Thừa Phủ ( Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm.
Những ngày đầu của cuộc đảo chánh 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình Báo, điệp viên Hoàng Kim Loan, đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm. Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng đưa vào SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả tự do cho bọn côïng sản này, vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong quân đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng, kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng, đến các chỉ huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự, cũng như Tình Báo Quân đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân khu, có gan to bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ cộng sản thứ thiệt và đám Việt cộng đội lốt thầy tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ : Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư đảng Cần Lao, đàn áp quý Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu tình đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch hướng chỉ đạo của ông ta.
Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán nhau tranh dành ngôi báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại Saigòn, nay đảo chánh, mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm do bàn tay của Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản đạo diễn.
Ngày19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng cộng sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được trung ương đảng Côïng sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên này là điệp viên của Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược Cộng sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố. Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công của Đại tá Việt cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K 1, K 2, tấn công quận lỵ Nam Hòa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Hòa cách thành phố chưa đầy 10Km. Cuộc tấn công của Việt cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Hòa phản công và đẩy lui.
Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là hai nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán vì đương sự có bằng Cử Nhân Luật, ngạch Quận Trưởng (Commissioner), đương sự có anh ruột là cán bộ cộng sản “quân hàm” Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng, cán bộ điều khiển của y là Hoàng Kim Loan.
Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Trần văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau).
Thời gian này hai Ty Cảnh Sát chưa sát nhập, một bên là Ty Công An Thừa Thiên, một bên là Ty Cảnh Sát thị Xã Huế. Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy.
Về Quân sự, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên- Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn I. Ông đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận, không phải là một nhà chính trị, vì thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên này báo cáo đầy đủ lên Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm. Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và Đôn Hậu thì có thể dùng lực lượng đông đảo Phật giáo đồ tại Huế và miền Trung, để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông, thế nhưng ông Tướng đã lầm, lầm to, lầm lớn - Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tròng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I BB của Ông làm lực lượng nòng cốt, trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để rồi phải gánh chịu hậu quả, là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, ai cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lãnh đảo chánh thành công, ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất bình chính phủ Trung Ương, ông lên máy bay vào Sài Gòn đảo chánh, vì thế ông Tướng mới có biệt danh là Vua đảo chánh .