Tuesday, September 18, 2012

Thái A- THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VN 1



THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA „GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ - KHỐI ẤN QUANG
HAY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG KHIỂN DỤNG VỎ BỌC PHẬT GIÁO LÀM PHƯƠNG TIỆN BÔI XÓA TỘI ÁC, CỦNG CỐ QUYỀN LỰC NHƯ THẾ NÀO.
(Phần 1.)
 Seattle, September 17, 2012
Thái A
 
Bản tựa dịch tiếng Việt của Anh Đào với sự đồng ý của nguyên tác giả Thái A.
 
 
DẪN NHẬP ĐỀ:
1.    Theo Hiệp định Geneve về việc tạm thời chia cắt lãnh thổ Việt Nam vào ngày 20.07.1954 thì trong một thời gian ngắn, dân chúng hai miền Nam Bắc được tự do quyết định di cư đến hai miền Nam Bắc của đất nước. Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước là vĩ tuyến 16, biên giới thiên nhiên là sông Bến Hải. Nguyên do của hiệp định này, một bên là âm mưu chiến lược thâm độc của Hồ Chí Minh tự nguyện làm khuyển mã theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, được giật dây trực tiếp bởi Moskau và Bắc Kinh, và một bên là nước Pháp, sau khi thất thế tại chiến trường Điện Biên Phủ đang cố gắng để đạt được hiệp định này để rút lui khỏi Việt Nam trong một tư thế khả thi nhất. Các đảng phái quốc gia khác tại Viêt Nam đương thời đều phản đối sự chia cắt đất nước một cách ngang trái này. Vào thời điểm đó dòng người dân miền Bắc tìm mọi cách chạy trốn chế độ „cộng sản“ của Hồ để di tản về phương Nam đã đột ngột dâng lên một cách chưa từng có. Trong một thời gian ngắn, với sự cố gắng nỗ lực cao cả và sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp cùng các tổ chức từ thiện quốc tế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức di cư thành công cho hơn một triệu đồng bào miền Bắc vào miền Nam, và ổn định cuộc sống cho đồng bào những năm sau đó. Mặc cho sự tuyên truyền một chiều, tìm cách ngăn cản và xuyên tạc tẩy não của Hồ và cái gọi là „đảng cộng sản“ của hắn lúc đó đang còn tìm cách che giấu dã tâm khát máu, đại đa số đồng bào miền Bắc đồng bào đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản tại miền Bắc. Trong dòng sử Việt, đây là cuộc di cư lịch sử lớn nhất vào thời điểm đó. Nếu không bị những thủ đoạn gian manh tàn ác của Hồ để hòng ngăn cản đồng bào di cư, qua mặt các tổ chức giám sát quốc tế thì dòng người di cư đã vượt xa nhiều lần con số 1 triệu nói trên. Đại đa số đồng bào Việt Nam đã tỏ rõ thái độ phản kháng chế độ cộng sản tại miền Bắc.
2.    Cái gọi là „chính phủ“ của Hồ được giàn dựng bởi đảng cộng sản, trá hình Việt Minh, thành hình bởi lừa đảo, cướp, gìết, khủng bố và mọi thủ đoạn khuynh đảo tiến đến cướp trọn chính quyền của Chính Phủ Liên Hiệp năm 1946 đã không được nhân dân miền Bắc chấp nhận. Hồ và đảng CS đã thi thố mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc và bạo lực nhằm ngăn cản dòng người đang phải dứt lòng bỏ lại xóm làng thân thương để quyết tâm vượt thoát chế độ cộng sản tím đến bến bờ tự do nơi đất trời phương Nam. Cũng theo hiệp định Genève thì sau 2 năm, tức năm 1956 sẽ có một cuộc tổng bầu cử toàn dân để dân chúng hai miền được tự do quyết định bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử dân chủ hợp hiến với mục đích là tái thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử sẽ được sự kiểm tra và giám sát của Liên hiệp quốc. Nhưng cả sau khi thời hạn di cư, được gia hạn thêm một thời gian ngắn, ngoài thời hạn (300 ngày) đã hết và nhiều năm sau đó, người dân bị trị miền Bắc vẫn còn tìm cách vượt thoát về phương Nam. Tất cả những lần vượt thoát từ miền Bắc của đồng bào qua sông Bến Hải vào Nam, khi bị quân đội miền Bắc phát hiện đều bị truy đuổi, chặn bắt, dùng tên tẩm chất độc và cả vũ khí sát thương hạ sát (mặc dù theo quy định của hiệp định là không được dùng vũ khí sát thương). Tình trạng thê thảm tại biên giới Nam-Bắc Việt Nam lúc đó cũng tương tự như hiện trạng nơi biên giới Đông-Tây của một nước Đức từng bị chia cắt, hoặc tại khu vực biên giới Nam-Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng về mức độ thì vượt mọi ranh giới của sự tàn ác và thê lương. Hiệp định Genève đã bị Hồ xé tan và giẫm nát bằng chân từ lúc nó chưa thành hình.
3.    Để có một tầm nhìn khái quát nhưng đầy đủ về về tình hình Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 thì văn bản „Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ngày 26. Tháng Tư. 1958 về những vướng mắc trong vấn đề Tái thống nhất đất nước“ là một tài liệu đặc biệt hữu ích. Văn kiện ngoại giao này được công bố ngày 26.04.1956 bởi văn phòng Sứ thần Việt Nam Cộng Hoà tại Bonn, CHLB Đức. Nguyên bản hiện đang lưu trữ tại trung tâm lưu trữ Văn khố thành phố Stuttgart, tiểu bang Baden Württemberg, CHLB Đức, có thể tìm thấy dưới mã hiệu: „ J 152 D Vietnam Nr.1“.
4.    Cũng trong làn sóng người di cư này đã có khoảng 3000 cán bộ cộng sản trà trộn theo vào Nam, cũng như khoảng 6000 cán bộ cộng sản khác, đều theo lệnh của Hồ cài cắm ở lại miền Nam, nằm vùng tạo dựng cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà của Hồ sau này. Số cán binh nằm vùng này tăng lên không ngừng vào những năm sau đó.
5.    Miền Nam Việt Nam trong trong giấc mộng xâm lăng của Hồ Chí Minh theo lệnh từ Moskau và Bắc Kinh chỉ là cái bàn đạp đầu tiên. Cái đích của sự toan tính của Hồ nằm trong giấc mộng xâm lăng của đế quốc đỏ, là chiếm cả Đông Dương, gồm cả Lào và Campuchia.
6.    Nói về sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, và đặc biệt là tôn giáo trong chế độ ngụy quyền của Hồ lúc đó có thể so sánh là đã bị tụt lùi xuống ngang hàng với thời hậu trung cổ tại châu Âu. Thực trạng Bắc Việt Nam đương thời đã bị biến dạng thành một thứ ngục tù không tường vách, không khác gì với Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng thực trạng này vẫn còn đúng với cả nước Việt Nam cộng sản tới tận ngày hôm nay! Cụm từ „Kommun + ismus“ có nguồn gốc từ Âu châu ( nguyên ngữ tiếng Đức: „Kommunismus“ ) đã bị Hồ và tay sai ma mãnh và xuẩn động dịch sang tiếng Việt là „Cộng sản-chủ nghĩa“, với nghĩa chữ nước đôi của cụm từ „cộng sản“ là „tài sản chung/ tài sản cộng đồng“ („gemeinsames Vermögen“), và đi kèm theo nó nào là những „không giai cấp“, „vô sản“ và „bất sở hữu“(riêng tư)…, sau khi đã qua tay một tập thể trí nô vong bản, lưu manh, nhưng hùng hậu tô vẽ và tuyên truyền quảng bá cho nhân dân miền Bắc về một „thiên đường cộng sản“ sáng lạn, trong đó „không còn ai được quyền sở hữu một thứ gì riêng tư“. Sự tuyên truyền này về thực chất là một sự cưỡng bức tẩy não tập thể toàn dân. Sự cưỡng bức tuyên truyền có tích chất „cách mạng“ của Hồ và đảng cộng sản nhìn cách nào cũng chỉ là sự thừa hành lặp lại nguyên si lối hành xử tàn bạo của Stalin, và sự thừa hành, sao chép bằng máu cái gọi là „cách mạng văn hoá“ của Mao Trạch Đông, mà mổi mỗi đều dùng để chống lại chính nhân dân trong nước, triệt phá sức đề kháng của quần chúng để dễ bề cai trị. Cái gọi là „Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà“ tại miền Bắc, được giật dây, hà hơi tiếp sức trực tiếp của nước Nga Xô-viết và Tầu cộng đang gồng mình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng tiến về phía Nam.  Sự tàn bạo của của chế độ ngụy quyền cộng sản tại Bắc Việt Nam được che đậy bằng những cụm từ tanh mùi máu như „chuyên chính vô sản“, cách mạng xã hội chủ nghiã v.v. và v.v. đã được các tác giả tên tuổi của Việt Nam và thế giới tự do lật tẩy qua vô số các tác phẩm đã được công bố ngay từ những ngày đầu chế độ này manh nha hình thành.
VÀO ĐỀ:
7.    Vào thời điểm này tại miền Bắc thì tất cả hoạt động tôn giáo của nhân dân đều bị bộ máy tuyên truyền CS tùy tiện kết án là „thuốc phiện của nhân dân“, „lạc hậu“, „mê  tín dị  đoan“, „phản động“ cho đến „phản cách mạng“ hoặc „gián điệp của các thế lực phương tây thù địch“ , tùy theo nhu cầu đàn áp của đảng, và nhất định phải bị „bạo lực chuyên chính vô sản“ tiêu diệt bài trừ. Bức tranh vẽ bôi của Hồ về một „nhà nước cộng sản“ tại miền Bắc Việt Nam trên thực tế còn đang ở thời kỳ hậu quân chủ, với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu thô sơ và đa phần dân chúng là nông dân. Nhưng vì phải rập khuôn theo mô thức từ nước Nga và Tầu cộng sản nên đặc biệt từ những năm, khi đảng CS đã đặt được ách cai trị toàn phần đối với dân chúng miền Bắc qua bộ máy quốc hội bù nhìn, thì đảng CS cũng cho dựng lên các giáo hôi giả hiệu như „Giáo hội Phật giáo“, „Giáo hội Thiên Chúa giáo“, nhưng chỉ là những hội như „hội phụ nữ“, „hội nông dân“… cùng vô số các hội tương tự, dưới sự lãnh đạo của đảng, thừa hành bởi „Mặt trận Tổ quốc“. Đảng cộng sản có một rừng biển hiệu chỉ để treo cho có như thế. Cùng chung một số phận như thế, các đảng như „đảng dân chủ“, „đảng xã hội“ đều bị các bộ tay sai của Hồ thâm nhập, đục khoét từ bên trong, tiến tới chỉ còn là những biển hiệu, những công cụ tay sai của đảng cộng sản. Một thực tại lịch sử là phần đông dân số Việt Nam theo đạo Phật, hoặc có những nền tảng tâm linh và thế giới quan khoan dung đủ tầm quảng đại để đồng hành với giáo lý Phật giáo. Thực tại này cũng chính là một yếu tố mà đối với chế độ độc tài ngụy quyền cộng sản không thể nào coi nhẹ, hơn thế nữa các đạo giáo có măt tại Việt Nam đặc biệt là đạo Phật nói chung thực sự là một cơ hội béo bở, và nhất thiết phải chịu sự khiển dụng của đảng như một trong những công cụ đa năng khác cho các mục tiêu của đảng cộng sản. Mưu mô hoạch định cho sự thành hình của cái gọi là „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất“ cùng những „Gia đình Phật tử Việt Nam“ tại miền Nam đầu những năm 1960 đã được toan tính từ lâu trước đó bởi „Bộ Chính trị“ CS tại…miền Bắc. Cũng vào thời gian này thì kế hoạch và guồng máy xâm lăng miền Nam của Hồ từ Hà nội đang hoạt động hết tốc độ.  Để chuẩn bị cho cuộc thâm nhập trên „mặt trận tôn giáo“, có một số rất đông các cán bộ đảng cộng sản được tuyển chọn huấn luyện và đào tạo ngắn hạn về Phật giáo tại miền Bắc, chưa kể những số cán bộ nằm vùng trong Nam và số cơ hội bị lừa vào tròng. Tất cả những cán bộ đã được cộng sản tẩy não này đều có chung một định hướng là dùng vỏ bọc tôn giáo này để phá hoại và làm sao qua đó gây tạo cho được sư phản loạn, bất ổn định với sức ảnh hưởng chính trị càng lớn càng tốt trong quần chúng và các đô thị miền Nam. Để cuối cùng thì cái gọi là „GHPGVNTN“ đã được giật dây để thành hình, cùng vô số các tổ chức tay chân trực thuộc của nó như „Gia đình Phật tử Việt Nam“. Nhưng như mục tiêu thâm độc của đảng CS, là những kẻ giật dây khuynh đảo và điều khiển tổ chức này muốn đạt đến vào thời điểm đó là tạo vỏ bọc để tuyên truyền ngụy trang và nhân danh nhân dân miền Nam, hậu thuẫn cho quân đội cộng sản cùng một lúc xâm lăng miền Nam. Và đến tận ngày hôm nay GHPGVNTN vẫn còn được dùng để làm cò mồi tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị của đảng csvn.
8.    Để thực hiện mục tiêu này tên đảng viên CS đội lốt Phật giáoThích Trí Quang đã hoạt động phá hoại một cách điên cuồng, khích động, khuynh đảo, giật giây một bộ phận lớn quần chúng và Phật tử miền Nam, tổ chức các cuộc biểu tình phản loạn, xuống đường và „tự thiêu“ v.v. nhằm phá hoại tạo bất ổn định cho chính quyền miền Nam.  Hậu quả là dẫn đến cuộc đảo chính phản tặc chống lại chính phủ VNCH, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đương nhiệm Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông đã bị sát hại trong cuộc đảo chính phản tặc này. Phần chi tiết sẽ được đề cập ở các phần sau trong bài.
9.    Thích Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng, sinh tại làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình,  miền Trung Việt Nam. Theo tài liệu tình báo của Pháp (sau này là „Phòng Nhì“) thì hắn đã gia nhập và là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1949. Lễ gia nhập đảng được tổ chức tại mật khu Lương Miêu, Dương Hoà. kết nạp bởi Tố Hữu, tức Tôn Thất Lành, một trong những tên cán bộ cao cấp của đảng CS Vìệt Nam. Cả CIA cũng như tình báo VNCH đều nắm rõ về vụ việc này.
Để có một tầm nhìn bao quát và cụ thể hơn về những cán bộ Việt gian cộng sản giả danh Phật giáo núp áo nhà sư như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn và cái gọi là „GHPGVNTN“ thì tài liệu sau đây của CIA đặc biệt hữu ích:
Nguyên văn tiếng Anh:
Situation Appraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election Period Extending through September 1967 - May 4, 1967.
 
Language: English; Document Pages: 13; Date: 04 May 1967; Collection: Central Intelligence Agency Collection; Media Type: Document (.pdf); Full Text: Full Text is available for this item. Return to the Virtual Vietnam Archive and search for Item Number: 04109128007. Go to the More Information section and change to the Full Text view.; View Item: Situation Appraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election Period Extending through September 1967,  04 May 1967, Folder 128, Box 09, Central Intelligence Agency Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 21 Aug. 2012.
 
 
Và bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải tại đây:…
10.  Giật dây hậu trường cuộc đảo chính này lại chính là đồng minh Hoa kỳ qua bàn tay của CIA, muốn lợi dụng cuộc đảo chính cho mục đích của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm này phiá Mỹ muốn trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam chứ không phải chỉ là gián tiếp cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự. Một cuộc đảo chính triệt hạ quyền lực của chính phủ và tổng thống Ngô Đình Diệm thay thế bằng một chính quyền khác dễ bảo hơn, hợp với sự „quan tâm“ của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Sau khi cuộc đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hoà có sự tiếp tay của CIA đã thành toại, tên cộng sản Thích Trí Quang vẫn tiếp tục sách lược của đảng CS giao phó. Hắn vẫn tiếp tục khích động đồng bào và phật tử miền Nam xuống đường phản đối gây phản loạn tiếp tục chống chính quyền mới và cực lực chống luôn cả người Mỹ.  Lần này chính quyền đệ nhị VNCH và CIA đã cô lập bắt gọn Thích Trí Quang, nhưng do „ảnh hưởng“ của hắn với lũ nằm vùng trong chính quyền VNCH hắn lại được tại ngoại và tiếp tục hoạt động có lợi cho cộng sản. Xin nói thêm là loại trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là Thích Trí Quang đã bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt nhốt và cô lập sau khi không còn một tướng lĩnh VNCH nào trước đó giám đối đầu với tên việt gian CS này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan sau này đã được phong tướng. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên - Huế, xuất bản năm 2010 - USA).
Vụ hỏa thiêu hành quyết Thích Quảng Đức
 
11.  Một trong những đỉnh điểm tội ác cuộc phản loạn này là vụ hành quyết thiêu sống Thích Quảng Đức, đã được giàn dựng để tuyên truyền là „ Thích Quảng Đức tự thiêu chống lại đàn áp Phật giáo“. Sự thực là  vụ này cũng như đa phần các vụ hỏa thiêu bức tử khác đã được các tên cộng sản trá hình Phật giáo chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ban đầu Thích Quảng Đức được tẩy não là hắn sắp thực thi một „sứ mạng quan trọng“, nhiều trợ lý đệ tử có chuyên môn y khoa đã thường xuyên dùng các loại thuốc mê chuyên dụng biến cơ thể Thích Quảng Đức trở nên đờ đẫn, thần kinh bị ức chế vô cảm. Để đến khi liều thuốc mê đặc dụng cuối cùng tiêm vào cơ thể Thích Quảng Đức một cách lành nghề trước khi bị tên nguyễn Công Hoan và đồng bọn chở và dìu vực ra nơi hành hình, thì Thích Quảng Đức bấy giờ chỉ còn là một thân xác vô cảm với hệ thần kinh đã tê liệt. Rồi chính Nguyễn Công Hoan đã dùng ít nhất là 10 Lit xăng đỗ ngập lên đầu và người Thích Quảng Đức, xăng chẩy thành vũng đọng quanh chỗ ngồi của kẻ bị hành quyết, và cũng chính Thích Công Hoan dùng một bật lửa Zippo châm lửa từ xa, cái xác vô cảm đẫm đầy xăng bắt lửa  cháy ngay lập tức… Và tất nhiên, một số đông các cán bộ cộng sản trá hình „tăng ni“ và cả „cảnh sát“ đã được chuẩn bị trước để dàn hàng quây vòng xung quanh nơi hành hình, để quyết thiêu cho bằng được Quảng Đức mà không bị cản trở. Quan trọng hơn cả là một vài „nhà báo quốc tế“ đã đựợc chuẩn bị trước cho cuộc hành hình này cũng được giàn xếp ngay nơi  hiện trường, tức là có thể chụp hình kẻ bị thiêu và „được phép“ ghi lại hình ảnh cảnh hành quyết một cách rõ nét nhất. Với mục đích là ngay sau đó  những hình ảnh sắc nét nhất thế giới này sẽ qua tay giới truyền thông tới Mỹ và phương Tây, phục vụ cho mục đích tuyên truyền của đảng cộng sản hòng lừa đảo dư luận cả thế giới. Kẻ bị hành quyết hỏa thiêu chết cháy như than tại chỗ. Nguyễn Công Hoan hiện nay (năm 2012) đang ẩn náu trong một cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ.
12.  Đảng cộng sản Việt nam, „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - Ấn Quang“ và tất nhiên là cả Thích Nhất Hạnh cho đến tận ngày hôm nay vẫn đang tìm mọi cách bôi xóa và chối bỏ tội ác là: chính chúng đã giàn dựng và thực thi vụ hành quyết hỏa thiêu đặc biệt giã man này. Hơn thế nữa, ngay từ đầu chúng đã giàn dựng ra hàng loạt những chuyện ly kỳ nhất để loan đồn những chuyện hoang tưởng đạo đức giả nhân danh đạo Phật và giáo lý Phật giáo, hòng che mắt và đánh lừa dư luận cả thế giới. Nào là „Bồ Tát tự thiêu“, lửa từ bi „Thánh Tử Đạo“.v.v.
13.  Các vụ „Phật giáo tranh đấu“, biểu tình phản loạn triền miên, rồi vụ hành quyết hỏa thiêu Thích Quảng Đức ngày 11.06.1963, chỉ là những thủ thuật dùng để gây rối đổ thêm dầu vào lửa, nhằm tạo thêm chất nổ cho đỉnh điểm của nó là vụ các tướng lĩnh phản tặc được sự giật dây mua chuộc trực tiếp của CIA, được thực thi bởi „đội quân thứ ba“ của đảng tức „Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam“ trong đó có giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất“, lật đổ Chính thể Đệ nhất VNCH và sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963. Tất cả chỉ là diễn tiến một phần của một âm mưu đã được hoạch định trước. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để lật đổ chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa để có thể qua đó có toàn quyền quyết định thao túng trực tiếp vào „công cuộc chống cộng sản“ tại miền Nam.
14.  Tất cả nhũng vụ phật giáo phản loạn cũng như tin tức chiến sự tại miền Nam vào thời điểm này và cũng gần như xuốt thời gian cuộc chiến Việt Nam, đều được giới báo chí, truyền thông bình luận chiến sự và dân sự VNCH, đồng minh phương Tây và cả khối cộng sản loan tải. Tuyên truyền theo kiểu tẩy não một chiều của khối cộng sản đông Âu và Bắc-Việt thì đã là lẽ hiển nhiên dễ hiểu. Nhưng rõ ràng là đã có một sự che chắn, thông tin một chiều có chủ ý, được định hướng bởi Hoa Kỳ. Hậu quả là tại phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ, những bản tin về tình hình chiến sự tại Việt Nam đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Thật mỉa mai vô cùng là nội dung các bản tin chiến sự đã được loan tải này lại hoàn toàn có chiều hướng làm lợi cho quân đội lê dương cộng sản của Hồ, một tập đoàn đánh thuê của Bắc Kinh và Moskau.
15.  Một trường hợp cụ thể là, vì cái chiêu bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn Ái và khối thiên tả làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của  Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết luận trung thực là dưới chính quyền của thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai nghe tại Việt Nam CH nói lên sự thật trên đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng  LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được chính thức công bố.
16.  Cho đến tận ngày hôm nay năm 2012, trên các phương tiện truyền thông chính thức, và cả trong các sách giáo khoa của các trường đại học tại Mỹ vẫn còn đầy rẫy những tin một chiều hoàn toàn sai lệch dường như có chủ ý về sự thật chiến tranh Việt Nam, tung hô có lợi cho đảng CS…Tầu, và Việt Nam. Mặc dù hàng loạt những tài liệu của Lầu Năm Góc về các sự thật trong bí ẩn chiến tranh Việt Nam đã được giải mật và công bố. Mặc cho sự ra đời của bộ „Sách hồ sơ đen về chủ nghĩa Cộng sản“ đã trở nên nổi tiếng. Mặc cho sự ra đời của hàng loạt các phẩm, tác giả đã công bố, đã bạch hóa sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam của chính các tác giả phương Tây đã trở nên nổi tiếng. Cụ thể nhất là trong năm 2006, chính Đại Hội đồng Quốc Hội Châu Âu (PACE) đã ra quyết nghị số 1486 về việc đặc biệt cần thiết phải truy tố tội ác các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ra trước tòa án quốc tế về tội ác dã man chống nhân loại của chúng.
17.  Vụ sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm có sự bật đèn xanh từ Pentagon (Lầu Năm Góc) của Mỹ xét về thực chất cũng là một thứ lệnh bức tử Chính thể nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù trong hoàn cảnh thời chiến nhưng dưới Chính thể Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được một sự phát triển đáng nể phục. Với một nền kinh tế thị trường tự do, được bảo đảm bằng một nền hiến pháp nhân bản và tôn trọng dân chủ thực sự. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được nhân dân bầu cử một cách hợp hiến pháp. Nhưng không còn gì mỉa mai và ngang trái hơn là chính H. Kissinger và tên „trưởng đoàn ngoại giao“ của Hồ là Lê ĐứcThọ sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam đã được xưng tụng để cùng nhận giải Nobel „hòa bình“. Với hiệp định Paris, về thực chất đã hợp thức hóa và che đậy sự rút lui của đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam một cách „danh dự“. Nhưng trên thực tế trần trụi là những tay điều hành guồng máy chiến tranh tại Nhà Trắng đã phản bội, bán rẻ  VNCH và 17 triệu nhân dân miền Nam cho bàn tay đẫm máu của đội quân xâm lăng miền Bắc, tay sai của đế quốc thực dân đỏ. Thọ đã „từ chối“ nhận lãnh giải thưởng dành cho hắn, vì guồng máy bắn giết của của hắn, một bộ phận tay sai của đế quốc đỏ vẫn không hề ngừng chuyển động cho tới ngày 30. 04.1975, khi xích xe tăng Nga được quân đội của Hồ mang tới giày xéo khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người miền Nam được biết thế nào là tắm máu kiểu đế quốc đỏ, đều tìm cách trốn chạy thoát khỏi thần chết đỏ bằng tất cả mọi cách, mọi con đường có thể có, kể cả là phải bỏ mình trên muôn trùng sóng gió đại dương mong tìm đường vượt thoát tới bến bờ tự do. Người Mỹ cũng chạy thoát thân như thế. Sự kinh hoàng khủng khiếp không bút nào tả xiết, đã vượt mọi ranh giới có thể tưởng tượng. Và cả thế giới đã ngậm ngùi nhưng câm lặng chứng kiến cảnh tượng thê lương hãi hùng kia. Chỉ 3 năm sau, cũng những vệt xích xích xe tăng Nga này lại tràn ngập đất nước Campuchia.
18.  Trở lại năm 1964, GHPGVNTN được thành lập và tự nó đã là một thứ vỏ bọc lý tưởng, đủ rộng để đảng CS có thể tùy khiển dụng giật dây nó theo nhu cầu từng giai đoạn. Các miền, hệ phái và truyền thống Phật giáo khác cũng đã từng được quy tụ quanh GHPGVNTN vào thời điểm thành lập. Nhưng đã sớm nhận ra  sự giàn dựng, thâm nhập của các cán bộ cộng sản và cả lũ nằm vùng (trá hình „khối Phật giáo Ấn Quang“) để hoạt động cho cộng sản, nên đều tỏ ra  thất vọng và xa lánh. Thượng tọa Thích Tâm Châu là một điển hình, vì đã tỏ thái độ không muốn bị mãi lôi kéo mãi vào vòng „tranh đấu“, phản loạn, nên đã bị các tên CS núp áo nhà sư, trâng tráo dùng bạo lực đe dọa sát hại, cưỡng bức phải rời khỏi trọng trách lãnh đạo tâm linh của mình. Lãnh đạo tinh thần của các hệ phái khác cũng dần xa lánh cái „tinh thần Phật giáo tranh đấu“ giả hiệu này. GHPGVNTN do vậy đã bị đảng CS „rút hết ruột“, còn lại cái xác, dùng làm biển treo, như môt công cụ tay sai trá hình để tiếp tục nhân danh đại đa số quần chúng Phật giáo xuống đường đấu tranh cho các mục tiêu của đảng CS.
19.  Một trong những tội ác tiêu biểu đẫm máu nhất của GHPGVNTN là vụ thảm sát dân thường Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản gọi là „tổng tiến công nổi dậy“. Trong 26 ngày quân đội cộng sản Bắc-Việt đã tạm thời cưỡng chiếm thành phố Huế. Trong thời gian này có ít nhất 5327 người đã bị sát hại dã man, 1200 người bị bắt đi mất tích. Những cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo nằm vùng, biệt danh là „đội quân thứ 3“ của đảng cộng sản Việt Nam, là những thủ phạm chính thực thi tội ác trong vụ thảm sát dân thường đặc biệt man rợ này. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên - Huế, xuất bản năm 2010 - USA).
Khai màn cho cuộc tắm máu này là tiếng súng khai hỏa bởi quân đội CS Bắc-Việt nổ đúng vào đêm giao thừa tấn công thành nội Huế, lật lọng bất ngờ phá tan quy ước đình chiến ba ngày Tết giữa hai miền Nam-Bắc. Lính cộng sản quần đùi áo đen đột ngột xuất hiện, cùng hàng loạt các cán bộ cộng sản nằm vùng xuất đầu lộ diện, đồng loạt ra mặt công khai, đi từng nhà từng nhà lùng bắt, thẳng tay bắn giết dân thường Huế một cách dã man vô tội vạ. Lá cờ ba mảnh, xanh-đỏ-xanh, 1 sao vàng ( không phải xanh, đỏ, 1 sao vàng) của lũ CS nằm vùng, trá hình „Lực lượng Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình“ do những tên Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo làm chủ tịch được cắm trên kỳ đài Thành Nội Huế trong xuốt thời gian quân cộng sản tạm cưỡng chiếm thành phố. 10 ngàn quân cộng sản  trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ đã núp bóng dưới lá cờ giả hiệu của Thích Đôn Hậu để bắn giết. Hàng loạt các „ủy ban quân quản, tự vệ khu phố“, các „toàn án nhân dân“, „chính quyền cách mạng“…, do những tên giáo sư, sinh viên và đủ loại tầng lớp nằm vùng cho CS được đồng loạt dựng lên chớp nhoáng trên đường phố. Và các màn xử tử hình bắn giết trả thù vô cùng dã man oan nghiệt diễn ra ngay tại chỗ, khắp nơi trong thành phố Huế. Các tên như Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Lê Thị Đoan Trinh…, là một trong những tên tội phạm, sát thủ khét tiếng của cộng sản trong vụ thảm sát này. Dân chúng Huế đã phải bỏ chạy trong kinh hoàng, tuyệt vọng đau thương. Hàng ngàn dân thường trong đó có cả trẻ em, người già và phụ nữ bị bắt trói từng đoàn từng nhóm bằng giây điện thoại và bị cưỡng bức giải đi ra các miền ven đô hoang vắng của Huế. Nơi đó họ đã  bị các toán cán bộ cộng sản hành quyết tập thể một cách đặc biệt dã man mọi rợ.
Để „tiết kiệm đạn“, phần đông trong số họ đã bị giết chết bằng các vật dụng thô sơ như cuốc xẻng, mà trước đó họ đã phải dùng để đào huyệt cho chính mình. Hàng loạt đạn bắn vào những loạt người đứng trước, họ đã ngã xuống trong tiếng gào rú rùng rợn cùng cực thê thảm của hàng loạt những người khác cùng bị trói phải ngã theo xuống huyệt, để cùng bị vùi lấp, bị chôn sống và chết thảm. Cảnh tượng thật rùng rợn thê lương, ngẹn nghào không bút mực nào tả xiết. Theo thống kê của cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 tại Huế thì đã có ít nhất 5365 thường dân Huế bị sát hại dã man bằng  những hình thức thảm sát tập thể này. Trong đó có 3 giáo sư bác sỹ y khoa người Đức được chính phủ Tây Đức gửi đến trường đại học Y khoa Huế giảng dậy trong khuôn khổ giao tế dân sự và nhân đạo. Các giáo sư trên cũng đã bị sát hại bằng những phát súng bắn trực tiếp vào đầu sau khi họ bị cưỡng bức phải đào huyệt cho chính mình. Nơi họ bị cộng sản hành quyết chính là sân sau của chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của những cán bộ CS trá hình Phật giáo. Sau đây là tên các giáo sư bác sỹ bị sát hại: Prof. Dr. Reimund Discher, Prof. Dr. Slois Alterkoster, Prof. Dr. Hort Günther Kranick và người vợ của ông.
20.  Sau 26 ngày chiếm đóng Huế, quân đội cộng sản bị thủy quân lục chiến Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa đẩy lui, Huế còn lại là một thành phố hoang tàn xơ xác, rùng rợn thê lương. Huế hoang tàn đổ nát, và khắp nơi tràn đầy tử khí ghê rợn.  Trong các nhà thờ, chùa… máu còn lênh láng, người ta dìu kéo nhau đi tìm các hố chôn tập thể, Bãi Dâu, Khe Đá Mài…, mỗi lần một hố chôn tập thể được tìm thấy là mổi lần lại có thêm hàng trăm hàng, ngàn người người dân Huế khác phải nghẹn ngào xé nát con tim, vĩnh viễn quấn lên đầu vòng tang trắng oan nghiệt, Huế giờ đã tràn ngập mầu tang.
21.  Đằng sau mưu đồ hiếu chiến của cuộc tấn công chiếm đóng và thảm sát dân Huế man rợ của cộng sản Hà nội là chúng toan tính muốn một lần chớp nhoáng chiếm gọn Huế.  Những tính toán của những kẻ hoạch đinh chủ mưu cho rằng „dân chúng Huế sẽ ủng hộ và đứng về phía bộ đội cộng sản“, đã vỡ tan tành, mổi mỗi mảnh vỡ lộ rõ những tham vọng sặc mùi…Việt-gian cộng- sản. Vì trên thực tế người dân Huế đã chạy trốn quân cộng sản để thoát thân, kinh hoàng còn hơn chạy trốn thần chết. Những tên cộng sản gỉa danh trá hình Phật giáo núp áo tu hành cùng lũ tay sai bội phản nằm vùng hoạt động cho cộng sản đã bị lộ tẩy. Để giữ cho bộ mặt những tên CS trá hình Phật giáo cùng đồng bọn và lũ tay sai sát  thủ này không bao giờ bị lôi ra ánh sáng, và để trả thù cho việc dân Huế phản kháng cs, những kẻ chủ mưu là bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam qua tay lũ cán bộ CS trá hình Phật giáo đã ra lệnh thảm sát đồng bào Huế. Kế hoạch dùng sự nội ứng của „đội quân thứ ba“ đánh và chiếm Huế một cách chớp nhoáng đã không thành hiện thực. Quân đội CS và các tên CS trá hình đã bị lật tẩy, lần lượt tìm cách tẩu thoát lên các căn cứ địa mật khu của cộng sản.
22.  Huế không phải là nơi duy nhất chịu thảm nạn trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ vào dịp Tết Mậu Thân 1968 bởi tay của lũ CS trá hình Phật giáo này.  Nhưng cuộc đánh lấn để chiếm Huế của CS là một trận khởi điểm có tầm mức đặc biệt quan trọng trong mưu mô của CS, vì Huế nằm sát với biên giới  Bắc Việt cộng sản. Kinh thành Huế có vị trí đặc biệt quan trọng, đặc biệt là Huế đã nằm trong kế hoạch của CS, là sau khi chiếm được,  Huế sẽ được dùng làm „thủ đô“ của cái gọi là „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“, hợp thức hóa con bài công cụ tay sai cò mồi của cộng sản miền Bắc trong công cuộc xâm lấn từng bước toàn bộ lãnh thổ VNCH. Cái „mặt trận“ trá hình này đã được cộng sản Bắc Việt dùng như một  bình phong, công cụ trá hình để đánh lạc hướng dư luận thế giới, che giấu sự tham chiến phi pháp của quân đội cộng sản Bắc Việt  trong cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Nên trong dịp Tết Mậu Thân, đồng bào Huế đã bị cộng sản thảm sát oan nghiệt nặng nền nhất so với các thành phố đô thị miền Nam khác cũng bị tấn công trong dịp này.
23.  Tại California USA, trong năm 2010, một „Ủy ban truy tố tội ác đảng cộng sản Việt nam“ http://ubtttadcsvn.blogspot.com đã được thành lập do các cựu quân nhân sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa và các cựu tù nhân chính trị tỵ nạn chế độ Việt gian cộng sản khởi xướng. Thu thập dữ liệu khởi tố liên quan tới vụ cộng sản thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân1968.
Địa chỉ hộp thư của Ủy ban: P.O.BOX 6147. FULLERTON, CA. 92843, USA; Tel.: 001. 626 257 1057; E-Mail:huemauthan1968@gmail.com
Địa chỉ tổ hợp luật sư thụ lý hồ sơ khởi tố: Tổ hợp luật sư quốc tế: OKT – OLTHUIS KLEER TOWSHED. LLP; 229 College Street, 3 Floor; Toronto, Ontario M5t 1r4; Nữ luật sư: N. Kate Kempton. Tel.: 001. (416) 981-937. E-Mail: kkempton@ktlaw.com
Chủ tịch Ủy ban là ông Nguyễn Phúc Liên Thành, thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu trưởng ty cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên-Huế. Mục tiêu tiên khởi của ủy ban nhằm thu thập các lời khai nhân chứng, số và tư liệu nạn nhân, tất cả những dữ liệu về những kẻ chủ mưu ra lệnh, chủ phạm, tòng phạm, sát thủ trực tiếp và liên đới v.v., khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là đảng cộng sản Việt Nam và các tên cán bộ cộng sản và tay sai trá hình Phật giáo, nhằm truy tố tội ác của chúng ra tòa án quốc tế tại Den Haag. Uỷ ban này mong có được sự hợp tác giúp đỡ, cung cấp các tư liệu, lời kể, hồi ký ức của các nhân chứng còn sống xót, những người thân của nạn nhân có liên quan. Ví dụ như những thân nhân của các bác sỹ người Đức đã bị sát hại, nên viết lại những hồi ức, hoặc kỷ niệm, hoặc đã từng chứng kiến v.v.
Đến nay ông Liên Thành đã hoàn thành và cho xuất bản hai tác phẩm và ít nhất là một trang blog liên quan đến đến vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân 1968. Quyển thứ nhất là: Biến động miền Trung”, xuất bản năm 2010, quyển thứ hai, xuất bản năm 2012, có tựa đề: ” Huế - Thảm sát Mậu Thân 1968 – Tội ác đảng cộng sản Việt Nam”. Trong 2 cuốn sách kể trên, vì là một chứng nhân đương thời, hơn nữa, trong một cương vị đặc biệt của ngành cảnh sát đặc biệt có liên quan trực tiếp tới biến cố trên, nên tác giả đã mô tả sống động, chân thực và đưa ra các chứng cớ có giá trị lịch sử đặc biệt khả tín. Tác giả đã mô tả và chứng minh mạch lạc, chi tiết diễn tiến của vụ việc, gần như từng ngày, về các cán bộ cộng sản và tay sai núp trong các vỏ bọc ngụy trang trá hình Phật giáo như “GHPGVNTN”, hoặc “Lực lượng liên minh dân tộc dân chủ hòa bình”…đã trực tiếp nhúng tay vào tội ác thảm sát dân Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968 như thế nào.
24.  Những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ…và GHPGVNTN trên khắp thế giới, trong đó có GHPGVNTN của Thích Như Điển tại Đức đang cuống cuồng lo sợ trước sự hiện diện của hai quyển sách trên và công việc của UBTTTADCSVN. GHPGVNTN khắp nơi trên thế giới đặc biệt là tại Mỹ, các tay chân của Giáo hội như “gia đình Phật tử Việt Nam”, các loại “lực lượng” như cái gọi là “lực lượng cư sỹ chấn hưng Phật giáo”… được lệnh của GHPGVNTN tung ra dùng mọi cách để xuyên tạc, cản trở công việc của ủy ban TTTADCSVN và những cá nhân hội đoàn nói lên sự thật. Các thủ đoạn đã được tập đoàn cs trá hình “giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” này dùng đến để bôi xóa tội ác thật bẩn thỉu. Từ vu khống đến đe dọa sát hại tính mạng. Mới đây nhất, chính ông chủ tịch ủy ban đã thoát hiểm trong muôn một bởi những phát súng ám sát hụt của những kẻ thuộc hạ trên. Nội vụ đang được giới chức an ninh Mỹ điều tra.
25.  Cái gọi là “GHPGVNTN” như trên đã dẫn, đã được đảng cs giật dây lèo lái từ những năm 1964, nhưng những mưu đồ thủ đoạn ma mãnh khiển dụng các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo để trá hình và làm vỏ bọc ngụy trang cho đảng cs đã được tên Hồ Chí Minh khởi xướng rồi hoạch định thành đường lối của đảng cs Việt Nam từ những năm 1940. Thực chất của những thủ đoạn này là tìm mọi cách để từng bước một, cướp hoặc lợi dụng các tổ chức, hội đoàn rồi trá hình tổ chức đó dùng cho những mục đích riêng càng ngày càng thâm độc hơn. Để thực thi mưu đồ đó, các cán bộ cs và các cư sỹ tay sai ban đầu phải trá hình thụ động để „thâm nhập thực tế“, sau này khi đã „say mùi hương khói“ và được đảng cs đào tạo nhiều hơn về Phật giáo, chúng có thể  tùy tiện xuyên tạc Giáo lý và Kinh điển Phật giáo một cách xuẩn động tinh vi cho những mục tiêu định trước. Hàng loạt các „hội“, các „đoàn thể Phật giáo“ được các cán bộ cs đoàn ngũ hóa rồi phù phép cho thành hình để rồi lại biến mất một cách nhanh chóng, tùy ẩn hiện như những „nghị quyết“ của đảng cs. Tiền thân là những  hội thanh thiếu nhi sinh viên và các loại tầng lớp „Phật giáo cứu quốc“, „Gia đình Phật tử Việt Nam“, sau này là những „Lực lượng Phật giáo tranh thủ cách mạng“, rồi „chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ có trang bị vũ khí v.v. Các thanh thiếu niên được đoàn ngũ hóa, tẩy não và huấn luyện để trở thành những „Thanh niên Phật tử„  có thể „sẵn sàng tranh đấu“, làm hậu thuẫn cho những mục đích quân sự. Để có thể đoàn ngũ hóa khối quần chúng Phật giáo rồi giật dây theo ý của đảng cs, các cán bộ cs nằm vùng đã tìm mọi cách chia rẽ ly gián, không chừa bạo lực, khủng bố để cô lập các vị chân tu với khối quần chúng, và cuối cùng là triệt hạ những vị này gần như phải xa lìa hẳn môi trường thực hành tôn giáo tâm linh truyền thống. Để cuối cùng, các chùa tự chỉ còn lại là nơi ẩn náu của các cán bộ cs trá hình Phật giáo. Bây giờ là thời điểm để một số nhất định các cán bộ được đảng cs khoác cho những bình phong trá hình thảm thương như „Phật giáo  bị đàn áp“ để đánh lừa dư luận. Đồng thời để tạo ra một màn kịch trá hình là „tại Việt Nam tôn giáo bị đàn áp“, để qua đó các cán bộ trá hình Phật giáo của đảng cs tại nước ngoài như Thích Nhất Hạnh, Võ Văn Ái, trong nước như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thich Huyền Quang, Thích Quảng Độ có thể che giấu kỹ hơn bộ mặt đểu gỉa của chúng trong chiêu bài „Pháp nạn“, „đấu tranh cho hòa bình tự do, chống đàn áp tôn giáo“… Cùng lúc này, theo như hệ thống tuyên truyền của đảng cs thì tại Bắc-Việt Nam cũng như tất cả các nước cộng sản xhcn khác „tự do tôn giáo“ tràn trề, cũng như tất cả mọi thứ khác đều „không thể tốt đẹp hơn được nữa“. Đảng cs tin rằng thế giới bên ngoài, đặc biệt là phương Tây hết còn có thể nhìn thấu các ngón nghề thủ đoạn ma mãnh của chúng. Cái gọi là „GHPGVNTN“ đã bị rút hết ruột này, mặc dù đã nhất cử nhất động đều theo nhịp gậy chỉ huy của đảng, mà đối với đảng csvn, „giáo hội“ vẫn chẳng đáng để tin tưởng hoàn toàn, nên „GHPGVNTN“ phải là một hội viên của „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ và chịu sự „chỉ đạo“ trực tiếp của „bộ chính trị„ đảng csvn.
26.  Trong mưu đồ xâm lăng của cs Bắc-Việt vào miền nam, GHPGVNTN đã là một công cụ đắc lực để thừa hành thực thi tội ác của đảng csvn. Một trong những tội ác tầy trời như trên đã dẫn, là vụ thảm sát  đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Sau khi quân cs nhận định tình hình chiến sự tại chỗ cho thấy đã chúng đã vỡ mộng chiếm Huế một cách chớp nhoáng, nên ngày 22.02.1968, tên Thích Đôn Hậu (tức “Diệp Trương Thuần“) trá hình trong cương vị „tăng thống Phật giáo“ đã nhận mật lệnh của đảng csvn qua tay tên điệp báo viên nằm vùng Hoàng Kim Loan ra lệnh cho hơn 200 cán bộ cs bắt đầu thực thi cuộc thảm sát hàng loạt dân chúng Huế để trả thù, thủ tiêu các nhân chứng. Như trên đã dẫn tổng số người bị giết hại đã lên đến trên 5000 nghìn người và trên 1200 người khác bị bắt đi mất tích. Các nạn nhân đa phần là dân thường, cả phụ nữ và trẻ em, đã bị chúng bắt trói, cưỡng bức giải đi ra các vùng ven đô Huế và bị sát hại ở đó. Khoảng 300 thanh thiếu niên cũng bị các toán cán bộ sát thủ hành quyết của cs bắt đi theo để đào các huyệt mộ cho cuộc hành hình thảm sát này, để cuối cùng, cũng bị chúng sát hại hòng thủ tiêu xoá hết mọi tang chứng.  Một tên cán binh cs đã lừng chừng thực thi lệnh hành quyết tập thể trên, vì hắn vốn quen giết người trên mặt trận chứ chưa quen giết người như thế này. Nhưng lúc đó „giết“ là tất cả những gì chúng học thuộc nhất và còn lại trong đầu, nên lệnh hành quyết của đảng csvn đã được chúng thực thi trọn vẹn.
27.  Những nhân chứng, nạn nhân trực tiếp còn sống xót của vụ thảm sát này mỗi lần hồi tưởng quá khứ là mỗi lần phải ngẹn ngào trong nỗi đau xé thắt tâm can. Một nam nhân chứng hy hữu còn sống sót hồi tưởng lại cơn ác mộng kinh hoàng nhức nhối đã hành hạ anh hơn bốn mươi mùa xuân qua, khi anh còn là một thiếu niên bị toán sát thủ của cộng sản cưỡng ép bắt đi đào huyệt cho vụ thảm sát vào một ngày Tết năm xưa. Dưới sức ép của họng súng đe dọa bởi toán cán binh cs, cậu bé thiếu niên đã phải xúc đất đổ xuống huyệt, đổ lấp lên những người còn sống, bị trói và xô ngã xuống huyệt. Máu và nước mắt đã nhòa trộn cùng mỗi xẻng đất mà cậu bé phải xúc đổ xuống huyệt, dần lấp đi những ánh mắt thân thể của những con người đang vùng vẫy, gào rú dần tắt ngấm đi vì kiệt sức, van lơn đòi sự sống. Giọng người kể lại rung lên và nghẹn đi trong nỗi oan nghiệt đến vô cùng của sức chịu đựng: „Ôi trời cao đất dầy ôi! Ôi Việt cộng dã man!  Sao Việt cộng mi dã man như vầy? Sao bắt tui phải chôn sống đồng bào tui…? Ôi nghiệp quả báo nào…, ôi, tui đã chôn sống đồng bào tui…, ôi Việt cộng, sao mi man rợ như rứa…?“. Lời người kể lại hôm nay thường tắt đi trong nghẹn nghào oan ức, tràn nghập nước mắt như thế. Và hết huyệt này đến huyệt khác cậu bé phải làm công việc đó cho đến khi cùng một thiếu niên khác liều mình lợi dụng bóng tối tháo chạy được vào rừng, bỏ lại sau lưng là một trời mưa đạn bắn theo bởi lũ sát nhân chuyên nghiệp cộng sản. Hai đứa đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nhưng không một ai trong số 5327 người khác sống sót trong cuộc tắm máu trả thù man rợ có một không hai trong lịch sử của lũ sát nhân tay sai đảng csvn.
28.   
29.  Ngày 30. 04.1975 gần 500 tên tay sai cộng sản trá hình „Tăng, Ni“ Phật giáo của cái gọi là „Đại học Phật giáo Vạn Hạnh“ kéo nhau ra ngã tư Bẩy Hiền, cửa ngõ Sài Gòn hân hoan chào đón và hướng dẫn cho xe tăng cộng sản vào chiếm giữ các vị trí quan trọng trong thành phố. Cũng theo một kế hoạch trù bị khác của cộng sản, nếu tình hình bi đát hơn dự tính thì khoảng 7000 sinh viên trực thuộc của đại học Vạn Hạnh đã cất giấu vũ khí, sẽ bắn vào sau lưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa khi quân đội cộng sản tiến đánh thành phố. Khi quân cộng sản đã tràn ngập thành phố thì những tên cộng sản trá hình “tăng ni” này, một số có trang bị vũ khí đã trực tiếp dẫn đường chỉ lối, đưa các tên cán binh cộng sản đi lùng sục từng nhà để tìm bắt các nhân vật quan trọng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà chúng coi là nguy hiểm hoặc „người của CIA“, bắt mang đi giết và thủ tiêu ngay trong đêm, một số đông bị chúng thủ tiêu xác bằng cách thả trôi sông, số người bị giết lên đến hàng nghìn người. Cảnh bắn giết thủ tiêu này diễn ra trên khắp các đô thị miền nam. Sau đó, cũng những tên cs núp áo tu hành này đã tự xuất đầu lộ diện, nhiều tên xuất hiện trong quân phục cộng sản, có cả quân hàm, tay đeo băng đỏ, mặt mũi đằng đằng khí thế “cách mạng” công khai xuất hiện khắp nơi trong thành phố, chúng là một trong những “cán bộ” đầu tiên của chế độ ngụy quyền cộng sản tại miền nam Việt Nam. ”Đại học viện Phật giáo Vạn Hạnh” là một trong những địa điểm đầu tiên được quân cs biến thành “trụ sở trình diện” dành cho các sỹ quan quân lực nhân viên chính quyền, chính phủ VNCH ra “trình diện, khai báo”. Trực sẵn tại đây có mặt những tên cs đầu trọc nham nhở, trong những bộ đồ cà sa “tăng sỹ Phật giáo”, thâm hiểm hơn cả những tên trong quân phục “bộ đội”, súng ống đầy hăm dọa. Vì là lũ chỉ điểm nằm vùng chuyên nghiệp của đcs trong thành phố nên chúng có đầy đủ danh sách của những người chúng cần phải tìm giệt. Bổn cũ xoạn lại: những quân dân cán chính của chính quyền VNCH bị truy bắt ra trình diện phải chuẩn bị hành trang cá nhân đi “tập trung học tập cải tạo 10 ngày”. Về thực chất, những cái gọi là “trại tập trung học tập cải tạo” này là những mồ huyệt sống, nơi cs cầm tù, tra tấn hành hình, sát hại bức tử nạn nhân dã man vô hạn định. Nếu có, hạn định này sẽ do đcsvn định đoạt.
30.  Tên “tăng thống” tự phong Thích Huyền Quang (tục danh Lê Đình Nhàn), nhân dịp đại hội GHPGVNTN năm 1981 đã “lỡ mồm” tự xác nhận những tội ác bất khả bôi xóa của chính hắn, đcsvn và GHPGVNTN như sau: “…Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ba lần có công với cách mạng (của đcsvn)…”, và “…chúng tôi (GHPGVNTN) lập ra chính phủ Phật giáo của Tổng thống Dương Văn Minh để giao cho chính quyền cách mạng (của đcsvn)”.
31.  Trở lại dòng sự kiện: Vào ngày 17.10.1970, một “phái đoàn Phật giáo” gồm Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh và những tên cộng sản trá hình khác lên đường sang Tokyo dự hội nghị quốc tế “Tôn giáo và Hòa bình”. Tại đây chúng  trơ trẽn đưa ra cái gọi là “đề nghị 5 điểm”. Cả về hình thức lẫn nội dung, nó chính là “đề nghị 5 điểm” của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam”, cũng tức là của đcsvn. Luận điệu xảo trá của những đòi hỏi này là “đòi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi Việt Nam”, “để dân tộc Việt Nam tự quyết”….Những tên cs trá hình này bị các thành viên của hội nghị quốc tế chất vấn bằng những câu hỏi trực diện, là chúng đang đại diện cho ai để đưa ra những đòi hỏi đó? Tại sao chúng chỉ đòi hỏi quân đội Mỹ và đồng minh rút lui, mà không đòi hỏi quân đội Bắc-Việt ngừng ngay lập tức cuộc chiến xâm lăng của chúng chống Việt Nam Cộng Hòa? Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã đồng loạt trở nên câm ngọng một cách lạ thường vì không thể trả lời những câu hỏi.
32.  Trong thời gian này Thích Đôn Hậu cùng vợ là Tuần Chi, tức Đào Thị Xuân Yến, cả hai y thị được các chi bộ đảng cs nằm vùng tổ chức cho bí mật vượt tuyến ra Bắc gặp Hồ Chí Minh. Hồ cử Thích Đôn Hậu và tên cs Tôn Thất Dương Tiềm và phái đoàn đi tháp tùng sang các nước khối Đông-Âu hoặc cs như Đông-Đức, Hungary, Mông Cổ để tuyên truyền, quảng bá các khẩu hiệu xảo ngữ cho đảng cộng sản của Hồ.
33.  Qua những lần công vụ tuyên truyền cho đảng cs này, Thích Đôn Hậu và các đồng chí cs đã cố tình xuyên tạc bôi vẽ ra một bức tranh hoàn toàn sai lệch về chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Một mặt thì chúng xuyên tạc bôi bẩn rằng chính phủ VNCH tham nhũng, yếu kém, mặt khác chúng tán tụng Hồ Chí Minh và miền Bắc cộng sản XHCN lên tận mây xanh. Cùng một chí hướng này, cặp Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Florett Cao Ngọc Phượng và hai tên cộng sản tay sai Võ Văn Ái, Pelelope Faulkner tổ chức các cuộc biểu tình tại Tây Âu, Đức, Pháp và Mỹ với những khẩu hiệu trá hình “ Chống chiến tranh Việt Nam” để đánh lạc hướng, lừa đảo dư luận thế giới  trên tinh thần hậu thuẫn có lợi cho chế độ ngụy quyền đảng cộng sản.

No comments: