Tuan Phan-Thư Ngỏ Quốc Hận và Pháp Nạn gởi HT Chánh Lạc và PSNT Giác Đức
Thư Ngỏ Quốc Hận và Pháp Nạn gởi HT Chánh Lạc và PSNT Giác Đức nhân dịp nhị vị sắp đến Seattle làm Giáo Thọ.
Thưa hai ông họ..thích!
Tôi là một người theo đạo Phật, không dám nhận con Phật (Phật tử), vốn là nạn nhân sắp chết trong tù “cải tạo” của Việt Cộng, xin gởi đến hai ông Thư Ngỏ Quốc Hận và Pháp Nạn nầy nhằm bày tỏ cảm nghĩ về TƯ CÁCH CON NGƯỜI của hai ông trên bình diện chính trị và tôn giáo:
1. PHẢN DÂN TỘC ĐỒNG BÀO. Hai ông dù mặc áo cà sa pháp hiệu là thích Chánh Lạc(Lê Kim Cương) và thích Giác Đức (Nguyễn Anh Tuấn) khi sống dưới chế độ VNCH hai ông, thụ hưởng TỨ SỰ CÚNG DƯỜNG (gồm quần áo, thức ăn, nơi ở và thuốc men) đầy đủ của ĐÀN NA THÍ CHỦ là đồng bào VNCH, gồm cả Quân Dân Cán Chính Phật tử. Ngòai ra, hai ông còn được chiến sĩ VNCH nằm sương dãi gió, hy sinh cả tính mạng bảo vệ an ninh cho hai ông yên ổn tu hành nhưng hai ông nói riêng và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (hậu thân Giáo Hội Ấn Quang) đã dùng MÁI CHÙA CHE CHỞ VIỆT CỘNG, tiếp tay Việt Cộng phá nát hậu phưong VNCH! Tội ác của Giáo Hội PGVNTN đành rành trong sử sách, đã góp phần một phần tư công lao làm sụp đổ VNCH ngày 30-4-1975.
2. PHẢN PHẬT PHÁ ĐẠO. Là hai người xuất gia, hai ông mang pháp hiệu thích Chánh Lạc và thích Giác Đức có vốn học thức cao (Tiến sĩ), có phẩm trật tôn kính là Hòa Thượng, Pháp Sư Niên Trưởng và chức vụ lớn trong Giáo Hội PGVNTN nhưng hai ông đã xâm phạm tiết hạnh nữ giới, có vợ, đẻ con mà vẫn mặc áo cà sa! Hai ông chẳng những không có lòng tự trọng, mà còn lợi dụng phẩm trật và chức vụ trong Giáo Hội đi đây đó lừa gạt Phật tử bằng những bài thuyết pháp, giảng giải ...đạo đức cho họ!
Do hai lẽ trên, hai ông không xứng đáng mang dòng họ Thích cao quý của xác phàm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà từ lâu tôi không bao giờ viết hoa họ thích của hai ông nói riêng và những đồng chí của hai ông được mệnh danh là Giặc Thầy Chùa trong Giáo Hội PGVNTN: thích Chánh Lạc, thích Giác Đức, thích Quảng Độ, thích Hộ Giác, thích Mãn Giác, thích Huyền Quang, thích Đôn Hậu, thích Phước Huệ v.v…
Đặc biệt thích Chánh Lạc tức Lê Kim Cương…còn dùng tài lẻo mép văn chương để ngụy biện, chạy chữa mọi tội lỗi của hàng tăng sĩ dối tu nói chung và của riêng ông qua kiểu cách giảng giải về “Y Pháp Bất Y Nhơn” như sau:
“Phật giáo đặc biệt trọng thị vấn đề DUY TRÌ và TRUYỀN BỐ Chánh Pháp nên chủ trương “Y Pháp Bất Y Nhơn”. Do đó, sự sinh họat của người xuất gia là việc riêng, là lãnh vực chuyên môn của họ và tự chịu lấy trách nhiệm với Đức Phật, với nhân quả báo ứng, hàng tại gia chỉ cần vị xuất gia ấy hiểu đúng và đủ năng lực khai diễn truyền trao Chánh Pháp cho mình là đủ, tuyệt đối không nên xen lấn vào nội bộ của Tăng đòan, nhất là với thái độ BỚI LÔNG TÌM VẾT…chỉ nên cung kính cúng dường và tự xem đó là bổn phận của hàng tại gia học Phật, dù về một khía cạnh nào đó người cư sĩ kia thật sự trội hơn người xuất gia đi nữa…
…Bởi các lẽ trên, đối với Thánh Tăng và những vị Phàm Tăng có đủ điều kiện, chúng ta nên hết lòng tôn kính, cúng dường đã đành, thậm chí đối với những người xuất gia “thiếu điều kiện” nhưng họ hiểu đúng Chánh Pháp và có khả năng truyền giảng Chánh Pháp, chúng ta cũng nên tôn kính…
Vấn đề tín ngưỡng Tăng Bảo, từ thời đại Đức Phật cho tới nay, ở các nước Nguyên Thủy Phật Giáo vẫn không có gì thay đổi và xem như một bổn phận đương nhiên. Nhưng ở Trung Hoa và Việt Nam v.v… quan niệm Kính Tăng trước sau vẫn chưa gây thành tập quán phổ biến. Đó là điều cần xét lại! (Trích “Phật Pháp” tập I, thích Chánh Lạc, Nxb Phú Lâu Na -1997, trang 231- 233)
Theo thích Chánh Lạc, ông sư bà vãi tha hồ làm bậy miễn thuộc lòng kinh kệ Phật Giáo để giảng lại cho thính chúng vì việc làm bậy như dâm dục, tham lam, vọng ngữ, uống rượu, kể cả …giết người đều là VIỆC RIÊNG của ông sư bà vãi!? Vì ỷ lại vào cách giảng giải ngụy biện “Y Pháp Bất Y Nhơn” vào năm 1997 trên đây nên thích Chánh Lạc không ngần ngại thò tay sờ mông bóp vú tín nữ Hồ Thị Thu trong nhà bếp Chùa Như Lai của ông mà không ngờ…lời dụ dỗ của ông hết…linh nghiệm: - Không cho thầy, mai mốt có chồng rồi chồng nó cũng làm vậy”.
Tại sao thích Chánh Lạc không dịch sang bài giảng “Y Pháp Bất Y Nhơn” nầy sang tiếng Mỹ làm bửu bối trình Tòa Án để khỏi bị nhục nhã? Thay vào đó, ông dám dùng Quốc Kỳ VNCH và biểu ngữ gây…áp lực Tòa Án Mỹ hầu bảo vệ tội dâm ô của ông, tự cho rằng ông là “biểu tượng…Quốc Gia” (!?). Thảo nào Võ Văn Sáu, Chủ báo GIAN LẬN SSI Góp Gió ở Seattle cũng hùa theo: “Dù thích Chánh Lạc là dâm tăng miễn ông ấy chống…Cộng là được rồi!”
Để kết luận, nay mai có Khóa gọi là Tu Học do Hội Học Phật Liên Trì tổ chức tại Seattle , đề nghị Phật tử hỏi hai ông thích Chánh Lạc và thích Giác Đức rằng:
a/ - Có phải Giáo Lý nhà Phật chỉ đòi hỏi tín đồ (gồm cả Tăng Sĩ) hiểu biết Lời Phật dạy là đủ mà không cần thực hiện Lời Phật dạy trong cuộc sống?
b/ - Có phải Tăng Sĩ chỉ có nhiệm vụ truyền bá Lời Phật dạy không khác gì thầy giáo truyền kiến thức Tóan Học, Vật Lý, Hóa Học…nên Tăng Sĩ không cần có ĐẠO ĐỨC và Giới Luật nhà Phật đòi hỏi Phật tử chỉ một mực tôn kính các Tăng Sĩ dù họ VÔ ĐẠO ĐỨC, điển hình như: thích HT Chánh Lạc, Phó VT Viện Hóa Đạo GH/PVNTN quốc nội, TUV Nội Vụ và Hoằng Pháp VP II VHĐ và PSNT thích Giác Đức, TUV Kế Họach VP II VHĐ kiêm Phó CT đặc trách kế họach Giáo Dục GH/PGVNTN Hải Ngọai tại Hoa Kỳ?
Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: Dù thông suốt nhiều kinh mà không thực hành theo lời dạy thì chẳng hưởng được sự ích lợi của việc tu hành; không khác gì kẻ chăn bò chỉ đếm bò cho người ta nhưng chẳng có con bò nào là của mình. Và: Dạy người thế nào, tự mình làm như thế ấy. Trước hãy sửa mình rồi sau mới dạy người, vì tự sửa mình là điều khó nhất.
Thời Mạt Pháp, Phật Giáo gặp Pháp Nạn vì những tên vô đạo đức khóac áo cà sa lại dạy … đạo đức cho người đạo đức hơn chúng! Với cái đầu trọc, áo cà sa, chuỗi bồ đề, đôi mắt lim dim cộng với công khó học thuộc lòng Giáo Lý nhà Phật, chúng thừa thủ đọan lừa gạt đám đông Phật tử cuồng tín để vừa được cúng dường thỏai mái vừa được cung kính lạy mỏi cổ! Ngòai Tam Thí là tài thí, pháp thí và vô úy thí, các thầy chùa nam hảo ngọt tự ý thêm cái Thí thứ 4 là “Lồn…thí ”, theo tên gọi sống sượng nhưng rất thực tế của ông Trần Thanh trong bài “Bị hãm hiếp mà vẫn còn trinh”!
Đúng là thầy chùa đã được cho không biếu không…thỏai mái mà còn được lạy nên thử hỏi trên đời có nghề mưu sinh nào sung sướng và an nhàn hơn nghề thầy chùa không? Ai bảo đi tu là tránh…KHỔ là…GIẢI THÓAT? Bây giờ, đi tu là SƯỚNG lắm vì được RÀNG BUỘC đủ thứ do thầy chùa bây giờ thích…đủ thứ và có đủ thứ!
Ở Việt Nam có nghề GIẢ SƯ để kiếm ăn, xong buổi khất thực ngòai đường phố, bọn giả sưtrả áo cà sa, bình bát đã thuê, trở về con người thật. Trong khi bọn xưng là Sứ Giả Như Lai thật sự là SƯ GIẢ, phản bội Như Lai, phạm tội lỗi nặng nề bội phần hơn bọn giả sư vì bọn sư giả nầy thuộc lòng kinh kệ, hiểu giáo lý như phương tiện hành nghề mưu sinh suốt đời để lừa gạt thế gian cho đến khi bọn chúng xuống ngục A Tỳ! Chưa hết, xuống ngục A Tỳ rồi mà bọn sư giả đệ tử còn lợi dụng cái chết của “thầy” làm ma chay (gọi là Trà Tỳ) để hốt thêm tiền của bá tánh! Cho nên:
Con ơi học lấy nghề Sư
Tụng kinh niệm Phật, sướng như ông hòang!
Tôi xin tán thán hai ông Lê Kim Cương và Nguyễn Anh Tuấn rất khôn ngoan đã đúng chọn nghề thầy chùa có pháp hiệu thích Chánh Lạc và thích Giác Đức để được sung sướng và được lạy dù hai ông là hai dâm tăng (Pháp Nạn), từng tiếp tay Việt Cộng phản lại dân tộc, đồng bào thời VNCH đưa đến ngày 30-4-1975 (Quốc Hận)!
Chào hai ông họ thích,
Tuấn Aet Phan
HT thích Chánh Lạc giảng: "Nghe lời thầy đừng Tà Dâm nhưng đừng bắt chước thầy ...bóp vú sờ mông", đó là "Y Pháp Bất Y Nhân" vậy!
Con nè… ba!( Thích Chánh Lạc)
Một buổi sáng sớm, tôi (Ba Bốp Nguyễn Ngọc Tân) ra hàng hiên ngồi nhâm nhi ly cà phê nóng. Nơi tôi ở là một căn nhà nhỏ trong một ngõ hẻm thông ra đường Trần Quốc Tỏan, Q10 Saigon, chệch sang bên kia đường khỏang 100 thước là ngôi Việt Nam Quốc Tự của Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Bỗng tôi thấy một thiếu phụ còn rất trẻ nắm tay một đứa bé khỏang 5 tuổi từ đầu hẻm đi vào. Gương mặt thiếu phụ rạng rỡ, không trang điểm nhưng rõ ràng là một cánh hoa đồng nội, từ miền quê lên.
Còn cậu bé liếng thoắng, bạo dạn có vẻ quen thuộc như thể đã đến đây nhiều lần, đi xấn tới trước mẹ nó rồi đừng ngay tại cửa một căn nhà đối diện cách tôi vài thước. Đứa bé nhanh nhẩu gõ cửa cộc cộc. Một người đàn ông, đúng ra là một thanh niên cao ráo mở cửa bước ra, chưa kịp nói gì thì nghe tiếng trẻ con la lớn: Con đây nè… Ba!
Tiếng la mừng rỡ của cậu bé khiến tôi chú ý hơn về họat cảnh sum họp gia đình của người hàng xóm. Té ra người thanh niên ấy, cha cậu bé tục danh là Lê Kim Cương, không ai lạ chính là đại đức Thích Chánh Lạc với cái đầu trọc được che bằng cái mũ vải, đang vận bộ pyjama trắng thường. Nếu không nhớ khuôn mặt thì không ai biết đây là một tăng sĩ trẻ pháp hiệu Thích Chánh Lạc thuộc Việt Nam Quốc Tự gần bên.
Sau nầy, tôi được biết thêm, thanh niên đại đức Chánh Lạc đã đi lên xuống nhiều lần Tân An (Tỉnh Long An), quen biết với một góa phụ và một cô gái tuổi xuân thì. Không rõ từ hồi nào Đại đức Chánh Lạc thuê căn nhà nhỏ trong hẻm nầy nhưng dân trong xóm thỉnh thỏang thấy Chánh Lạc ở đây một mình và đôi khi cùng với người thiếu phụ và đứa bé kia. Một thời gian sau, đại đức Chánh Lạc dọn nhà đi chỗ khác, rồi nghe nói Đại đức Chánh Lạc không còn theo TT Thích Tâm Châu mà quay sang gia nhập cánh Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang. Từ đó, đại đức Chánh Lạc cất cánh trên tăng lộ thênh thang, thời Đệ II VNCH, Chánh Lạc được Giáo Hội PGVNTN cử cho đi học ở Đài Loan.
Tuấn Phan
(Ghi lại theo lời kể của ông Ba Bốp Nguyễn Ngọc Tân cho các chiến hữu)
Pháp Sư Niện Trưởng thích Giác Đức đề ra kế hoạch nhưng bị bể kế hoạch nên có ...vợ 3 con !
GIÁC ĐỨC CÓ VỢ CÓ CON.
MONDAY, DECEMBER 8, 2008
Trong thời gian loạn lạc ở quê nhà, nhất là trong thời kỳ kiêu tăng cực thịnh (1963-1968 ), không biết bao nhiêu vụ bẩn mắt, bẩn tai trong giới tăng ni VN đã diễn ra trước mắt đồng bào các giới, khiến cho niềm tin và lòng kính phục cuả Phật giáo đồ bị sứt mẻ rấ½t nhiều. Sau ngày 30.4.75 cho đến nay ( 2.000), nếu trong đáy tâm can cuả người tín đồ Phật Giáo lưu vong hải ngoại còn sót lại chút niềm tin nào, thì cũng đã bị một số lớn những kẻ tu hành xoá sạch bằng những thủ đoạn lừa đảo, bịp bợm, tranh cướp rất ti tiện. Trong một phần tư thế kỷ qua, đa số tăng ni ở hải ngoại đã làm cho mọi người VN, không phân biệt tôn giáo, nhận ra chân tướng ” mượn danh đạo tạo danh đời” cuả họ. Họ chỉ chuyên chú nhắm mục đích duy nhất là... ”TIỀN”, và hưởng thụ dục lạc tối đa!
Như trên, tôi đã kể trường hợp điển hình cuả Thích Nhất Hạnh ở Pháp.Bây giờ tôi xin kể tiếp chuyện hai ông Thích Giác Đức và Thích Mẫn Giác ở Hoa Kỳ, liên quan đến vụ tranh cướp ngôi chuà ” Việt Nam” ở Los Angles, Cali., ngay từ khi làn sóng người Việt tị nạn CS mới tràn vào đất Mỹ, tức từ đầu năm 1976.
Để cho tính chất trung thực từ đầu đến cuối cuả vụ này được bảo đảm 100%, bắt đầu từ đây, tôi xin nhường lời lại cho Phật giáo đồ Thiện Xuân, một Phật tử thuần thành sinh trưởng ở Nam Vang, đã qui y và có pháp danh từ thuở còn trẻ thơ, đồng thời cũng là người đã từng đóng góp nhiều công quả trong chuàViệt Nam kể từ khi mới chân ướt chân ráo đặt chân lên đất Mỹ. Nên biết Phật tử Thiện Xuân là một thanh niên trí thức, kỹ sư nghiên cưú trong ngành khoa học Không Gian HK, hiện vẫn đang cư trú gần nơi có ngôi chùa ” Việt Nam”. Dưới đây là lời tường thuật vô tư cuả Thiện Xuân:
Để cho tính chất trung thực từ đầu đến cuối cuả vụ này được bảo đảm 100%, bắt đầu từ đây, tôi xin nhường lời lại cho Phật giáo đồ Thiện Xuân, một Phật tử thuần thành sinh trưởng ở Nam Vang, đã qui y và có pháp danh từ thuở còn trẻ thơ, đồng thời cũng là người đã từng đóng góp nhiều công quả trong chuàViệt Nam kể từ khi mới chân ướt chân ráo đặt chân lên đất Mỹ. Nên biết Phật tử Thiện Xuân là một thanh niên trí thức, kỹ sư nghiên cưú trong ngành khoa học Không Gian HK, hiện vẫn đang cư trú gần nơi có ngôi chùa ” Việt Nam”. Dưới đây là lời tường thuật vô tư cuả Thiện Xuân:
- Tôi là người trong cuộc, nên những điều tôi nói ra đây đều là sự thực, đúng theo sự hiểu biết cuả tôi. Những chuyện này không bao giờ tôi có thể quên được. Năm 1975, tôi là một thanh niên trong số những người VN tị nạn đầu tiên đã đặt chân lên đất Mỹ. Thoạt tiên tôi ở trại tị nạn goị là Indiantow Gap, ở Pennsylvania . Trong trại, tín đồ Phật giáo rất đông, nhưng không có sư, không có nơi để thuyết pháp. Để giải quyết nhu cầu tâm linh, ban quản trị trại đã dùng cái rạp chiếu bóng [ hay một sân khấu ] cũ cuả một trại gia binh Lục Quân HK, để biến cải tạm thời thành nơi giảng đạo. Lúc bấy giờ, là một Phật tử, tôi thấy có bổn phận phải tham gia công quả, đóng góp công sức để mau chóng hoàn thành cơ sở tôn giáo đầu tiên trong trại, như đóng bàn ghế hay trang hoàng bàn thờ Phật, với một số vật liệu quá ít oi, thiếu thốn. Nhưng còn vấn đề tăng , ni thì sao?
Lúc đó tăng ni VN ở Mỹ rất hiếm. Dường như ngoài TT Thích Thiện Ân, chẳng còn ai khác. Bởi thế ít lâu sau, TT Thích Thiện Ân đã gửi vào trại một vị sư người Mỹ da đen, đến từ Quốc Tế Thiền Viện ở Los Angeles.Vị sư này là người vui tính và rất hoà nhã. Ông ta vốn là một mục sư Tin Lành, rồi tu học thêm để trở thành linh mục Thiên Chuá Giáo.Nhưng ông vẫn chưa mãn nguyện, vì chưa tìm ra được chân lý, nên ông đã qui y đạo Phật theo Thượng Toạ Thích Thiện Ân. Nhưng kẹt nỗi vị sư người da đen chỉ giảng giáo lý nhà Phật bằng tiếng Mỹ, nên phải có một người VN ngày xưa từng là sinh viên du học đã tốt nghiệp ở Mỹ làm thông dịch.
Vài tháng sau, bỗng có một vị sư người VN xuất hiện. Ông này chính là TT Thích Giác Đức. Ông nói tiếng Mỹ lưu loát. Nhưng thoạt nhìn thấy ông, với cặp mắt nhận xét cuả tôi, tôi nhận thấy trên gương mặt cuả ông ta lộ ra những nét không phải là một thiện tăng. Nên biết mấy đời gia đình nhà tôi đều là giòng dõi Phật tử chân truyền từ thuở còn ở xứ chuà Tháp. Riêng tôi, từ thuở nhỏ đã qui y với một vị sư người Việt ở Nam Vang, tuổi thọ cuả vị chân sư truyền pháp danh cho tôi đã 90 tuổi. Ngài còn có một bà mẹ cũng qui y Phật pháp ở chuà từ thuở còn trẻ. Ngôi chuà cuả vị lão tăng thầy tôi nằm gần ngay chuà Vàng chuà Bạc ở Nam Vang. Vì từ nhỏ đến lớn sống trong cưả chuà, gần gũi đủ các loại tăng sĩ, nên tự nhiên tôi có cảm giác rất bén nhậy đối với những người khoác áo tu hành.
Quả nhiên, tôi đã không sai lầm khi nhận xét người. Chẳng bao lâu sau, tôi thấy ông Giác Đức lấy vợ là một cô gái hay một người đàn bà goá tị nạn. Rồi tôi thấy ông Giác Đức có con nưã. Đến khoảng tháng 7.1986, trong đám ma cuả ông bà cựu đại sứ VNCH tại HK Trần Văn Chương, thân sinh cuả bà Ngô Đình Nhu [khuê danh Trần Lệ Xuân ], tôi bỗng thấy sư Thích Giác Đức là người đứng ra làm đám, tụng kinh siêu thăng tịnh độ cho vong linh cuả ông bà Chương. Theo sau ông Giác Đức là bà vợ và đưà con trai lúc bấy giờ khoảng 6, 7 tuổi gì đó. Cả 3 người cùng đi theo sau quan tài cuả ông bà Chương, vưà đi vưà tụng kinh. Năm nay (2000) chắc đưá con cuả vợ chồng ông Giác Đức cũng đã tới 20, hay 21 tuổi rồi! (Trích website vuohoatam.blogspot.com)
No comments:
Post a Comment