Tuesday, October 13, 2009

HỒ ÐINH -Hiện Tượng Trồng Cây Ngược Ðầu Của Nhà Sư Nhất Hạnh

Từ Hoa Sen Trong Biển Lửa, Cho Tới Sự Dối Gian Nhân Thế. Hay Hiện Tượng Trồng Cây Ngược Ðầu Của Nhà Sư Nhất Hạnh
  • HỒ ÐINH

Từ những trang sử liệu, ta biết được VN là một quốc gia, một dân tộc bao đời, sống trong hình ảnh “ Việt Ðiểu SàoNam Chi “.Nên có thể nói rằng, tôn giáo của người VN muôn đời, không phải chỉ biết có Phật hay Chúa mà thôi, mà là bản chất bất khuất,quật cường. Ðó mới chính là Ðạo Việt, mà tượng trưng là Ðền Ngọc Sơn, nằm giữa Hồ Hoàn Kiếm, tại Hà Nội. Trong đền, vỏn vẹn chỉ có ba bệ thờ :Chính giữa thờ Hưng Ðạo Ðại Vương-Trần Quốc Tuấn, bên tả thờ Phật và bên hữu là Thần Nước và Ðất. Nói chung trên mọi nẻo đường đất nước, nơi nào người Việt cũng thờ kính giống nhau : Các Vị Anh Hùng Liệt Nữ, đã hy sinh cho Dân Nước, trải dài trong hai chục thế kỷ lập quốc, chống ngoại xâm Tàu, Pháp, Nhật và Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế. Bên cạnh là bàn thờ Phật, Chúa, Trời Ðất, Thánh Hiền.

Khác với quan niệm của Tây Phương, luôn cho rằng uy quyền chính trị, không phải tự trên trời rớt xuống, mà phải dành đoạt, kể cả phải làm sao, khiến cho người khác khiếp sợ. Trái lại ở VN, ngoài các vị thần linh đã có sẵn trên bệ thờ, bất cứ ai muốn trở thành lãnh tụ, kể cả tôn giáo, trươc hết phải góp phần hy sinh cho đất nước, cũng như đã có công to cùng dân tộc, điển hình như Ðức Huỳnh Phú Sổ, Ðức Phạm Công Tắc.. Bởi vậy, nên Tể Tướng Lữ Gia , đã giết Triệu Ai Vương và Cù Thị, cũng vì lo cho nước. Hồ quý Ly và Mạc Ðăng Dung, tuy cướp được ngôi nhà Trần và Hậu Lê, nhưng lòng người cả nước, vẫn nhớ về công đức đánh đuổi giâc Mông Cổ, cùng với giặc Minh, của các vị Vua Trần và Bình Ðịnh Ðịnh Vương Lê Lợi. Tình trạng trên có khác đâu lòng người Việt tị nạn cọng sản, khắp nơi trên thế giới, từ sau ngày 30-4-1975, dù đang sống lưu lạc khắp quê người, vẫn luôn nhớ về quê mẹ và căm thù Rợ Hồ cũng như bọn Việt Gian Miền Nam, đã tiếp tay làm cho cả nước phải sống trong vũng bùn nô lệ của xã nghĩa thiên đường, từ ấy đến nay. Nên đừng bao giờ vọng tưởng, khi thấy người VN, trước mặt mình, đã xưng con, kính cha, thưa thầy, mà nghĩ rằng muốn làm gì thì làm

Hai ngàn năm lịch sử dựng và giữ nước, Phật giáo từ khi du nhập vào VN ngay đầu thế kỷ thứ 1 sau tây lịch, đã đóng góp lớn lao cùng dân tộc trong công cuộc chống xâm lăng. Chính các vị thánh hiền, cao tăng Phật giáo bao đời như Vạn Hạnh, Viên Thông, Phù Vân, Thạch Liêm, đã tạo nên những minh quân, dũng tướng như Lý Thánh Tôn, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn, Trần Hưng Ðạo, Trần Khắc Chung, Nguyễn Trải, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Phúc Chu.. một lòng vì dân cứu nước, làm cho đạo-đời thuần từ, nhân dân no ấm, hơn bao giờ hết.Những nhân vậi minh triết Phật giáo trên, mới đáng được xưng tụng là CAO TĂNG, THÁNH TĂNG và được các sử gia khi đề cập trong các trang Việt Sử, bằng sự trang trọng, khi thêm vào chữ “ ÐỨC “, giống như Ðức Phật Tổ, Ðức Chúa Trời, Ðức Trần Hưng Ðạo, Ðức Huỳnh Phú Sổ. Nhà sư Thích Nhất Hạnh, tuy lớn tuổi nhưng không phải là cao tăng, vì tư cách cũng như đức hạnh không xứng đáng. Về cá nhân ngoài đời, Nguyễn Xuân Bảo, là thành phần ký sinh trùng, cặn bả của xã hội Miền Nam, caọ đầu ẩn trong chùa trốn quân dịch, ăn hại và phá nát đạo-đời. Tại hải ngoại, dùng miệng lưỡi để lường gạt niềm tin của chúng sanh kiếm sống và làm giàu. Suốt mấy chục năm nay, đương sự luôn bưng bợ VC, phản bội quốc dân, gây nên khủng hoảng Phật Giáo từ đó đến nay, bằng sự đâm thọc, xúi bậy, trong nhiệm vụ của một điệp viên nhị trùng nằm vùng.

Tóm lại Phật giáo khi hội nhập vào trái tim VN, luôn làm sáng tỏ triết lý của nhà Phật “ Trong núi vốn không có Phật, mà Phật ở chính ngay trong tâm ta “.Nói một cách khác, trong tâm của người Phật tử thuần thành, theo ngũ giới, dù kính Phật, trọng Tăng. Nhưng không phải vì thế, mà ai cũng mù quáng u mê, cúi đầu nghe theo những lời thuyết giảng vu vơ, đi ngược lẽ đạo cũng như luôn tuyên truyền dụ dỗ chúng sanh, chạy theo kẻ thù bán nước Việt Cộng, của một ít sư ni buôn thần bán Phật, luôn cuồng điệu gây chia rẽ giữa các tôn giáo. Trong số này, lừng lẫy nhất vẫn là nhà sư Thích Nhất Hạnh, qua tục danh Nguyễn Xuân Bảo, từ lúc còn ở trong nước cho tới bây giờ trở lại nước, vào tháng 1-2005,tư tuởng và lâp trường làm lợi cho VC, vẫn không hề thay đổi.

Không ai có thể tắm hai lần, dưới cùng một dòng nước. Ðó là chân lý nhưng thảm trạng của Phật Giáo VN, từ mấy chục năm qua, lại đi ngược với chân lý trên, khi hai lần cùng tắm trong biển lửa, do VC gây ra. Ðúng như Nhất Hạnh đã viết” Hoa Sen Trong Biển Lửa “, nói về cuộc khủng hoảng của Phật Giáo, từ sau binh biến 1-11-1963 cho tới ngày mất nước 30-4-1975. Sau đó cho tới bây giờ, khi Nhất Hạnh dẫn hơn 200 tăng chúng về Hà Nội, cũng đã chơi trò “treo đầu dê ban thịt chó “, dùng miệng lưỡi lắc léo, qua chỉ đạo của Ủy Ban Tôn Giáo Trung Ương trong Nghị Quyết 36, để che đậy chạy tội cho VC trong hành động hủy diệt mọi tôn giáo hiện nay tại VN. Tất cả hành động của nhà sư Nhất Hạnh, quả thật không khác gì chuyện trồng cây ngược đầu. Mặc dù vậy cũng chẳng che dấu được ai và được lâu, vì quốc dân và bia miệng đã có lời phán xét cuối cùng rồi. Năm 1965, Nhất Hạnh đổ thừa cho chính quyền VNCH đàn áp Phật Giáo, để che chở tội lỗi của một số kiêu tăng loạn sư và VC. Năm 2005, Nhất Hạnh cùng Cao Ngọc Phượng, tức Thích Nữ Chân Không, qua cuôc phỏng vấn của báo Pháp, đã chụp cho Giáo Hội PGVNTN tại Hải Ngoại, vì tôn trọng Lá Quốc Kỳ “ Màu Vàng Ba Sọc Ðỏ “ của Quốc Dân VN, chống lại VC, nên mới bị bạo quyền cấm không cho hoạt động ở trong nước, sau ngày 30-4-1975 tới nay vẫn bị đàn áp và trù dập thê thảm.

1 Hoa Sen Trong Biển Lửa, Từ 1964-1975 tại VNCH :

Nói gì thì nói, từ sau ngày binh biến1-11-1963 cho tới ngày mất nước, mất đạo sau tháng 4-1975, Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất tại Miền Nam VN, đã thăng hoa rực rỡ, nếu đem so sánh với thời kỳ từ năm 1954 trở về trước, hay với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh của Bắc Việt từ 1945-1975, vì đã thực hiện rất nhiều công trình lợi ích cho xã hội, trong đó quan trọng nhất vẩn là lãnh vực giáo dục. Từ năm 1964, Viện Hóa Ðạo hoạt động rất mạnh, đào tạo được một số tăng ni trẻ tuổi, có kiến thức văn hoá và Phật pháp cao và đã trở thành những cao tăng, học giả, kiến thức cũng như đạo đức vang vong khắp năm châu. Nhiều người trong số này, được gởi sang tu học tại Ấn Ðộ, Tích Lan, Nhật, Pháp kể cả Hoa Kỳ. Khắp nơi chùa chiền được tu bổ cũng như xây dựng, nổi tiếng như các chùa Việt Nam Quốc Tự, Vĩnh Nghiêm.. Tại các tỉnh thị, thành phố kể cả các thị trấn lớn, từ bên này cầu Hiền Lương-Quảng Trị, vào tận Cà Mau, Hà Tiên.. ở đâu cũng có các Khuông Hội Phật Giáo và các trường tiểu-trung học Bồ Ðề. Theo thống kê của Tổng Vụ Giáo Dục, thuộc Viện Hóa Ðạo, tính tới ngày 16-6-1967, khắp Miền Nam đã có 80.000 học sinh tiểu trung học, do 400 giáo chức, dạy dỗ tại 112 trường Bồ Ðề. Ngoài ra Ðại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, cũng đã được khai giảng từ niên khóa 1967, do thương tọa Thích Minh Châu, một nhà sư thân cộng làm viện trưởng. Bên cạnh còn có thượng tọa Thích Thiện Ân, tốt nghiệp tại Mỹ, là khoa trưởng Văn Khoa và Nhân Văn. Vì nhà trường áp dụng theo lối giáo dục Hoa Kỳ, nên cấp chứng chỉ cho sinh viên, hằng ba tháng.. nên sinh viên theo học rất đông, để có chứng chỉ hoãn dịch, khỏi đi lính. Sau tháng 5-1975, tất cả các cơ sở cũng như chùa chiền, nhà thờ của Phật giáo, đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Ðài, Hòa Hảo. đều bị giặc cướp giựt tích thâu, để đảng làm của riêng hay công sở. Nhiều chức sắc tôn giáo, bị giam tù đến chết nơi ngục thất, trong số này có nhiều tuyên uý, khi bị gạt đi học tập cải tạo tận các trại giam ngoài Bắc.

Ngày nay, ngồi đọc lại những bài báo cũ của Lý Chánh Trung, đăng rải rác trên các tờ Ðất Mới, Ðối Diện, Ðiện Tín, Tin Sáng, Lập Trường.. công khai nhục mạ, chống đối chính quyền Miền Nam VN, đồng thời hết lòng trung hiếu, ca tụng Hồ Chí Minh và VC, ta mới thấy thấm thía về cái giá tự do, mà người VN từ sau ngày 30-4-1975, đã đổi bằng máu lệ, vàng tiền cùng sinh mạng, khi liều chết vượt biển tìm tự do trên biển Ðông. Tất cả đều là tội lỗi oan nghiệt, qua những tiếng khóc nức nở, của các nạn nhân chiến tranh trong suốt 20 năm qua, mà khởi nguồn từ những con người “ ăn chay niệm Phật hay tay lần chuỗi hạt, sau lớp áo chùng “.Có đọc Thế Giới Mới số 220, xuất bản tại thành Hồ ngày 20-1-1997, mới nghe chính miệng nhà sư Thích Trí Dũng, hiện đang sống ngất ngưởng sang giàu, trong chùa Một Cột tại Thủ Ðức, khoe thành tích. Nhờ đó, ta mới biết được sư hổ mang, đã cậy nắp mồ Ngô Ðình Cẩn, chôn trong chùa Phổ Quang, kế nghĩa trang Bắc Việt, trong vùng Tân Sơn Nhất, để dấu vũ khí và nuôi tướng VC tên Trần Hải Phụng và đặc công Nguyễn Văn Bá. Trong trận Mậu Thân 1968, sư khoe là đả dùng xe của mình, để chở VC và súng đạn tấn công Sài Gòn, vì không ai lúc đó, dám xét xe hay chùa, nhà thờ của các sư ni cha cố, được coi như các Thái Thượng Hoàng của chế độ đương thời. Có đọc Kiến Thức Phục Vụ Thuyết Minh Du Lịch, phát hành tại thành Hồ năm 1995, mới biết trong suốt cuộc chiến 1955-1975, hai ngôi chùa cổ kính nhất tại Sài Gòn là Giác Lâm Tự, trong vùng Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình và chùa Giác Viên ở Bình Thới, qua các nhà sư Hồng Hưng Thiện Thuận, Minh Nguyệt.. là cơ sở hậu cần, chứa nuôi cán bộ và giữ công tác tình báo nội thành. Có đọc Hồi Ức của Mặt Trận GPMN, phần của Phan Nhẫn viết, mới biết được hành vi theo VC của sư ông Thích Thiện Châu và sư bà Mạn Ðà La, tự xưng là đại diện cho lực lượng thứ ba tại Pháp. Sư ông đã theo chầu ‘ bác ‘ năm 1998, còn sư bà, sau màn tranh chấp tài sản của sư ông để lại, với VC nằm vùng Phạm Trọng Chánh,trong trường TH.PBC.PT, được báo Tiền Phong đăng tùm lum, cũng đã vơ vét, về tu tiếp tại Hà Nội. Ngoài ra, cũng qua tài liệu trên, ta còn biết thêm cha cố Nguyễn Ðình Thi, trong “ Fraternité Vietnamienne “ , Trương Bá Cẩn.. ở Ba Lê, công khai theo VC. Năm 1969, khi Hồ Chí Minh theo Lê-Mác về cõi A Tỳ, chính các cha cố Nguyễn Ðình Thi (Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tỉnh (Canada).. đã lập đàn cầu nguyện cho quỷ vương, rất là trọng thể.

Huế muôn đời vẫn còn đó, nên ai làm sao có thể quên được những tên tuổi trí thức đương thời như Lê Khắc Quyến, Nguyễn Tuyên, Bùi Tường Huân, Nguyễn Duy Tài, Trần Quang Thuận.. và Ðai Học Huế, với một số sinh viên theo VC, lợi dụng tự do tín ngưỡng và nền dân chủ pháp trị phôi thai của VNCH, để “ dùng chính quả tim mình, làm trái phá mở đường rước xe tăng và bộ đội Hà Nội, vào đô hộ dân tộc “.Huế những năm chống Mỹ cứu đảng, từ 1964-1967 qua các sinh viên VC nằm vùng trong đại học như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trườngà, Nguyễn Ðắc Xuân.. Những người này, đến đại học trốn lính và mượn phương tiện Quốc Gia, để vót nhọn thơ thành chông, xuyên qua gan lính trận đang bảo vệ mạng sống cho mình. Cũng sẽ mài thơ như kiếm sắc, chặt đầu đồng bào Miền Nam, theo đạo Thiên Chúa tại Huế, Ðà Nẳng, để đào sâu thêm sự chia rẽ lương giáo. Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên phản tặc sát nhân đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968, đã vênh váo thừa nhận là, bọn chúng chỉ lợi dụng sự học hành, để tranh đấu, nổi loạn, ném lựu đạn đuổi Mỹ, chống Quốc Gia, hoàn thành sự nghiệp rước cọng sản về dầy mã tổ Hồng Lạc, như ngày nay chúng ta đã thấy. Tóm lại sự nhục nhã của một thời loạn lạc, nay đã là một pho sử miệng, muôn đời cười chê đám trí thức no cơm ấm cật, nên không biết làm gì hơn bằng làm tay sai cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào mình.

Ngay trong ngày 27-1-1973, khi Lê Ðức Thọ cùng Kissingerđang nâng ly mừng hiêp ước ngưng bắn tại Nam VN được ký kết ở Ba Lê, thì cũng trong thời gian đó, khắp hang cùng ngõ hẹp trên lãnh thổ VNCH, bộ đội VC đã tấn công dành dân chiếm đất. Tại Bình Thuận, cùng lúc VC tấn công 21 xã ấp, từ Tuy Phong vào tới ranh giới Bình Tuy. Nhưng quy mô nhất vẫn là tại Sa Huỳnh, Quảng Ngải, trong ý đồ của Hà Nội là chiếm vùng này, để cắt đôi lãnh thổ VNCH. Ngày 25-3-1973, VC tấn công và bao vây Trại Tống Lê Chân, cách An Lộc 15 km, do TD 92 Biệt Ðộng Quân trấn giữ. Trong bờ khói lửa triền miên, thì ở ngoài biển Ðông, qua sự đồng tình của Nixon-Kissinger, cùng với tờ văn tự bán nước của Hồ Chí Minh-Phạm Văn Ðồng ký năm 1958, Trung Cộng xua tàu chiến cưỡng chiếm lãnh thổ của Hồng Lạc, tại quần đảo Hoàng Sa ngày 17-1-1974. Tháng 10-1974 quận Thường Ðức, Quảng Nam bị thất thủ, rồi tiếp tới là tỉnh Phước Long, mở đầu cho cuộc xâm lăng công khai của Bắc Việt, qua cái gọi là Hiệp định ngưng bắn hòa bình mà Mỹ đã dàn dựng với cọng sản quốc tế tại Pháp năm 1973.

Trong lúc cọng sản Bắc Việt đêm ngày tấn công VNCH trên khắp các mặt trận, kể cả tại Sài Gòn cũng như các thành phố lớn khác. Người lính VNCH lúc đó vừa phải trực diện đối mặt với cái chết từng giây phút tại mặt trận, để bảo vệ mạng sống ký sinh cặn bã của bọn phản chiến, thiên cộng, đang ẩn núp khắp nơi ở hậu phương, trong chùa, nhà thờ, tòa soạn, trường học.. Bọn này đang sống như người ngoại cuộc, dửng dưng trước sự đau khổ chết chóc của đồng bào, dù chúng cũng là người VN, cũng phải ăn và thở để mà sống, nên cũng phải có trách nhiệm làm người. Trong lúc cộng sản đang tiến quân như vũ bảo, thì hậu phương Miền Nam có những bộ óc hư hoại điên khùng,hết ký giả đi ăn mày, tới biểu tình đòi hòa hợp. Tất cả đang say men phản chiến của đám Hippy nghiện ngập ma túy “ The Beatles” đã làm loạn tại Mỹ, của Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert, Marcuse.. công khai tán tụng Hồ Chí Minh và cọng sản, hô hào hòa bình, đòi quân dân miền Nam phải buông súng đầu hàng, để chim bồ câu trắng từ Hà Nội bay tới, mang hạnh phúc no ấm, cho đồng bào miền Nam, như trong ca khúc phản chiến của Tôn Thất Lập. Tai Hoa Kỳ, Pháp, Nhật.. nhiều con ông cháu cha, được học bổng du học, lại chạy theo phản chiến chống lại đồng bào mình, trong số này hung hăng nhất vẫn là Nguyễn Thái Bình, theo học ngàng kỹ sư. Tên Việt gian này, vì làm loạn quá tại Mỹ nên bị trục xuất về nước và chết năm 1972.. Ðồng thời hằng ngày, trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Ðất Nước, Tin Văn, Vấn Ðề, Ðiện Tín.. với Nhất Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn văn Trung (chủ biên Hành Trình), Thế Nguyên ( Trình bày), Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn (Tin Văn), Lữ Phương, Chân Tín.. công khai phỉ báng chính quyền, qua các bài viết ca tụng cọng sản một chiều. Các bài báo và sách vở loại này, hiện được đảng tái bản và lưu hành tràn lan tại các tiệm sách hải ngoại, muốn biết cú mua mà đọc cho biết. Ðiều này cũng đâu có gì lạ, vì từ tháng 6-1967 tới tháng 4-1975, các tờ báo trên là cơ quan tuyên truyền của Mặt Trận GPMN, do cán bộ văn công Hà Nội, là Nguyễn văn Bổng chỉ đạo. Còn Vũ Hạnh, Minh Trang, Ngụy Ngữ.. thì len lỏi vào các táp chí Bách Khoa, Văn.. để phun nọc.

Theo sử liệu, 1966 là năm cực kỳ hỗn loạn tại miền Nam . Ðây là hậu quả của ba năm xáo trộn chính trị, sau khi nhà Ngô bị sụp đổ vào ngày 1-11-1963. Quyền lực của chính phủ quốc gia, rơi rớt chuyền từ tay bọn loạn tướng Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm.. tới Nguyễn Khanh, Nguyễn Cao Kỳ.. Cuối năm 1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng Thống nền đệ nhị cọng hòa miền Nam, an ninh trật tự mới được vãn hồi.

Ðối với các sử gia hiện đại, thì giai đoạn 1964-1967, là thời kỳ của LOẠN TƯỚNG ố KIÊU TĂNG. Chính thượng tọa Thích Trí Quang, vì say mê giấc mộng kê vàng, mờ mắt trước tiện nghi vật chất Mỹ và quyền lực của thế nhân, đã gây nên cuộc khủng hoảng của Phất Giáo VN, trong lúc đang thăng hoa, trên con đường phát triển tột bực về vật chất lẫn tinh thần. Quân Ðoàn 1 hỗn loạn, vì cuộc nội chiến đảm máu, từ ngày 10/3/1966 ố 24/6/1966, giữa quân đội trung ương và phe ly khai tại Huế, Ðà Nẳng, Quảng Ngãi của Nguyễn văn Mẫn, Phan xuân Nhuận, Ðàm quang Yêu.. chỉ vì Thiệu, Kỳ, Có, chưa kịp lập chính phủ dân sự theo ý muốn của Trí Quang và cách chức Nguyễn Chánh Thi. Lợi dụng cơ hội ngàn năm có một, tổ chức võ trang cọng sản, qua cái gọi là “ lực lượng tranh thủ cách mạng “ của Bùi Tường Huân, Lê Tuyên, Lê Khắc Quyến.. trà trộn trong phe ly khai, xúi giục Phật Tử đem bàn thờ Phật, từ chùa ra ngoài đường, để ngăn chận các cuôc tiến quân. Ðồng thời chọn các chùa đình làm công sự phòng thủ, mục đích gây cảnh đổ vở chết người, để phe đối lập và VC có cớ, tố cáo chính quyền VNCH,đàn áp Phật Giáo VN, qua báo chí trong và ngoài nước, lúc nào cũng chực chờ chia phần ăn ké. Gây chết chóc lầm than cho chúng sanh tại QD1 chưa đủ, thượng tọa Trí Quang khi vào Sài Gòn, còn ra lệnh cho Phật tử, cưỡng chiếm các chùa Việt Nam Quốc Tự, Từ Quang.. làm chia rẽ, nứt rạn và hiềm khích trong hàng giáo phẩm lúc đó như Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hộ Giác.. Ðó là chưa nói tới sự thù hận đổ máu, giữa Lương-Giáo cả nước, suốt mấy năm qua, cũng do bàn tay quá khích của Trí Quang tạo thành, khi hồ đồ coi Thiên Chúa Giáo nguy hiểm hơn kẻ thù cọng sản đệ tam quốc tế trước mắt. Sự cố chết người này, là một trong những lý do, khiến cho người miền Nam phải tan nhà, mất nước, mất đạo, sống lêu bêu khắp trời.

Trong lúc người quốc gia đâm chém tận tuyệt, thì VC nằm vùng trong trường học, chùa nhà thờ, đêm ngày không những vót thơ văn thành chông giết người, mà còn lợi dụng những hoá chất học cu, để làm thành những chai bom đặc nổ cháy, có sức công phá không thua gì lưu đạn. Ngô Kha, giáo sư, em rể Trịnh Công Sợn, chỉ huy du kích VC qua tên “ chiến đoàn Nguyễn Ðại Thức “, chận đánh TQLC. Hoa Kỳ trên đèo Hải Vân, bị bắt làm tù binh và chết trong khám. Trần quang Long cũng bị thương, được thả, tiếp tục theo VC rồi chết tại Tây Ninh trước 1975. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, chỉ huy Ðoàn Phật Tử Quyết Tử, phá làng đốt xóm, thất bại trốn ra bưng và theo bộ đội Bắc Việt trở về Huế trong tết Mậu Thân 1968, chôn sống, giết đồng bào, đau thương không kể xiết, ngàn năm bia miệng còn truyền.

Lý do chính mà Thích Nhất Hạnh viết “ Hoa sen trong biển lửa “ vào năm 1966, ngoài việc đảo lộn đen trắng để bôi bác chính quyền VNCH, đàn áp tôn giáo, bịa chuyện trực thăng võ trang Mỹ, hạ cánh xuống làng quê Nam VN, để bắt cóc đàn bà , con gái. Ðây không phải là sự trùng hơp hay ngẫu hứng, để Nhất Hạnh lồng chuyện Mỹ vào trong một tác phẩm của Phật Giáo, vốn không có ăn nhập gì. Thật sự tất cả là kế hoạch chống Mỹ của cọng sản Hà Nội, qua cái loa Nhất Hạnh. Theo các tài liệu lưu trữ, từ ngày 7-9/2/1966, Mỹ và Nam VN đã họp thượng đỉnh tại Honolulu. Phía Hoa Kỳ gồm có TT.Johnson và các phụ tá J.Gardner, Orville Freman, Robert Koman, James Humprey.. cùng phái đoàn Nam VN, do các tướng Thiệu, Kỳ, Có, Thắng. Cầm đầu. Sau đó, hơn nửa triệu quân Mỹ cũng như Ðồng Minh (Úc, Tân Tây Lan, Ðại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân và Ðài Loan), liên tục vào giúp VNCH. Nói chung, từ năm 1966 ố 1973, quân Mỹ đã hiên diện khắp nơi, chiến đấu bên cạnh QLVNCH, lấy lại thế chủ động chiến trường, làm cho VC từ trong Nam ra ngoài Bắc, đều giao động lung túng. Năm 1966 cũng là thời điểm Ðồng Minh và Mỹ tại VNCH hành quân “ TÌM VÀ DIỆT DỊCH”, phá tan gần như tất cả các căn cứ, sào huyệt của VC, kể cả Cục R tại Củ Chi, Hố Bò, Tây Ninh. Trong lúc đó, QLVNCH thì đặt trọng tâm “ Bình Ðịnh Nông Thôn “, sàng lọc, khám phá những thành phần VC nằm vùng. Hai kế hoạch hành quân một lúc, cộng thêm với sự có mặt của các sư đoàn tinh nhuệ Hoa Kỳ, Ðại Hàn, Úc, Tân Tây Lan.. tại Sài Gòn cũng như các tỉnh, đã đánh bật VC ra khỏi nông thôn, thành thị.. từ lúc đó. Tóm lại, hậu quả của các biến cố chính trị khắp hậu phương miền Nam, mà trọng điểm ở Huế, Ðà Nẳng.. chỉ là sự thay đỏi sách lươc đấu tranh, giữa Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh, trước cường độ leo thang của chiến tranh, mỗi ngày một ác liệt. Nhất Hạnh khi bị Chính Phủ VNCH trục xuất ra khỏi nước, tại Pháp đã dựng đứng những câu chuyện hoang tưởng, để viết “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “.Tuy vậy, nhà sư cũng đã tiên đoán đúng về vận mệnh của Phật Giáo VN, qua hai lần bị thiêu hủy trong biển lửa. Lần thứ nhất do lửa tham sân si của các lãnh tụ lúc đó, mờ mắt trước giấc mộng kê vàng, nên nghe lời xúi bậy của Nhất Hạnh, xây lâu đài trên cát. Lần thứ hai do chính bàn tay hủy diệt của VC và được bồi thêm bằng thùng xăng của Nhất Hạnh, mang từ Pháp về nước, trong tháng 1-2005. Lần trước, Phật Giáo VN chỉ mới rạn nức nội bộ. Lần này coi như bị hủy diệt hoàn toàn, trước bạo lực có thật của VC, chứ không phải đàn áp bịa chuyện, qua miệng lưỡi dối gian của sư ông Nhất Hạnh.

Cũng từ đó bao nhiêu thảm họa đã ập đến với hàng tăng lữ lãnh đạo Phật giáo ngay khi VC cưỡng chiếm được miền Nam . Ðầu tiên, Ðại đức Thích Như Phong bị chôn sống tại Quảng Trị ngày 17-9-1975, cho tới tình trạng cácHòa Thượng Huyền Quang, Quảng Ðộ, vào tù ra khám rồi lại bị giam lỏng đến nay, vẫn không hề thay đổi. Tóm lại, ngoại trừ một số tăng ni may mắn trốn thoát được thiên đàng xã nghĩa, tới được quê ngươì sống tự do, cơm no ấm cật, tiếp tục thuyết giảng, ngồi thiền. Hầu hết đồng bào còn lại, tan biến trong biển lửa bạo tàn, giữa lò sát sinh, hoặc tự thiêu như Ðại Ðức Thích Tuệ Hiền, cùng chết với 11 tăng ni, tại Thiền Viện Dược Sư ở Rạch Gỏi, Cần Thơ. Hay bị tra trấn cho tới chết, như Hòa Thượng Thích Thiện Minh trong tháng 10-1978, tại nhà tù của Sở Công An Sài Gòn. Riêng hai Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Thanh Trì, thì bị đầu độc chết năm 1984 tại Bệnh Viện Vì Dân. Những hành vi tàn độc của VC, đã làm cho nhà sư Thích Ðôn Hâu mở mắt sám hối, vì bị nhiễm nọc đọc của tên đệ tử Nhất Hạnh. Hòa Thương Ðôn Hậu từ trần ngày 23-4-1992 tại Huế. Từ đó đến nay, trách nhiệm lèo lái con thuyền Phật Giáo VN, trong biển lửa VC, do hai Hòa Thượng Huyền Quang và Quảng Ðộ đảm nhận, tuy bị trù dập trong nước nhưng vẫn luôn ngời sáng trong tim của mọi người.

Nhưng Phật Giáo VN đã trường tồn trong dòng lịch sử dân tộc, bao đời cùng chịu chung nổi vinh nhục của đất nươc và muôn lần như một, vẫn đứng dậy đuợc, để ngất ngưởng cùng thời gian. Lần này, Phật Giáo VN đã đứng dậy, công khai đối mặt với đạn súng, mã tấu của VC, mà thời điểm mở màn cho cuộc tranh đấu là phiên tòa ngày 15-8-1995, Hà Nội mở ra để có cớ giam tù các vị lãnh đạo PG trong nước như Quảng Ðộ, Không Tánh, Nhật Ban, Trí Lực.. Sự bạo tàn vô lý bất nhân của cọng đảng, làm phẫn nộ người Việt trong và ngoài nước. Ðến nỗi 280 tăng lữ trong Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, cũng phải viết thư phản đối đảng ngày 10-9-1995. Tại Hải ngoại, năm tổ chức Phật Giáo, do các Hòa Thượng Tâm Châu. Mãn Giác, Huyền Vi, Thuyền Ấn và Hộ Giác lãnh đạo, ngày 17-9-1995, qua thảm trạng Phật Giáo VN bị VC đàn áp tiêu diệt, nên đã thề xóa bỏ hiềm khích chia phân, từ mấy chục năm qua, ngồi chung với nhau dưới bóng Phật Ðài, đặt quyền lợi của Tổ Quốc, đồng bào cùng Phật pháp trên hết.

2 Nhất Hạnh: nhà sư vô hạnh, một đời bán nước, phá đạo.

Nhà sư Thích Nhất Hạnh là một cán bộ trí vận của cọng sản đệ tam quốc tế, núp bóng trong Thiền Môn Phật Giáo Ấn Quang, cùng với đồng bọn là Ðại Ðức Nhật Thiện (Lê Mậu Chí ố công an VC Ðồng Hới), Bửu Tôn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi.. đã xúi giục Thượng Tọa Trí Quang, gây nên cuộc bạo động long trời lở đất ở Huế, đến độ phải khiên cả Bàn Thờ Phật ra đường để làm bia cho thiên hạ chê cười, từ đó đến nay và có thể muôn đời trong dòng sử Việt.

Hành động vô ích trên, chẳng những đã làm cho Phật giáo mất hết cái ý nghĩa thiêng liên, đã đạt được trong cuộc chính biến ngày 1-11-1963, mà còn khiến cho Phật Giáo VN, bị phân làm hai mãnh, đấm đá nhau không chút nương tay.

Sau khi đổ xăng châm lửa, làm khô cháy tòa sen, Nhất Hạnh qua Pháp, được Hà Nội chung tiền để lập Làng Mai. Chính trong giai đoạn này, năm 1966 nhà sư theo đơn đặt hàng của Bắc Bộ Phủ, viết “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “, cũng như đã sáng tác bài thơ “ Bông Hồng Cài Áo “ tại rừng Tây Ninh vào năm 1961, cho Mặt Trận GPMN, kêu gọi người lính Nam VN hãy vì tình thương của mẹ, của quê làng, mà bỏ ngủ, chạy về với VC.

Nhất Hạnh sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Theo tài liệu của Võ Phiến, trong “ văn học miền nam “, thì Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, còn các tài liệu khác thì nói là Nguyễn Ðình Bảo hay Nguyễn Văn Bảo. Sư chánh quán Thanh Hóa nhưng bên ngoại là làng Lê Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Năm 1942, Nguyễn Xuân Bảo mới bắt đầu đi tu nhưng đã thay đổi rất nhiều chùa ở Thừa Thiên, từ chùa đầu tiên là Bảo Quốc, tới Từ Ðàm và cuối cùng là chùa Từ Hiếu của Hòa Thượng Thích Nhất Ðịnh.

Tuy Nhất Hạnh đã tốt nghiệp Cử nhân văn khoa tại Sài Gòn năm 1959 cũng như từng được Chính Phủ VNCH, cấp học bổng sang Hoa Kỳ du học về môn “ Tôn Giáo Ðối Chiếu “ tại đại học Princeton ở tiểu bang New Jersey vào năm 1961. Nhưng nhà sư chỉ được mọi người biết tới vào năm 1964, khi xuất bản cuốn “ Ðạo Phật Ngày Nay “.Từ đó tên tuổi thường được giới văn học Miền Nam, xếp chung trong nhóm “ Thiền Vi “, của các nhà văn, trong phong trào Phật giáo thời đó như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ.. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, hào quang đó đã vụt tắt khỏi bầu trời văn học VN. Nguyên do vì nanh vút và nọc độc của nhà sư hổ mnag, đã công khai, bàng bạc khắp các sáng tác, từ những bài luận thuyết chính trị, tôn giáo cho tới truyện thơ, tuỳ bút.. mà nổi bật nhất vẫn là “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “.Tóm lại, suốt mấy chục năm qua, sư viết nhiều, in nhiều và nói cũng rất hăng. Nhưng tên tuổi của Nhất Hạnh, ngoài sự bị miệng đời bêu rếu, nguyền rủa, mỉa mai về một nhà tu bất hạnh, vô đức.. còn lại chẳng khác nào “ông bình vôi “, sống lâu lên lão làng, cùng với số phận của các tác phẩm đã xuất bản như :Ðể hiểu đạo Phật, tình người, chắp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng hiện (1965), nẻo về cửa ý, vấn đề nhân thức trong duy thức học (1969), Văn Lang dị sử.... qua các bút hiệu Nguyễn Lang, Tâm Quán.. vẫn được nhà xuất bản Lá Bối của chính đương sự, tiếp tục in hay tái bản. Mục đích gởi tới các nhà sách để chưng làm kiểng, trên các bệ gỗ hay như tập sách mỏng “ Bông hồng cài áo “, được dùng một thứ kinh nhật tụng, trong dịp lễ Vu Lan hằng năm ở hải ngoại. Tóm lại hiện tượng múa may quay cuồng của Nhất Hạnh, từ 1965-1975 ở Nam VN cũng như một vài nơi trên thế giới, đã thưc sự kết thúc trong con mắt khinh bỉ và căm ghét của mọi người, từ sau khi Hà Nội nhuôm đỏ VN sau tháng 4-1975.

Tuy xuất thân là mộ tu sĩ Phật giáo nhưng Nhất Hạnh lại bị chi phối bởi những tư tưởng của các triết gia hiện sinh Thiên Chúa Giáo như Garbriel Marcel, Merleau Ponty và nhất là Emmanuel Mounier. Từ khi ra hải ngoại, nhà sư lại nhồi nhét thêm Tư tưởng của Thiền sư Shunryu Suzuki, trong Thiền Phái Nhật Bổn và một mớ giáo lý Phật Giáo nguyên thủy Ấn Ðộ, cộng thêm sách vở của các tông phái Thiền của Việt Nam, làm thành hệ tư tưởng Thiền Nhất Hạnh. Do ở chỗ có quá nhiều tư tưởng của nhiều người pha trộn, mới đầu thấy lạ và hấp dẫn nhưng càng đi sâu vào chi tiết, mới khám phá ra là Nhất Hạnh, đâu có khác gì Vô Thượng Sư Thanh Hải. Cả hai được tiếng thơm, do từ những đệ tử bốc rồi thả vào trong gió, để cho thiên hạ ngửi, mặc kệ khen chê .

3 Nhất Hạnh : Công Cụ Tuyên Truyền Của Việt Cộng.

Từ tháng 5-1966, Nhất Hạnh chính thức bị Chính Phủ VNCH trục xuất ra khỏi nước vì làm tay sai cho VC. Nhà sư xin tị nạn chính trị tại Pháp, lúc đó đang là thiên đàng của đám tướng tá và chính trị lưu vong của Miền Nam VN, gồm có Ðổ Khắc Mai, Vương Văn Ðông, Nguyễn Hữu Khương, Nguyễn Hữu Châu, Trần Ðình Lan, Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh.. được De Gaulle gom lại, lập thanh đạo quân MA, đánh phá VNCH, giúp Bắc Việt để trả thù vặt, về việc TT.Ngô Ðình Diệm, đã đuổi Pháp ra khỏi nước, đồng thời đã hữu sản hóa, tất cả tài sản của thực dân trên đất Việt.

Cũng trong tháng 5-1966, Nhất Hạnh sang nhập đảng phản chiến của Hoa Kỳ lúc đó, qua tố chức “ Fellowship for Reconciliation “ và đại học Cornell tại Nữu Ước. Trong dịp này, ngày 1-6-1966, nhà sư đã lấy 5 điểm đòi hỏi của Mặt Trận GPMN, rồi thêm râu ria vào, và gọi đó là 5 điểm, trong BẢN TUYÊN CÁO của Phật giáo Ấn Quang, trong đó bắt Kỳ từ chức, Mỹ rút quân, ngưng oanh tạc miền bắc và trên hết QLVNCH cũng như Ðồng Minh, phải bó tay chờ chết tại miền Nam, để chờ hòa bình. Về Pháp, năm 1967 nhà sư qua phương tiện và tiền bạc của Hà Nôi, Nhất Hạnh xuất bản “ Hoa sen trong biển lửa “, qua ấn bản Anh Ngữ “ Vietnam, Lotus in a sea of fire, a Buddist Proposal for peace “, trong đó, sư lên án Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ là độc tài, quân phiệt đàn áp Phật Giáo. Rồi xưng tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, còn gọi Mặt Trận GPMN là của người quốc gia, chống nhà Ngô nhưng vẫn không quên cho biết, “ Mặt Trận “do đảng ta lãnh đạo, như lời đồng chí Lê Duẩn, đã tuyên bố chắc nịch trong kỳ đại hội đảng năm 1960.

Bốn mươi năm qua, nhà sư Nhất Hạnh cùng với người nữ phụ tá đắc lực nhất đêm ngày là Sư bà Thích Nữ Chân Không, tên đời là Fleurette Cao Ngọc Phượng, sinh tại Bến Tre, con Cao văn Móc và Elizabeth Bùi Kim Tiền, em ruột ca sĩ Cao Thái. Hiện sư ông, sư bà tạo được một tài sản kếch xù gồm Làng Hồng (Mai), ở Duras phía nam Pháp. Cũng tại đây, sư ông sư bà còn có chùa Pháp Vân ở Le Pey, chùa Từ Nghiêm ở Dieulivol và chùa Cam Lộ ở Meyrac. Tại Hoa Kỳ, sư ông sư bà có Ðạo Tràng Thanh Sơn tại Hartland, Tu viện Rừng Phong ở S.Woodstock nhưng qui mô giàu có hơn hết, vẫn là Tu Viện Lộc Uyển tại Escondido, San Diego, tiểu bang CA.

Tù năm 1942 tới nay, Nhất Hạnh như sống trong nhung lụa bạc tiền, dù thực chất là đi tu nhưng còn hơn cả triệu triệu người VN khác, trong lúc quê hương đang chiến tranh. Ði tu mà được học hành tới đại học, rồi lại được ngay TT. Ngô Ðình Diệm, chọn cho du học Mỹ. Rồi từ năm 1966 tới nay, nhà sư chỉ sống ở ngoại quốc, hết thuyết giảng tới thiền, quẩn quanh trong các làng Thiền, từ Pháp tới Mỹ, ăn chay nhưng ăn ngon, mặc nâu sồng nhưng mặc sướng và sang trọng. Như vậy, làm sao nhà sư chẳng quên hết chính đạo, để vọng ngữ, toàn tuyên bố và ăn nói bậy bạ trước đám đông ?

Là con nhà Phật, ai cũng biết minh triết của đạo, vỏn vẹn chỉ bao gồm bốn chữ khổ trong chân lý của Tứ Diệu Ðế. Ðó cũng là con đường tu trì của người Phật tử luôn biết sinh, bệnh và già đều là nỗi khổ của thế nhân, không ai có thể tránh được. Nhưng còn nỗi khổ vì tham sân si, ảo vọng, vô thường.. do chính tâm con người tạo ra, nếu không đi vào con đường bát chánh ( chánh kiến, chánh ý, chánh ngữ, chánh hành, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niêm và chánh định). Ngoài ra còn phải tuân theo ngũ giới như sát, dâm, tửu, đạo và ngoa ngôn. Như vậy nếu nhìn vào qui luật và giới cấm của nhà Phật, thì rõ ràng nhà sư Nhất Hạnh, từ đầu tới cuối đã phạm phải quá nhiều tội lỗi, đối với Phật Trời và con người, thì làm sao còn chỗ đứng trong cửa chùa, dù chỉ là một tín đồ bình thường, nói chi tới chuyện tự xưng là thiền sư, cao tăng hay Phật sống.

Giáo lý của Phật Giáo, luôn đối chọi với lý thuyết của Mác-Lênin, lấy vật chất làm tiêu đề và coi thuyết duy vật như một nền tảng, để đấu tranh giai cấp xã hội, triệt hạ mọi tôn giáo và hủy diệt phần tâm linh của con người. Hơn 2500 năm về trước, Ðức Phật Tổ Nhu Lai đã từ bỏ cuộc sống đế vương, cùng đời chịu chung niềm tân khổ. Ðó là một cuộc dấn thân trọn vẹn và cao cả, công khai chống lại chế độ phân chia giai cấp của đạo Bà La Môn cũng như sự tham ô tha hóa của tầng lớp tăng lữ và trên hết là những nghi lễ rườm rà đạo đức giả .

Cũng từ đó, đã có không biết bao nhiêu người noi gương dân thần cưú đời, cứu chúng sinh của Phật Tổ. Ðó là Thánh Ghandi, một đời đấu tranh không ngừng nghĩ, quyết tâm phá bỏ cho được xiềng xích, ràng buộc con người trong sự phân chia giai cấp. Kế tới là Ðúc Ðạt La Lạt Ma, qua hình ảnh chiếc áo cà sa màu vàng, đi mòn khắp các nẻo đường thế giới, để đòi lại đất nước và quyền sống cho dân tộc Tây Tạng, đang bị Trung Cộng đô hộ. Tại xã nghĩa thiên đường VN, sau ngày 30-4-1975, cũng đã có không biết bao nhiêu tăng ni Phật tử, những Tâm Châu, Huyền Quang, Quảng Ðộ, Tuệ Sỹ.. đem sinh mạng của mình ra, để thách đố với súng đạn và tù gông của VC, đòi quyến làm người, đòi tự do tín ngưỡng cho dân tộc, cũng như sự tồn vong của đất nước đang bị đảng cầm quyền đem dâng bán cho Tàu.

Cọng sản coi tôn giáo và con người là kẻ thù, rốt cục đã bị chính con người và tôn giáo hủy diệt tại Liên Xô, Ðông Âu và nhiều nơi khác trên thế giới. Tại Trung Cộng, Bắc Hàn, Việt Nam và Cu Ba, tôn giáo và con người, đang tiếp tục đấu tranh, để xóa bỏ hẳn một chủ nghĩa bạo tàn, dã mang, phi cầm phi thú, có một không hai, trong lịch sử của nhân loại. Thích Nhất Hạnh luôn tự xưng là đệ tử nhà Phật, nhưng lại đứng chung trong hàng ngủ của đảng cọng sản, để chống lại Phật giáo và dân tộc mình. Bởi vậy, suốt cuộc đời tu và hành đạo, nhà sư không bao giờ chịu hay nói đúng hơn là dám công khai đi trên con đường chánh đạo của một tu sĩ, mà chỉ vọng ngữ, loan ngôn, làm công cụ tuyên truyền cho đảng mà thôi.

Không phải tình cờ trong ngày 25-9-2001, khi mà Hoa Kỳ và cả thế giới đang khựng điếng, đau khổ vì bị khủng bố giết hại nhiều ngan người tại New York. Nhất Hạnh cũng là con người, lại là một nhà tu, lẽ ra phải tụng kinh sám hối trước bàn Phật, để cùng chia sẻ niềm đau và tiếng khóc của thế nhân, trước nỗi khổ sanh ly tử biệt, cho dù họ mới đây đã là kẻ thù của chính mình. Nhưng vì mang bản chất cầm thú của một tên cán bộ trí vận cọng sản, coi giết người là phương tiện để đạt cứu cánh, nên ác tăng đã làm ngược lại nhân tính của con người. Ðể chống lại kế hoạch của nước Mỹ va thế giới, đang tiến hành tiêu diệt khủng bố, nhà sư Nhất Hạnh bỏ ra 45.000 US, để đăng bài viết nhiều kỳ, trên tờ New York Times ( nguyên trang A5 và A22), vừa quảng cáo cho tên tuổi mình, đồng thời bịa chuyện, bịp xạo, mục đích làm cho người Mỹ có một cái nhìn không tốt, đối với cộng đồng người Việt tị nạn, đang sống nhờ trên đất nước họ. Một điều nực cười khác, là lúc quân đôi Hoa Kỳ và liên quân, đang tấn công Taliban để vây bắt tên trùm khủng bố Bin Laden, đang ở Afghanistan, thì chỉ có VC và Thích Nhất Hạnh, cùng lúc la làng, phản đối, với luận điệu thật là trùng ý nhịp nhàng.

Ðọc trên trang web :www.plumvillage.org, có bài phỏng vấn của Anne A Simpkinson, qua tựa đề “ What I would say to Osama Bin Laden “, được sư ông trả lời như sau : “..When We learned of the bombing of the Ben Tre village in Vietnam. Where 300.000 homes were destroyed, and the pilots told journalists that they had destroyed the village in order to save it. I was shoked, and (racked) with anger and grief.” Hỡi ơi ngao ngán thật cho người thiền sư, chỉ mới có nghe người khác nói là Tết Mậu Thân (1968), có vài du kích bắn vu vơ, thì lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá cả tỉnh Bến Tre, làm hư hại 300.000 căn nhà. Cũng vì xạo bịp quá mức, nên Nhất Hạnh cũng như nữ ký giả tờ NY.Times, được đồng bào Bến Tre và Hội ký giả VN tại Nam CA, gửi thư yêu cầu tới họp báo để làm sáng tỏ vấn đề. Tiếc thay lần đó Nhất Hạnh bận thuyết giảng và thọ giới tiếp hiện với nữ đệ tử Thích Nữ Chân không, nên vắng mặt.

Thật sự những lời của sư ông Nhất Hạnh, khi nói Mỹ giội bom phá nát tỉnh Bến Tre, làm hư 300.000 căn nhà của đồng bào, là hoàn toàn nói láo và xảo quyệt, làm xấu hổ lây tới những vị cao tăng, thánh tăng Phật Giáo đang có mặt tại hải ngoại. Nhưng biết làm gì hơn, trước một con người đã không còn nhân tính ?

Bên Tre hay Kiến Hòa, thời VNCH thuộc vùng 4 CT, diện tích 2880 km2, đất đai phì nhiêu vì được tạo thành bởi phù sa, của bốn nhánh sông Tiền Giang là sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Trước năm 1975, tỉnh có dân số chừng 300.000 người, riêng tỉnh lỵ Trúc Giang có 50.000 người. Tuy mang tiếng là đất đồng khởi, thành đồng nhưng tình hình khắp tỉnh tương đối rất an ninh, ngoại trừ hai quận Mõ Cầy và Giòng Trôm vì hai điạ phương này có nhiều người tâp kết.


Theo kế hoạch tổng công kích, VC đã đồng loạt tấn công tất cả lãnh thổ VNCH, kể cả thủ đô Sài Gòn, nhân dịp hưu chiến vào những ngày Tết Mậu Thân 1968. Tại vùng 4 chiến thuât, tỉnh Kiến Hòa bị thiệt hại nặng, khi VC mở cuộc tấn công vào Thị X4 Trúc Giang, vào lúc 3 giờ sáng đêm mồng 2 rạng ngày mùng 3 Tết.

Căn cứ vào tài liệu hiện hành, ta biết tại Kiến Hòa, VC chỉ chiếm được các khu vực dân sự, thương mại. Riêng Ty Sở và Cơ Quan Quân Sự vẫn nằm trong sự kiểm soát của QLVNCH. Ðêm mồng hai Tết, người ta không biết được là VC đã vào thị xã bằng lối nào và lúc mấy giờ. Vì tới 4 giờ sáng ngày mồng ba Tết, tiếng súng giao tranh mới thật sự, nổ tại vị trí đóng quân của Pháo Ðội, đóng trong Sân Vận Ðộng. Tiếp theo VC đồng loạt pháo kích vào Tòa Hành Chánh và Bản Doanh của Trung Ðoàn 10 /SD7BB rất ác liệt, nhưng không làm gì được, vì nơi nào trong tỉnh cũng được phòng thủ rất kiên cố. Do trên sự liên lạc truyền tin, giữa Tỉnh Trưởng Kiến Hòa là Trung Tá Huỳnh văn Dư và Trung Tá Nguyễn Tường Diễn, Trung Ðoàn trưởng TRD10/SD7BB rất khả quan. Theo đó, Trung Ðoàn đã ra lệnh cho 2 TD3/10 và 4/10 đang hành quân gần đó, phải về giải toả gấp Thị Xã Trúc Giang, vào sáng mùng ba Tết.

Lúc 5 giờ sáng mồng ba Tết, Trung Tá Diễn vì lo sợ cho Pháo Ðội đóng tại Sân Vận Ðộng, nên tự mình dẩn quân đi tiếp viện, nên ông đã bị VC phục kích chết. Tuy nhiền vào lúc 10 giờ sáng ngày mồng ba Tết, hai Tiểu Ðoàn 3 và 4/10 đã vào thành phố, thanh toán hết VC tại các khu vực Hành Chánh, Tiểu Khu và Bệnh Viện Thị Xã. Nhưng trong khu vực thương mại, VC chiếm các cao ốc để cố thủ với hỏa lực rất mạnh, ngoại trừ Ðài Phát Thanh vẫn còn, vì sự chống trả của một Tiểu Ðội phòng thủ.

Buổi chiều cùng ngày, Tỉnh được hai Tiểu Ðoàn thuộc Lữ Ðoàn 2, SÐBB Hoa Kỳ đến tăng viện. Liên quân Việt-Mỹ đã mở các cuộc hành quân giải tỏa và đến ngày mồng bốn Tết, VC chém vè, bỏ lại tại trận điạ 300 xác chết và hơn 100 vũ khí đủ loại. Phía VNCH chết và bị thương 100 người. Riêng đồng bào Bến Tre có 90 chết, hơn 50 % nhà cửa trong thi xã bị hư hại, chợ Trúc Giang bị phá hủy hoàn toòn.

Tham dự trận tấn công này, VC đã sử dụng quân số gần một Sư Ðoàn (2000 người), gồm 2 Tiểu Ðoàn tân lập 3 và 4, hai Ðại Ðội Ðịa Phương , nhiều Trung Ðội Du Kích và Dân Quân. Trận chiến ác liệt vô cùng, vậy mà sư ông Nhất Hạnh dám loạn ngôn, với báo chí quốc tế, là chỉ có vài tiếng súng bắn vu vơ của du kích, thì Mỹ đã đem bom tới dội, làm nát tỉnh Bến Tre, khiến 300.000 của dân bị hủy diệt.

Trước năm 1975, Nhất Hạnh rầm rộ phản chiến, ngụy hòa, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam. Nay Nhất Hạnh lại về VN, để nối tiếp sứ mạng của một điêp viên trí vận tôn giáo, giúp Hà Nội có cớ bào chữa với thế giới, nhất là Hoa Kỳ, rằng Xã nghĩa có tự do tôn giáo, còn những thành phần Phật giáo đang tranh đấu trong nước, chỉ làm loạn mà thôi.

Do trên cũng đừng có lạ, khi thấy Ðảng đối xử thật là hết mực với sư ông, sư bà và các sư tăng chúng, từ khi vừa bước chân xuống sân bay Nội Bài ngày 12-01-2005. Ngoài việc huy động cả binh đoàn sư ni quốc doanh ra tiếp đón, có hoa rắc cho thơm mặt, có phóng viên tới phỏng vấn rồi phóng ngay lên ngay mạng quốc tế, để người Việt tị nạn ta hết hồn. Sư cũng được đảng cho phép đi thuyết giảng khắp nơi và được tiếp xúc với cả mọi người, kể cả báo chí ngoại quốc.

Lần trước Nguyễn Cao Kỳ về VN bị đồng bào chửi rủa thậm tê, dù thực chất là hắn chỉ về để làm Má Chín kiếm cơm. Lần này Nhất Hạnh cũng về VN, để truyền pháp trong thời gian ba tháng, nhưng dư luận lại im re. Thật sự dư luận không đề cập tới hay chỉ làm công việc thông tin, là vì đối với nhà sư này, ai cũng đã chạy mặt vì sự trơ trẽn, có một không hai trên trái đât, nên đâu có ai thèm lưu ý tới chuyện ruồi bu của cao tăng, ngoài cái đám đệ tử no cơm ấm cật lại thiền. Hơn nửa, ai cũng biết tại Xã Nghĩa mấy năm qua, đảng đã học theo sách lươc của thực dân Pháp, dùng đồng bóng vàng mã sự mê tín dị đoan để hủ hóa đạo Phật. Ðồng thời mở nhiều Trung Tâm Thiền, để mọi người ham nhập định, mà không còn chống đối Ðảng. Dù khắp VN ngày nay đã có nhiều chùa, trung tâm thiền nhưng nếu cho sư ông sư bà Nhất Hạnh, mở thêm vài nơi nửa, cũng đâu có hại gì cho Phật giáo quốc doanh. Mấy năm trước Thích Thanh Từ được đảng cho công du ra hải ngoại truyền thiền, thì nay Nhất Hạnh về giao lưu, quả là ngón đòn độc, chỉ có VC mới nghĩ tới. Nhưng độc thì có độc mà ngu vẫn ngu, vì hiện nay đối với người VN, những tên Kỳ, Nhất Hạnh.. chỉ còn làm hề trên sân khấu đời, cho thiên hạ bật cười chút chút, sau một ngày lao động chết xác, thế thôi !

Hãy học gương của Giám Mục Ngô Ðình Thục, trước phút lìa đời, đã biết ăn năn sám hối, nên được Tòa Thánh hồi phục lại chức sắc cũng như tình cảm, nên người đã thanh thản trở về với cát bụi. Nhà sư Nhất Hạnh, không lẽ nhờ thiền mà lột da sống đời như Bàn Cỗ, Lã Vọng. Thôi hãy buông con dao đồ tể, từ bỏ thiên đường VC, mà trở về với chánh đạo. Ngươi VN vốn hiền hòa nhân ái, Phật giáo cũng hỉ xả từ bi, sẽ mở rộng vòng tay đón nhận một kẻ lạc lối lầm đường, khi đã biết ăn năn hối ngộ.

Xóm Cồn

Tháng 1-2005

HỒ ÐINH



No comments: