Saturday, December 31, 2011

Nguyễn đăng Trình- TẬP ĐÒAN SƯ CÁN BỘ - SƯ CHÍNH ỦY ẤN QUANG PHÁ NƯỚC


 From: CSQG <phudacuy@yahoo.com>
Date: 2011/12/30
Subject: " CHÍCH KIẾM CHẢY MÁU- VIẾT HUYẾT THƯ ? " / Fw: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] [BAO QUOC KIEM] - HUYET THU NGAY TET
To: thaoluan9@yahoogroups.comchinhluan@yahoogroups.comChinhNghiaViet@yahoogroups.comdiendanviahe@yahoogroups.com



 
  Nói gì thì nói, dù cố hết sức ngụy biện để bảo vệ, che dỡ cho đám "Sư" việt-cộng nhưng tự trong đáy lòng, Thầy Đội Trương-Khôi Bảo-Quốc Kiếm vẫn không chối bỏ được sự thật nên phải xác nhận việc việt-cộng đã tàn sát  hết sực man rợ đồng bào VN tại Huế khi việt-cộng chiếm Thành phố nầy chỉ trong 25 ngày mà đã giết hơn Năm Ngàn thường dân vô tội (chưa kể đến hàng chục ngàn Quân-Cán-Cảnh VNCH)
(Trích nguyên văn của BQK) :

< Mậu Thân 1968.
 Tại thời điểm ấy một cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đã xảy ra với đồng bào Việt nam tại Huế. Hai mươi lăm ngày đêm Cộng sản chiếm Thành phố Huế đã gây ra một cuộc huỷ diệt Huế từ lâu đài thành quách, cây cỏ cho đến nhân mạng. Người dân miền Nam ai cũng oán hận CSVN >


--- On Fri, 12/30/11, Truong Vu <vuhtruong@yahoo.com> wrote:
 rom: Truong Vu <vuhtruong@yahoo.com>
Subject: Re: [Thaoluan9] " CHÍCH KIẾM CHẢY MÁU- VIẾT HUYẾT THƯ ? " / Fw: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] [BAO QUOC KIEM] - HUYET THU NGAY TET
To: "thaoluan9@yahoogroups.com" <thaoluan9@yahoogroups.com>, "SUTTON VO" <cbqlvnch@yahoo.com>, "Y Le" <ivanleee4@yahoo.com>
Date: Friday, December 30, 2011, 10:58 AM

 
Tôi nghĩ ông Võ văn Sĩ lầm người rồi.
Cái thằng độn Cao Tâm con ông Cao Thành này là một thằng tâm thần.
Bố nó đẻ nó không đui không điếc, nhưng nay nó đui, nó điếc vì háo danh
háo cái hàm rỗng "nhà báo tự do" . Hãy mở mắt to ra mà nhìn bố Hùng nhà mày ở trong BĐD và Cẩm Vân cũng là tay mặt tay trái của Nguyễn ngọc Tiên là mạnh mồm trong việc đòi biểu tình và chống cảnh sát San Jose nhất. Đám trẻ chỉ là những người ăn theo thôi. Sau này thấy bị hố thì 
đám BĐD tháo chạy bỏ tụi nhỏ ở lại và đổ vạ cho chúng để chạy tội. Một bọn hèn mà mang danh ban đại diện CĐ hèn chịu hết nổi.
Những tài liệu còn đó, băng quay thu hình còn đó chối cãi đi đâu được !!
Bất cứ ai muốn có video để coi cho rõ làm tài liệu xin L/L với chúng tôi và chịu cước phí chúng tôi có thể cung cấp.
Xin lỗi cô Tình và ô Ý tôi phải nhắc tên ông cụ cô để thằng anh tâm thần của cô nó biết chính xác là tôi nhắc nó. Nó muốn chọc tôi thì tôi sẽ chọc lại 
đừng có trách oán.
Vũ huynh Trưởng.
--------------
From: SUTTON VO <cbqlvnch@yahoo.com>
To: "nvlong@sbcglobal.net" <nvlong@sbcglobal.net>
Cc: "thaoluan9@yahoogroups.com" <thaoluan9@yahoogroups.com>; "diendanviahe@yahoogroups.com" <diendanviahe@yahoogroups.com>; "PhoNang@yahoogroups.com" <PhoNang@yahoogroups.com>
Sent: Friday, December 30, 2011 9:42 AM
Subject: Re: [Thaoluan9] " CHÍCH KIẾM CHẢY MÁU- VIẾT HUYẾT THƯ ? " / Fw: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] [BAO QUOC KIEM] - HUYET THU NGAY TET

 
Thân gởi anh Tâm Cao (Nguyễn Đăng Trình),
Trước tiên tôi xin chúc anh được dồi dào sức khoẻ nhân dịp cuối năm cũ 2011 và đầu năm mới 2012.
Tôi cũng vừa đọc bài của Bảo Quốc Kiếm với đề tựa gọi là "Huyết Thư Ngày Tết". Tôi đã xếp xó nó ngay vào hồ sơ "Tuyên Vận Việt Cộng" mà không cần bận tâm đọc lại.
Nói như thế để anh biết nhận xét của tôi đối với cái "HTNT" của BQK  chỉ là một cố gắng gượng gạo để chạy tội cho đảng cướp Việt Cộng mà thôi.
Với bài viết ngắn của ông Thiên (hay Thiện ?) Nguyễn, tôi cho rằng lập luận của ông nầy rất vững chắc, hợp tình hợp lý và đầy đủ để nói lên cái lối ngụy biện nhằm tuyên truyền chạy tội cho Việt Cộng của Bảo Quốc Kiếm rồi. Anh không cần "động não" để mất công với cái đám cuồng tín của các "cha", các "thầy" đã dâng Miền Nam Tự Do của chúng ta cho bọn cướp Việt Cộng làm gì nữa.
Tội ác phản dân hại nước của các sư, các cha theo VC (hay thân Cộng) đã lộ rõ như ban ngày sau biến cố 30-4-75.
Đối với người dân Việt yêu nước chân chính, không phân biệt tôn giáo, đảng phái chính trị đang lưu vong bất đắc dĩ hay còn nằm trong bàn tay cai trị tàn độc của đảng cướp Cộng Sản ở trong nước thì những kẻ nào còn dùng "cái áo tu sĩ" để "chống Cộng" không những đã chẳng còn "ăn khách" chút nào mà trái lại, còn gợi nhớ cái tội ác phản dân hại nước của cái đám "sư, cha" thuở nào trước 1975 mà thôi. Chúng ta cần phải cảnh giác cao về mọi hoạt động gọi là "chống Cộng" của những kẻ đó. Chúng ta phải đánh một cái dấu HỎI  (?) thật lớn trước khi lên tiếng ủng hộ hay mở hầu bao để "ủng hộ" họ.
Vài hàng chia xẽ với anh.
Chúc anh lúc nào cũng giữ vững lập trường của một chiến sĩ Quốc Gia chống Cộng chân chính để chiến đấu chống lũ quốc thù CS trên mặt trận mới bằng ngòi bút.
Chúng ta rất cần nhiều người như Liên Thành nữa để cuộc chiến chống lại quốc thù CSVN của toàn dân Việt mau giành được thắng lợi cuối cùng. 
Thân chào anh,
Người lính già gác giặc Cộng trên Internet.
Võ Văn Sĩ     


From: TAM CAO <nvlong@sbcglobal.net>
To: chinhluan@yahoogroups.comchinhnghia@yahoogroups.comchinhnghiaviet@yahoogroups.com;diendan_binhluan@egroups.comdiendanchinhtri@yahoogroups.com;diendancongluan@yahoogroups.comDienDanDanToc@yahoogroups.com;diendandautranh@yahoogroups.comdiendanquocgia@yahoogroups.com;diendantintuc@yahoogroups.comdiendantranhluan@yahoogroups.com;diendanviahe@yahoogroups.comgoidan@yahoogroups.comlittle-saigon@yahoogroups.com;minhbachhoa@yahoogroups.comnguoivietquocgia@yahoogroups.comNuoc_VIET@yahoogroups.com;phonang@yahoogroups.com; quynh thi <vnnb@vietnamdaily.com>; tapthechiensivnch@yahoogroups.com;thaoluan9@yahoogroups.comToiAcDangCongSanVietNam@yahoogroups.com;VietNamCongHoa@yahoogroups.comVN-Express@yahoogroups.comVN-News@yahoogroups.com;vn-politics@yahoogroups.comvn-press@yahoogroups.comvn-religion@yahoogroups.comVN-Talks@yahoogroups.comVN-Talksoup@yahoogroups.comVN-Today@yahoogroups.com;vnnb1@yahoo.comXaTac@googlegroups.com
Sent: Friday, December 30, 2011 12:40 AM
Subject: [Thaoluan9] " CHÍCH KIẾM CHẢY MÁU- VIẾT HUYẾT THƯ ? " / Fw: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] [BAO QUOC KIEM] - HUYET THU NGAY TET

 
         
 
        " CHÍCH KIẾM CHẢY MÁU- VIẾT HUYẾT THƯ ? "
 
 
Người buồn ngủ khi đọc các bài víết của Bảo quốc Kiếm ( nói ngắn lại là Song Kiếm - SK- vs Tuệ Kiếm -TK- ) thì cứ nghĩ rằng SK nầy đang đóng vai Mạc đăng Dung thời mạt pháp, há hốc mồm, bạnh môi, vung lưỡng kiếm chém lọan cào cào để bảo vệ Việt Nam Quốc Tự ( chứ không phải giữ an tòan cho quốc gia hình chữ S đâu)......bèn gật đầu lia lịa mà rằng .....tay nầy " kiếm cuốc".
 
Nhưng khi bị " lính thú" cầm gậy thọc vào đùi thì mới mở mắt ra....và tỉnh ngộ, như SK và tòan tập đòan lãnh chúa Ấn Quang từng giác ngộ....cách mạng máu mà Dương văn Minh và các mạng Tình báo chiến lược Cộng sản đã mang lại cho đám nầy một ngày Đồng khởi thứ hai 1-11-1963 ( sau trận Đồng Khởi của Nguyễn thị Định tại huyện Mỏ cày ),.....
 
Cách đây không lâu, vì quá bận việc, tôi cũng đã cố gắng gõ đôi dòng nhắn nhủ đảng Cs thông qua đám cán bộ tình báo chiến lược CS hiện đang trà trộn tại San Jose nầy rằng :" CS Hà nội đừng quá lo nghị quyết 36 khó thành công như ý BCT/CS tại hải ngọai, mà hãy chú tâm vào biên cương lãnh thổ của tiền nhân đang bị chính CS dâng hiến trong canh bạc bịp với Hán triều....còn hải ngọai đã có một số lãnh chúa tự nguyện xung phong lo cho đảng rồi, nầy nhé "
 
  * Du sinh Hồ quang Phương của đảng bị Cảnh sát SJ " tẩm quất " tận tình, đã 3 tháng trôi qua trong yên lặng, mặc dầu đã được báo cáo cho Tòa Lãnh Sự quán VC tại SF theo hệ thống Du Sinh....nhưng vì mãi lo ăn nhậu, tìm kế rửa tiền tại San Jose, nên L.s quán Vc cho chìm xuồng, trái lại, vì cần gỡ thế bí, sau khi đánh hơi được từ báo chí Mỹ, Liên Đòan Cử Tri Người Việt Bắc California lập tức kéo quân đi đánh hôi vụ Hồ q Phương, đáng tiếc, vì hăng tiết vịt, lại là thứ ngựa non háu đá, ngựa già háo danh khát quyền, " ném chuột chưa chết, lọ sành vỡ tan " ( HQP đã lãnh một số tiền bồi thường gần 100,000 mỹ kim từ thành Phố SJ, chẳng biết hắn có nhớ công ơn gào thét hăng say, họp hành tối mắt, nặn khô não bộ, bỏ cả vợ con....để bảo vệ " chất xám cho đảng CS " mà người Dân Việt ở đây ví von rằng, chúng nó " Chống Mỹ cứu Đảng" dùm cho CS -  mà bố thí cho tí nhau gọi là " công hãn mã" không), trong khi đó, HQP vẫn thỏai mái ngồi uống cà phê nhìn LĐCT tấn công BĐD/CĐ, chỉ vì BĐD đã không " cùng chúng cháu hành quân" chống cảnh sát Mỹ bảo vệ " tài nguyên ưu tú của đảng ", không khác gì bà vợ hung hăng đòi ly dị, chia gia tài, chia con...chỉ vì thằng hàng xóm mê mẩn da thịt nõn nà của cô vợ " ưa làm chồng ", nên đã tương kế tựu kế, bịa điều xúi dại để  " kích thích tự ái làm chồng ", và nàng sẽ làm cuộc cách mạng....về với ta ! ! !  và LĐCT phất lên như diều gặp cơn..... lốc xóay Tonardo, và dĩ nhiên, hậu quả của lốc xóay thì " nhà cộng đồng" cũng bay tung tóe, " con cộng đồng" cũng đôi ngả chia lìa, trận " nội chiến " thứ hai nầy dĩ nhiên phải có sự tham gia cúa các " cố vấn chiến tranh" của triều đình Singleton năm 1986, đó là các " chí rận lê văn ý và vũ huynh trưởng " ( lần nầy thiếu cố vấn tối cao, vì ông nầy đã hồi tâm tỉnh ngộ và ...đi TU - lịch sử tái diễn đấy, Hùynh tấn Mẫm - SV trường Y/ VHT- sinh viên San jose, Lê văn Nuôi- học sinh Cao Thắng, Lê văn Ý- học sinh...ba làng) , và cũng nhờ cơn lốc dữ nầy, mà nhiều mặt nạ thằng bờm đã lộ diện, kiến thức và khả năng ảo của một số tai to mặt lớn đã rơi rụng, gương mặt ngố xuất hiện để phơi bày cái hèn mạt của chúng, cái bất lương thủ đọan đê hèn của chúng cho đồng hương Việt " chiêm ngưỡng" ( nào là Luật thằng, Giáo thằng, Dân biểu xúi dại, Nghị gật ăn tiền, Sĩ thằng súng ngắn bắn chó (hà) híêp Dân, Lương Tâm Giu - đa cắt ruột ăn thề, sẽ " củi đậu nấu đậu" ....), và......Cộng Đồng nát như tương, Cs vỗ tay khen thưởng, LĐCT hả hê cười....chiến thắng.
 
 * Còn  BQK là đầu sỏ gào thét,  bênh vực cho số lượng xác lương dân bị Vc giết chết " không đúng sự thật " như ông Liên Thành viết ( phải ít hơn như thế nhiều lắmý SK nói rằng, ông LT vu khống cho VC quá ác, giết người không ....chịu đếm số lượng chỉ tiêu mà quan thầy đã cho), " và số mấy ngàn xác chết do Vc giết" thặng dư " đó, nay nó ở đâu.....xin ông LT chỉ dùm để.....đảng làm tròn nghĩa vụ " xúi dại - sinh Bắc tử Nam " , cho lương tâm rắn rết của đảng không phải cấu xé tội giết người như giết ....kiến ".
 
Viết đến đây, tôi chợt nhớ có lần SK chất vấn rằng " LT xin mở phiên Tòa truy tố ai ?...." và tôi đã thẳng thắn trả lời cho ông bạn hỏi cắc cớ tôi rằng : " BQK chứ ai vào đây ?", ông bạn há hốc mồm kinh ngạc, tôi bình tĩnh nói :" Đúng thế, tôi không đùa với người lớn, xin cho tôi thời gian ", nói vậy mà đã lâu, giờ mới có tí rảnh gõ đôi dòng thưa trước, nhưng không chỉ BQK mà là cả TẬP ĐÒAN SƯ CÁN BỘ - SƯ CHÍNH ỦY ẤN QUANG PHÁ NƯỚC , xin đừng nóng vội mà suy diễn lung tung, cho rằng tôi chống Phật Giáo nhé. tôi đã từng bám quanh sườn bảo tháp ( chưa hòan tất việc xây dựng ) thuộc Viện Hóa Đạo để nghe Thuyết Pháp hằng đêm, mục đích là theo dõi bước chân giao liên biệt động thành Cs....và năm 1995 tôi cũng đã bị một số cuồng tín tại San jose hăm dọa khi tôi viết bài " Vũng lầy Tôn Giáo Vận trong cơn lốc quyền lực Chính trị "( ai không biết xin hỏi ông Võ văn Sỷ ở san jose ), phần I bàn về các họat động phá họai VNCH của đám Linh Quy Đỏ ( mà ở hải ngọai gọi là L.M quốc doanh ) thì chúng đọc thích thú, sang phần II lột trần những thủ thuật của Tập Đòan Ấn Quang phá nước, thì chúng nổi điên hăm dọa tôi, trong đó có một chi tiết " bạo phổi", rằng " Thượng Tọa Thích hộ Giác bị ông Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc phòng ký giấy sa thải khỏi Nha Tuyên Úy Phật giáo với lý do :" Vô bưng họp với Cs nhiều lần..."  tôi chỉ làm công việc trình bầy lại những sự kiện lich sử, như những tang chứng buộc tội, không hận thù thương ghét, không phe phái nước - xôi, cũng chỉ vì lợi ích cho Dân Tộc và trách nhiệm với đất nước mà thôi, chẳng lẽ tôi ôm súng gác giặc nơi tuyến đầu lửa đạn, lắm khi phải cận chiến, thu hết sức bình sinh liều chết để vặn cổ thằng giặc Cộng để rồi hậu phương no cơm rững mỡ góp tay Cs nằm vùng, đảo chánh, biểu tình phá họai hậu phương. Nếu tôi có mặt trên chuyến bay cùng với Cán bộ Thích trí Quang, thì hắn đã vỡ óc từ lâu, nay hắn đang " phải  sống" để làm chứng, như xác Hồ không được chôn cũng cùng mục đích.
 
Thân phận của cá 3 mang như tướng tình báo chiến lược xuất sắc VC Phạm xuân Ẩn cũng phải chết rũ âm thầm, nói chi đến Cán bộ Thích trí Quang, có khác chăng là " hết mùa săn thì giết chó", cướp xong miền Nam, cỡ Vũ ngọc Nhạ cũng ném vào thùng rác.....nhưng cuộc chiến ý thức hệ chưa xong, Phật Giáo chưa hòan tòan bị CS nuốt sạch, thì Thích trí Quang vẫn phải sống, giam lỏng chỉ là hình thức bên ngòai lòe thiên hạ, nhưng thực chất bên trong, con dao, tô máu và sát lệnh  - ngày nào Thích trí Quang ra lệnh cho bọn Biệt động thành Cs ( Trần bạch Đằng chỉ huy ) đưa vào Chánh Điện của Việt Nam Quốc Tự để răn đe Thượng tọa Thích tâm Châu ( lãnh đạo Phật Giáo chính thống ) - đang là bài kinh tụng niệm sám hối hàng ngày, hình ảnh đó chờn vờn trong óc, không thể an tâm Thiền và phân thân được, đó cũng là luật NHÂN - QUẢ của Phật Giáo vậy.
 
Nay SK chích kiếm lấy máu ( sắt hay inox ? ) để viết lảm nhảm như kẻ mộng du, như vua cỏ trên sân khấu cải lương hồ quảng, chẳng ai đọc, ngọai trừ vài người như tôi đọc để hiểu thêm " độ đậm đặc của nọc rắn" mà pha chế thuốc khử nọc, thế thôi.
 
Tôi không hận thù gì với ông BQK cũng như LĐCT, nhưng chỉ vì có khả năng pha chế dung dịch hủy diệt nọc độc, mà phải liều mình. mất họ hàng thân thuộc,bạn bè cũng chẳng sao ( cứ coi như đã chết trên đường hành quân ở Cao nguyên đi ), miễn là tìm được một thứ gì đó hữu ích như Sở Vệ Sinh Dịch Tả, như Sở Thú y với bệnh chó dại vậy là tôi mãn nguyện rồi.
 

 Nguyễn đăng Trình 
---------------
rom: Thien Nuguyen <thien_nguyen46@y7mail.com>
Subject: [ChinhNghiaViet] Re: [PhungSuXaHoi] [BAO QUOC KIEM] - HUYET THU NGAY TET
To: "PhungSuXaHoi@yahoogroups.com" <PhungSuXaHoi@yahoogroups.com>, "ChinhNghiaViet@yahoogroups.com" <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>, "Nuoc_VIET@yahoogroups.com" <Nuoc_VIET@yahoogroups.com>, "btgvqhvn-2@yahoogroups.com" <btgvqhvn-2@yahoogroups.com>, "trantu60@yahoo.com" <trantu60@yahoo.com>, "tamxuanhuy@yahoo.com" <tamxuanhuy@yahoo.com>, "tuvienvienquang@gmail.com" <tuvienvienquang@gmail.com>, "tapchidatme@aol.com" <tapchidatme@aol.com>
Cc: "quockiemb@yahoo.com" <quockiemb@yahoo.com>, "pham_hoaiviet@hotmail.com" <pham_hoaiviet@hotmail.com>
Date: Thursday, December 29, 2011, 7:12 PM

 
Ôi chao ôi, Bảo Quốc Kiếm này thiệt là ấu trĩ quá đi thôi!!!

Ông Liên Thành biết bao nhiêu thì nói bấy nhiêu chứ! Chẳng nhẽ ông Liên Thành biết một mà nói ra mười sao? Ông Liên Thành đâu có giết người đâu mà biết chính xác là bao nhiêu người. Đây là Việt Cộng Miền Nam và Việt Cộng Miền bắc giết chết người ở Huế. Ông Bảo Quốc Kiếm muốn biết chính xác mấy ngàn người thì hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang và nhiều tên Việt Cộng Miền Nam nữa, hay hỏi mấy thằng Việt Cộng Miền Bắc nhúng tay trong vụ thảm sát đồng bào ở Huế thì rõ chính xác. Có ngon thì về hỏi Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh thì rõ mọi chuyện.

Còn nữa, ông hỏi mấy Quân, Công, Cán, đảng phái bị Việt Cộng giết sao không thấy ông Liên Thành nhắc đến. Bộ ông không biết sao? Khi 2 bên đánh nhau thì những thành phần này chạm súng với nhau, thì sự chém giết  nhau là chuyện đương nhiên phải xảy ra, không ai có tội trong vấn đề đánh nhau như vậy. Ngay cả vấn đề tôn giáo như đạo Thiên Chúa và đạo Phật cũng có luật cấm giết người nhưng mà Giáo Hội vẫn cho phép những quân nhân, Công, cán, chính được phép làm chuyện này, bởi vì an nguy cho dân chúng, đất nước và để tự vệ bản thân. Còn người dân thường thì họ đâu có tội tình gì, mà bọn Việt Cộng ra tay thảm sát họ? Ông Liên Thành đưa con số 5,327 nạn nhân là thường dân, và số mất tích là 1,200 người là để cho chúng ta thấy những người dân vô tội đã bị Việt Cộng thảm sát, và nếu có truy tố Cộng Sản Việt Nam ra trước Toà Án Quốc Tế về vấn đề thảm sát dân lành thì mới hợp lý lẽ, đúng luật, chứ chẳng nhẽ đưa hết mấy ông tướng tá, quân nhân, công cán chính bị Việt Cộng giết chết ra mà hạch xách truy tố hay sao? 
Tôi thấy ông còn biết rõ chính xác con số người bị Việt Cộng thảm sát hơn ông Liên Thành, thì tại sao ông không chung lưng đối cật, góp đôi bàn tay với ông Liên Thành mà vạch ra tội ác của Việt Cộng, đồng thời đưa Cộng Sản Việt Nam ra toà án Quốc Tế về tội thảm sát dân lành tại Huế vào năm Mậu Thân 68 đi?
 

Thien



--------------------

Thursday, December 29, 2011 3:16 PM

Subject: HUYET THU NGAY TET

HUYẾT THƯ NGÀY TẾT
Bảo quốc Kiếm


Kính gửi:
-Ông Trần Thiện Khiêm nguyên Đại tướng- Thủ tướng nước Việt Nam Cộng Hoà.
-Ông Nguyễn Khắc Bình, nguyên Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy trưởng Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Việt Nam Cộng Hoà.
- Ông Trần Minh Công, nguyên Đại tá Đồng hoá, Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà
Đồng kính gửi: Ông Trương Công Ân, nguyên Thiếu tá Trưởng F (Phó ty Đặc biệt) Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế.

Trân trọng kính thưa quý ngài,
Nhân dịp kỷ niệm 44 năm ngày đau thương nhất của Dân tộc Việt nam: Mậu Thân 1968. Tại thời điểm ấy một cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đã xảy ra với đồng bào Việt nam tại Huế. Hai mươi lăm ngày đêm Cộng sản chiếm Thành phố Huế đã gây ra một cuộc huỷ diệt Huế từ lâu đài thành quách, cây cỏ cho đến nhân mạng. Người dân miền Nam ai cũng oán hận CSVN. Rất nhiều bài viết, sách vở đã lên án chúng. Tuy nhiên bên cạnh những “cảm tính Quốc gia”, một số vấn đề lịch sử trong cuộc chiến Mậu Thân 1968 vẫn còn hiện hữu, chưa có giải thích đúng đắn. Hẳn người dân miền Nam đã biết rõ lịch sử tội ác đảng Lao Động Việt nam (tức đảng CS) đối với dân tộc Việt từ những năm 1930 cho đến nay; điều đó không ai có thể chối cãi, ngay cả những người Cộng sản tỉnh thức.

Trong phạm vi lá thư này, tôi xin trân trọng dâng lên quý ngài, những vị lãnh đạo miền Nam còn sống sót; (và là những người đã im lặng hay trực tiếp, gián tiếp hỗ trợ cho ông Liên Thành, nguyên Trung úy Bảo an, Phó trưởng ty Cảnh Sát Đặc biệt năm 1968 tại Tỉnh Thừa Thiên- Huế) một số yêu cầu nhỏ nhoi để giải oan cho những nạn nhân Mậu Thân 1968 tại Huế.

Kính thưa quý ngài,
Trong hai cuốn sách do ông Liên Thành đứng tên làm tác giả đã ghi rõ rằng có 26 mồ chôn tập thể, gồm 5,327 xác; và chú thích rõ ràng là chỉ thường dân, thường dân và thường dân. Điều ông Liên Thành viết ra cho thấy 5,327 người này chỉ là dân thường, vậy còn Quân nhân, Công chức, Cán bộ, đảng viên các đảng phái...không hề bị giết sao ? Xin quý ngài đọc và nghiền ngẫm tài liệu sau đây:

VIETNAM WAR: TET OFFENSIVE CIA - DEPARTMENT OF DEFENSE - STATE DEPT FILES SOUTH VIETNAMESE ARMY HISTORY có hai đoạn ghi như sau:
-A reported 2,000 to 3,000 officials, police, and others were executed in Hue during that time as counterrevolutionaries

-The extent of the massacre of civilians by the Communists was only realized over the following months and years, with the last mass graves being found in 1970. Approximately 2,800 bodies were found, and another 2,000 persons were missing. Some thousands of additional lives were lost from civilians being caught in the crossfire of the battle.

Trong cuốn Thảm Sát Mậu Thân Ở Huế, ông Nguyễn lý Tưởng ghi lại tài liệu củaÔng Vannema nói có 19 hố, gồm 2,326 xác.

Trong hầu hết các tài liệu Hoa Kỳ đều ghi ở mức 2,800 xác trong các Mồ chôn Tập thể được tìm thấy và bao gồm cả quân nhân, công chức... đồng bào nạn nhân. Hầu hết đều ghi nhận có khoảng 2,000 người mất tích....Thế nhưng, riêng ông Liên Thành thì có 5,327 nạn nhân là thường dân, và số mất tích là 1,200 người.

Từ những số liệu sai biệt trên đây cho thấy còn trên dưới 3,000 xác đồng bào nạn nhân Mậu Thân tại Huế chưa được ông Liên Thành chỉ rõ chôn ở đâu để đồng bào Huế có thể tìm xác thân nhân của họ. Vậy kính xin các ngài, với tư cách lãnh đạo quốc gia, điều khiển ngành Tình báo, Cảnh sát...chỉ giùm, ngõ hầu oan hồn người đã chết được thoát khỏi khổ đau, không còn vất vưỡng đó đây, bơ vơ trong thảm cảnh; và người sống được yên tâm. Kế đến, xin các ngài đưa ra tài liệu chính thức ghi nhận tên tuổi, chánh trú quán của 1,200 người mất tích trong Tết Mậu Thân để thân nhân những người này khỏi xót xa mong chờ vô vọng. Các ngài không thể từ chối việc nhân đạo này vì đã 44 năm rồi các ngài và Liên Thành đã giấu nhẹm rất kỹ tên tuổi họ. Hẳn nhiên khi biết rõ con số 1,200, thì không thể nào không biết tên tuổi và địa chỉ. Nếu các ngài vẫn giữ kín việc này, thì tội ác ấy không ai có thể dung thứ.

Một tài liệu Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã nói rằng: “Xe Tăng chạy trên xác người”; đây cũng là những gì chúng tôi đã nghe trên Radio Sài gòn vào những ngày “thảm sát” ấy. Vậy, những xác bị nghiền nát ấy là của ai, và sau khi lấy lại Huế, các ngài đã xử lý như thế nào ?

Kính thưa các ngài,
Trong hồ sơ của Trung tâm Quân sử Hoa kỳ ghi nhận:
“The enemy was slower to withdraw from US Marines sector South of Hue. On 24 February, the second Battalion, 5th Marines discovered several hundred enemy soldiers dug into the redgeline some fifteen hundred meters from the South Vietname  engineer compound that have been under siege since  the start of the battle. The Marines called in air strike artillery and naval guns, but clearing the hill and rescuing the engineers still took three days. The second Battalion, 5thMarines moved northeast toward the coast  afew days later, where it  discovered miles of strenches built by the Communists to transport men and supplies from countryside into Hue during the battle”.

Sự phát hiện hai chỗ quan trọng này; một đồi cách Trại Công Binh Nam giao một cây số rưỡi gồm chừng sáu bảy trăm Cộng quân và sau đó đã tiêu diệt hoàn toàn, có phải vùng đồi Tu viện Thiên an của dòng Dominico ? Những xác này ở đâu ? Địa điểm thứ hai là vùng cận biển Phú Thứ, nơi phát hiện một địa đạo dài hàng mấy cây số cũng bị tiêu diệt, vậy xác Việt cộng ở đâu ?

Sở dĩ tôi đặt ra hai vấn đề này vì xưa nay không ai nói tới; và từ đó nhiều câu hỏi được đặt ra:
1- Có phải hàng ngàn xác tìm thấy ở Phú thứ là xác Cộng quân và một ít đồng bào địa phương đã chết vì oanh kích dữ dội của VNCH và Mỹ sau khi Cộng sản chạy khỏi Huế ?

2-Có phải vùng đồi Thiên an, nơi Mỹ tìm thấy sáu bảy trăm Cộng quân đang nằm trong địa đạo và dùng phi pháo trong ba ngày liền để tiêu diệt toàn bộ là kết quả của những xác tìm thấy quanh vùng này ?

3-Đối chiếu bốn sự kiện:
-Xe Tăng nghiền nát xác người (dân+Việt cộng) trong Thành phố.
-Phát hiện và tiêu diệt Cộng quân tại Phú Thứ, Hương Thủy.
-Phát hiện và tiêu diệt Cộng quân tại vùng đồi Thiên An.
-5,113 Cộng quân bị chết trong Thành phố Huế; 3,000 chết tại ngoại ô.
Cho chúng ta thấy rằng xác đồng bào nạn nhân trong vụ Mậu Thân đã bị tiêu hủy không còn dấu tích. Những xác tìm thấy ở các nơi hầu hết là xác Cộng quân. Như thế thì, việc đưa những xác Cộng quân về Ba Đồn lập đền thờ, bắt dân khóc lóc, bái lạy là một tội ác cùng cực của Liên Thành. Xin các ngài giải thích rõ những điều này. Tôi sẽ truy tìm cho đến cùng để hậu thế biết rõ sự dã man của Cộng sản và những kẻ cầm quyền Thừa thiên Huế như Liên Thành trong vụ “thảm sát Mậu Thân”.
Kính thưa ông Cựu Thủ tướng 1968-1975
Kính thưa ông cựu Tư lệnh Cảnh Sát và các ngài,
Một trong những vấn nạn mà cho đến giờ này chúng tôi vẫn thấy khó hiểu; đó là việc Liên Thành, Trung úy Bảo an Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt (sau này là Thiếu tá) đã viết rõ trong cuốn sách Biến Động Miền Trung là, ông đã ra lệnh giết cha con ông Thiên Tường và sáu người khác ! Thế nhưng, từ khi cuốn sách ra đời thì Thủ tướng im lặng, Tư lệnh Cảnh sát, Viện trưởng Học viện Cảnh sát, Trung tá cựu Trưởng E Vùng I...đến chứng minh khen ngợi, viết bài hổ trợ, Thiếu tá Trương công Ân, Trưởng F Thừa thiên Huế cũng âm thầm tham gia ra mắt sách....mà không hề lên tiếng về vụ này.

Theo chỗ tôi biết thì, Ông Thiên Tường tên thật là Phan Tích, quê ở xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, có bà vợ là Nguyễn thị Mượn, hai con trai là Phan Thọ, Cán bộ Xây dựng Nông thôn; Phan Lộc đều bị giết chết trong Tết Mậu Thân. Liên Thành chỉ nói ra lệnh giết ông Thiên Tường và một người ! Thế nhưng, theo những người Cộng sản thì ông Thiên Tường (Phan Tích) và con là Phan Lộc đã bị bắt giam tại Sân Vận động Huế, sau đó mới bắn bỏ; gia đình có nhận xác. Còn Phan Thọ là Cán bộ Xây dựng Nông thôn, Thủ quỷ đảng Đại Việt, (là người thường đánh bài với Tỉnh trưởng Phan văn Khoa) bị bắn tại chỗ khác, không tìm ra xác !

Theo Liên Thành thì ông Thiên Tường là Cộng sản, là cha nuôi của Hoàng Lanh Nguyễn mậu Huyên. (Hoàng Lanh sinh năm 1926, về hưu năm 1990, chết năm 2008). Liên Thành cho rằng ông Thiên Tường đã bắt giết 300 người nên Liên Thành nổi giận mà ra lệnh giết ngay hai cha con tại chỗ. Nhưng trớ trêu thay, cho đến nay, cuối năm 2011, ông Thiên tường và hai con ông chẳng hề được Cộng sản gọi là “liệt sỹ” !!!

Theo tài liệu Cộng sản thì trong Tết Mậu Thân, Hoàng Lanh là Phó Ban Cán sự Thị ủy Huế và từ tháng 5-1976 Hoàng Lanh là Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Bí thư Thành ủy Huế. Một chức vụ ghê gớm trong đảng Cộng sản địa phương, thế thì tại sao Hoàng Lanh không chứng nhận cho cha nuôi của ông ta ??? Điều ấy chứng tỏ rằng, nhà tình báo Liên Thành muốn giết ai thì giết không cần bằng chứng cụ thể, bất chấp pháp luật, lương tâm....và hiện nay ngang nhiên thách thức dư luận một cách trắng trợn ! Chúng tôi muốn biết rõ, ngoài ba cha con Thiên Tường, sáu người còn lại là ai, tên gì, ở đâu, làm gì nên tội, và Liên Thành lấy quyền gì để ra lệnh giết tập thể như thế ? Xin cho biết trong thời gian Mậu Thân 1968 có bao nhiêu người bị giết tương tự ?
Trong thời gian xa dài từ 1968 đến 1975, Liên Thành không những không bị các ngài trừng phạt, ngược lại lên như diều gặp gió. Đến nỗi năm 1972, Liên Thành “ký khống chỉ” 2000 trác lệnh để cho Cảnh sát của ông muốn bắt ai thì điền tên người vào mà đày ra Côn Đảo. Ông Trương công Ân phải nói rõ vụ này.

Kính thưa các ngài,
Chính ông Liên Thành viết rõ hai trường hợp ra lệnh giết Tám người, và ký khống chỉ cho Cảnh sát tự do bắt người dân, chứ không ai khác. Tôi còn nghe rằng, chính tờ báo Sóng Thần đã đăng tải chuyện thủ tiêu cha con Thiên Tường, thế nhưng chính quyền do các ngài lãnh đạo đã chẳng trừng trị lại còn đưa lên cao để Liên Thành thi hành lệnh giết, bắt dân đen một cách tuỳ tiện, phi pháp !!! Xin nhấn mạnh đến việc bắt người một chút. Nếu quả thật có 1,500 người là Cộng sản, thì hồ sơ của họ đã được Cảnh sát Đặc biệt ghi nhận và theo dõi từ lâu; nên việc ra lệnh bắt giam phải ghi rõ tên tuổi và tội trạng, chứ không thể ký “khống chỉ”. Thứ hai, việc ký TRÁC bắt người phải do Biện lý hay ông Tỉnh trưởng (nếu khẩn cấp), chứ Trưởng ty Cảnh sát không thể tự tiện.

Trong Tết Mậu Thân, Liên Thành có trong tay 2000 Cảnh sát Đặc Biệt, thế nhưng tôi chưa hề thấy Cảnh sát đưa ra một hình ảnh phạm tội nào của Cộng sản trong việc“đập đầu chôn sống” người dân, thế thì làm sao truy tố chúng ? Tại sao ngay lúc đó các ngài không cho phóng viên trong ngoài nước đến tận hiện trường “mồ chôn tập thể” ? Phải chăng, vì đó là mồ tập thể “Giải phóng quân” ???
Qua các sự kiện vừa nêu trên, tôi nghi ngờ sự “giao lưu” hay “hiệp lực” giữa Liên Thành và Cộng sản để đồng bào Huế phải cúi đầu khóc xác giặc thù, làm lăng mộ, đền đài cho Cán binh Cộng sản.

Để giải oan cho nạn nhân, giải toả sự nghi ngờ, kính yêu cầu quý ngài xót thương dân đen chúng tôi mà đưa tài liệu chính thức ra ngõ hầu làm sáng tỏ tội ác Cộng sản Việt nam và những kẻ bắt tay với chúng.

Trân trọng kính chào qúy ngài.
Bảo quốc Kiếm 29-12-11

Friday, December 30, 2011

Hoàng Đông kể-Việt Gian Cộng San giết người Tết Mậu Thân ở Huế



Một góc của tử thần
(Dziệt Cộng giết người Tết Mậu Thân ở Huế)
Hoàng Đông kể
Hoàng Long Hải ghi
 
Anh Hoàng Đông hiện ở Nam Cali, kể:
 
Anh Hoàng Đông, nhà ở số 55 đường Võ Tánh, ngang ngã ba Võ Tánh và Hồ Xuân Hương kể rằng sáng sớm mồng hai tết, nhìn ra đường anh thấy hai toán Dziệt Cộng đi hai bên đường, từ hướng Bãi Dâu lên. Toán Dziệt Cộng nầy không mặc đồng phục, đội mũ tai bèo và mang súng AK (sau nầy anh mới biết đó là súng AK.)
Anh báo động cho người trong nhà biết, Dziệt Cộng đã vào rồi.
Năm đó, anh Hoàng Đông đang học chứng chỉ “Toán đại cương” (mathematique general) ở viện đại học Huế để chuẩn bị thi vào đại học sư phạm toán, ở và dạy học cho mấy đứa nhỏ tại nhà một người anh bà con bạn dì tên là Tôn Thất Tùng. Ông Tùng là nhân viên tại văn phòng ông Hà Nguyên Chi, phó ty cảnh sát Thừa Thiên - Huế. Ngôi nhà nhà nầy nằm trong một khu vườn lớn của Bà Đồng. Cũng trong khu vườn nầy, còn có nhà ông Dương Chính Vĩnh, quận trưởng Cảnh sát.
Thấy Dziệt Cộng tới, anh Tùng lấy bộ áo quần ta, áo đen dài, quần trắng, lén qua nhà ông Vĩnh rồi cả hai leohàng rào, đi theo con đường tắt lên trốn ở Chùa Áo Vàng (tên chữ là Tăng Quang Tự).
Chùa Áo Vàng cũng nằm trên đường Võ Tánh, nhưng cách đường khá xa. Chùa thuộc Nam tông, phái Thêrêvada, do đại đức Thích Giới Hỷ trú trì. Các sư mặc áo vàng nên đồng bào gọi là Chùa Áo Vàng.
Sau toán Dziệt Cộng đi trước khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì toán thứ hai tới, cũng từ hướng Bãi Dâu lên.Theo kinh nghiệm của ngưòi Huế trong trận Mậu Thân thì toán quân sự đi trước, chiếm đóng và giữ an ninh, toán đi sau là toán cán bộ chính trị. Bọn nầy chính là bọn hoạt động chính trị và an ninh, bắt giam hay giết chết là quyền ở những tên nầy.
Bấy giờ Huế mớ có đài truyền hình được mấy tháng. Nhà nào có TV thường có ăng-ten (antena) dựng trên nóc nhà.
Khi toán Dziệt Cộng thứ hai đến, có lẽ nhìn thấy cột “ăng-ten” ở nhà anh Tùng nên chúng bảo nhau: “Điện đài! điện đài! Triển khai”.
Hoàng Đông nghe nói như thế, nghi rằng chúng sẽ vào nhà nên anh leo lên trần nhà trốn. Nhà xây gạch, trần bằng gỗ, khá chắc. Hoàng Đông cũng không quên khi leo lên trần nhà, anh cầm theo đôi dép. Thấy dép, Dziệt Cộng có thể nghi có người leo lên trốn trên trần nhà.
Chị Tùng cũng sợ. Chị kéo các con xuống bếp, núp vào góc, đưới một tấn đan đúc bằng xi măng, trên là bếp nấu ăn.
Có mấy tên Dziệt Cộng đứng ngoài đường hỏi với vào:
- “Có ai trong nhà không?”
Sau khi hỏi hai lần, không thấy ai trả lời, chúng bèn quăng lựu đạn (có lẽ là loại lựu đạn hơi) vào hiên nhà.Sức lựu đạn nổ rất mạnh. Hoàng Đông núp ở trên trần nhà, tưởng như trời sập. Sau đó, chúng vào nhà lục soát.Chúng bắn bể cái hộp biến điện (survolteur) đặt trên cái TV hiệu Denon. Loại TV nầy có cửa nên chúng không lưu ý đến, tưởng là cái tủ nhỏ. Chúng kéo mẹ con chị Tùng từ dưới bếp lên. Bọn trẻ khóc như di vì sợ. Bấy giờ mấy tên Dziệt Cộng mới biết cái survolteur không phải là “điện đài thông tin của địch”. Chúng xin lỗi và hứa khi “cách mạng” thành công, sẽ bồi thường, trước khi chúng rút đi.
Đêm đó, thời gian trôi qua trong nỗi sợ hãi.
Mấy hôm sau, ngày nào cũng có biểu tình “hoan hô cach mạng”. Toán biểu tình khoảng hơn chục người, đi được một đoạn đường thì cái đuôi đoàn biểu tình “rụng” dần, số còn lại chưa đủ đếm năm đầu ngón tay. Người ta bỏ trốn cả, uổng công cho đám cán bộ phải đi hăm dọa từng nhà để gọi người iđ biểu tình, giám sát những ai đã tham gia vì sợ người ta bỏ trốn.
Mấy hôm đó, Hoàng Đông cũng không dám ở nhà, sợ Dziệt Cộng đến bắt. Anh bỏ đi lang thang ngoài đường. thỉnh thoảng mới về nhà, ăn qua loa cho xong bữa cơm, lại ra đi. Chị Tùng thì phập phồng lo sợ, không biết chồng trốn ở đau, có mệnh hệ gì không?
Hôm sau, có một người phu kéo xe ba-gác quen biết, nhà ở Cây Sanh, hàng Đường, đến nhà ông Chương, ba của anh Tùng, nói rằng ông ta thấy một người hình dạng giống anh Tùng nằm chết ở đầu cầu Đông Ba. Ông Chương liền cùng với ông phu xe ba gác lên cầu, thấy đúng là con ông, bị bắn đạn từ sau ót ra phía trước, bèn để xác anh Tùng lên xe, kéo về nhà anh Tùng. Vợ anh Tùng và các con, thấy anh Tùng đã chết, khóc rất thê thảm.
Anh Hoàng Đông cùng với ông Chương rửa ráy và thay áo quần cho anh Tùng, xong họ lấy bộ ván ngựa gồm 4 tấm, đóng thành cái hòm, hai đầu không có nắp, bởi vì lúc bấy giờ không sao tìm mua được cái hòm. Phố xá, chợ búa, nhà nhà đều đóng cửa im ỉm.
Tẩm liệm anh Tùng vô cái hòm tạm xong, hai người cùng với vài người hàng xóm nữa, đào một cái huyệt ngay sân trước, chôn anh Tùng ở đó.
Hôm sau, Dziệt Cộng đến nhà ông Dương Chính Vĩnh, người cùng anh Tùng trốn lên Chùa Áo Vàng. Té ra ông Vĩnh đã rời chùa về lại nhà mà anh Hoàng Đông không hay. Ông Vĩnh trốn trên trần nhà. Có lẽ do chỉ điểm, Dziệt Cộng tới nhà ông Vĩnh, nghi ông ta trốn trên trân nhà nên la to lên cho ông ta nghe, đe dọa nếu ông không xuống, chúng sẽ bắn chết vợ con ông. Sợ vợ con gặp nạn, ông Vĩnh phải xuống. Đã chuẩn bị sẵn, vừa xuống tới nơi, ông Vĩnh vội vàng phóng chạy. Nhưng quân Dziệt Cộng đã đề phòng trước. Khi ông mới chạy được vài bước, chúng nổ súng bắn chết ông Vĩnh ngay tại chỗ. Hàng xóm cũng xúm lại giúp bà Vĩnh, chôn ông ngay tại sân nhà, như ông Tùng vậy.
Bấy giờ ai nấy đều biết ông Tùng và ông Vĩnh bị chỉ điểm. Ông Vĩnh nhanh chân trốn về nhà nhưng cũng không thoát, còn ông Tùng thì bị bắt và bị giết ngay tại cầu Đông Ba, cách chùa cũng không xa.
Vào khoảng cuối tháng hai, khi súng “ca-non” nổ đều và nhiều hơn, nhất là ở phía thành nội. Nhiều người đoán chừng quân đội Cộng Hòa đang phản công. Do đó, Dziệt Cộng bắt loa kêu gọi quân cán chính VNCH cũng như thanh niên đến họp tại trường Gia Hội. Quân cán chính ai đến thì bị bắt đi rồi bị giết cả. Ai không đến trình diện thì chúng đến kiếm tại nhà, rồi cũng bị bắt, bị giết luôn. Những ai trốn khỏi thì may mắn sống sót. Thanh niên cũng phải đến trình diện và được phát súng chống lại Quân đội Quốc gia.
Anh Hoàng Đông cũng nghe lời kêu gọi đi trình diện, nhưng vì bị bệnh nên anh di trễ. Đang đi trên đường Võ Tánh để đến trường Gia Hội thì anh gặp thầy giáo Ấn, nhà ở gần nhà anh Tùng, đối diện với nhà số 18 đường Hồ Xuân Hương. Thầy Ấn hỏi anh đi đâu, anh trả lời đi “trình diện theo lệnh cách mạng” thì thầy ấy nháy mắt biểu anh về đi. (1)
Những người cùng tuổi anh quen biết như Lê Bá (?) Thạnh, nhà ở số 18 cuối đường Hồ Xuân Hương, như Nhân, con một cư sĩ Phật giáo, nhà ở gần nhà anhh Tùng, đi trình diện, được cấp súng và theo Dziệt Cộng luôn. Sau 1975, Thạnh về làm phó giám đốc đài phát thanh Huế. Nhân thì không được cái chức gì cả, nay đã về hưu.
Ngày 27 tháng 2, sau khi Dziệt Cộng rút đi rồi, đồng bào đổ xô đến trường trung học Gia Hội để tìm thân nhân đã bị Dziệt Cộng bắt đi. Hoàng Đông cũng đến trường Gia Hội xem tình hình như thế nào. Phía ngoài trường Gia Hội, hai bên đường Võ Tánh, có những hố cá nhân do Dziệt Cộng đào cách đều nhau để đề phòng chống lại khi bị tấn công thì có một số hố có chôn sống người dân. Người ta đang moi đào để lấy xác lên. Sân trường nằm sâu vào phía trong, có con đường dẫn vào. Hai bên đường là hồ sen, có tên là hồ ông Mười. Sân trường có khoảng vài chục cái hầm, mỗi hầm chôn từ 3 đến 5 hoặc 7 xác người. Người chết bị chôn chung trong một hố bị trói thúc ké liền vào với nhau bằng giây điện thoại nhà binh hay bằng giây kẽm gai còn nguyên mắt kẽm nhọn.
Anh Hoàng Đông thấy một gia đình có mấy cha con đang đi tìm người vợ. Có đứa con nói với người cha: “Có người chết đằng kia, mặc cái áo len giống má ba ơi!” Người cha bảo: “Ba có coi rồi, không phải đâu! Mạ không có béo (mập -tg) như rứa”
Một lúc sau, mấy người đi đào xác, đem cái xác người đàn bà ấy lên, lật moi ở túi trước ra, thấy có tấm thẻ căn cước, đọc tên, la to lên: “Bà tên là (anh Hoàng Đông không nhớ tên). Ai thân nhân đến nhận xác.” Nghe đọc tên, mấy cha con chạy ùa đến xem, nhận đúng xác người thân. Mấy cha con khóc lóc thê thảm lắm. Té ra bà ấy chết đã mấy bữa, xác sình lên nên người chồng tưởng là mập, không nhận ra.
Thấy hoàn cảnh đau đớn của mấy cha con, nhiều người khóc theo!
Hôm ấy có một giáo sư người Pháp dạy ở trường Pascal Đà Nẵng đến Huế để xem tình hình. Thấy ông ta đứng lớ ngớ ở sân trường, anh Hoàng Đông đến hỏi thăm và tình nguyện làm thông dịch viên tiếng Pháp giúp ông ta.Gần chiều, ông ta về lại Đà Nẵng. Hoàng Đông nhờ ông ta đánh giúp điện tín (lúc ấy Bưu điện Huế chưa được sửa chữa, không hoạt động được), báo tin cho cha mẹ anh ở Saigon biết anh em anh ở Huế được bình yên. Hoàng Đông dặn cứ đề tên người gởi là tên ông ta, nhưng vì lịch sự, khi đánh điện tín, ông giáo sư người Pháp lại đánh tên người gởi là “deux et trois”, là tên tục của anh em anh. Vì vậy, khi nhận được điện tín, bố mẹ anh tưởng lầm rằng hai anh em anh đã chạy vào được Đà Nẵng rồi.
Ngày hôm sau nữa, Hoàng Đông gặp một người quen vừa đi xuống Bãi Dâu về, Bãi Dâu ở cuối đường Võ Tánh nhà anh ở. Người quen cho biết bấy giờ thì đồng bào đã lấy xác thân nhân đi hết rồi, chỉ còn lại ngổn ngang giày dép mũ nón người chết, những sợ giây kẽm gai và giây điện thoại trói người, và dấu heo, chó ủi vào chỗ chôn người để kiếm ăn. Nhiều cái xác đã rữa nát, thân nhân chỉ hốt được bộ xương, nên trong một phạm vi rộng lớn của Bãi Dâu còn nồng nặc mùi thối rữa da thịt của xác chết, tưởng như xuống tới địa ngục.
(1) Sau tết Mậu Thân gia đình thầy Ấn cùng cha me, sợ Dziệt Cộng quá, bỏ Huế vào nam, không dám trở lại.

Monday, December 26, 2011



Thích Trí Quang... tên Cán bộ CSBV nằm vùng trong PGVNTN-Ấn Quang...
 
 
 
những thằng súc sanh khốn nạn trốn trong Phật Giáo để hại Miền Nam VNCH

Thích Trí Quang / Phạm Văn Bồng: tên việt-gian-cộng sản đội lốt nhà tu

 
From: Tong Fam
Sent: Sat, January 29, 2011 7:36:01 PM
Subject: Cán bộ csBV Thích Trí Quang
 
 
HT. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN QUANG?
 
Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có Thích Trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ”PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT” là một ổ cán bộ CS nằm vùng trước mũi của chính quyền.Vì giới quân nhân cầm quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này, khiến cho miền Nam bị rữa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng.
 
Theo tôi biết, hiện nay ở hải ngoại, nhóm sư tăng đệ tử của Trí Quang, đa số là người miền Trung, trà trộn trong cộng đồng người VN tị nạn rất đông, cấu kết rất chặt chẽ, tạo thành một lực lượng, nếu mai sau thời cơ đến sẽ xử dụng. Tuy mang danh nghĩa tu hành, nhưng nhóm tăng sĩ Ấn Quang ở khắp nơi hải ngoại chỉ chuyên tâm nô nức ganh đua xây chùa bằng tiền cúng dường, vay mượn không lãi dài hạn của bá tánh. Có nơi con số lên tới hàng chục triệu, và thường xảy ra những cuộc tranh chấp, chửi bới nhau chí chóe...

Đây là một hiện tượng đáng để các giới đồng bào khắp nơi hải ngoại phải đặc biệt quan tâm, cảnh giác đối với các tu sĩ đó trước khi quá muộn, như trường hợp Trí Quang.
 
Bởi chính đức Phật đã dạy trong tạng luật   ”MAHÃVIBHANGA”, đoạn Một: Có 5 hạng cướp thì hạng Tỳ Khưu không lo tu hành chân chính, chỉ ăn ngon mặc đẹp, chuyên lo xây chùa chiền, tu viện cho nguy nga đồ sộ bằng tiền của bá tánh là một hạng cướp nguy hiểm nhất. Vì tên tướng cướp thường còn bị pháp luật xét xử. Trong khi đó tên cướp mặc áo cà sa vẫn được tự do, đi đến đâu vẫn được bá tánh cúng dường vật thực ngon lành, tinh khiết, y phục, chỗ ở tốt đẹp, và xưng hô cực kỳ cung kính... (theo TÌM HIỂU PHẬT GIÁO, chương 14, Phật giáo với hàng tăng lữ của soạn giả Maha Thong Kham Medhivongs, Phật giáo nguyên thủy).
 
Như trên tôi đã nói: TT Trí Quang là một cán bộ CSBV nằm vùng, đã chụp được thời cơ thuận lợi nhất là vụ treo cờ Phật Giáo, để nổi lên đánh phá miền Nam.
 
Thực ra chẳng phải đến bây giờ dân chúng miền Nam mới biết tông tích của TT Thích Trí Quang, một cán bộ CSBV đội lốt tu hành, đã phát động cuộc đấu tranh năm 1963, lật đổ chế độ gia đình trị nhà Ngô. Tông tích và đường lối mượn danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống gia đình trị họ Ngô, mở đường cho sự rối loạn và sụp đổ của miền Nam vào tay CSBV năm 1975 của TT Trí Quang đã được một số người biết từ lâụ Nhưng hoàn cảnh chánh trị ở VN, từ năm 1963 cho đến 1975, đã không cho phép một ai có đủ can đảm để nói lên sự bí mật nàỵ Nguyên do chẳng phải bản tánh cầu an, khiếp nhược của con người, mà còn bởi nhiều yếu tố khác nữạ Những người am tường thời cuộc đều nhận thấy rằng, vào khoảng thời gian ấy, trong không khí chánh trị hỗn độn như thế, giới Phật giáo đấu tranh miền Trung đã trở nên một lực lượng chánh trị vô địch, các tu sĩ miền Trung đã trở thành những kiêu tăng, dám giết người nhân danh ”đạo pháp”, chẳng khác gì các kiêu binh kiêu tướng, và tệ nạn tham nhũng, hối lộ bành trướng khắp các giai tầng chế độ, thì việc phanh phui bí mật cuộc đời của TT Trí Quang ra trước công luận lúc bấy giờ chỉ là một việc làm vô hiệu quả, đồng thời còn là một hành động tự sát cách ngu đần.
 
Hơn thế nữa, bạn đồng minh Mỹ đến VN với danh nghĩa giúp chúng ta “ngăn làn sóng đỏ”, nhưng tiếc thay, họ lại chỉ là một anh chàng khổng lồ mù lòa, với võ khí là cơ quan CIA trong tay nhưng chẳng khác nào khẩu súng nước trẻ con chơị Những người khôn ngoan chẳng ai dám tin vào họ!


Bạn đọc hãy tưởng tượng, ngay cả đến Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một cao tăng đã có một địa vị vững chắc trong khối Phật Giáo VN và cả trên trường quốc tế, thế mà trong thời gian còn ở VN vẫn phải làm thinh “mũ ni che tai”, tránh voi không xấu mặt nàọ Sau năm 1975, khi ra hải ngoại sống cuộc đời lưu vong, Hòa Thượng Thích Tâm Châu vẫn tiếp tục “thủ khẩu như bình”, mãi cho đến năm 1994, Hòa Thượng mới công bố quyển “BẠCH THƯ”, trong đó có kể lại đôi điều liên quan đến TT Thích Trí Quang và phái Phật Giáo đấu tranh miền Trung, sau hiệp thành tổ chức gọi là: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO V.N. THỐNG NHẤT”, trụ sở đóng tại chùa Ấn Quang, nên còn gọi là phe “PHẬT GIÁO ẤN QUANG”.
 
Phe nhóm này chủ trương đấu tranh bạo động, gây rối loạn không ngừng ở khắp miền Nam, theo sách lược của CSBV. Đối với HT Tâm Châu, mặc dù là đồng đạo, nhưng phe Phật Giáo Ấn Quang vẫn dùng thủ đoạn khủng bố để uy hiếp tinh thần.
 
Nơi trang 24, của Bạch Thư, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau: "Tôi về tới VN Quốc Tự (VNQT), bước chân vào cửa văn phòng viện trưởng Viện Hóa Đạo (VHĐ) của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: ”YÊU CẦU CÁC THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU”.

Tôi định lên chánh điện VNQT lễ Phật, tại đây có mấy vị tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện VNQT và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của họ.
Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA. Và người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và chính các vị tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có sư cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.”
Trang 25, HT Tâm Châu viết tiếp: ”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời... TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật Tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của quân đội chính phủ, cho các cán bộ CS nằm vùng trà trộn tẩu thoát... Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa.

Đem Phật ra đường rồi, TT Trí Quang vào tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau chính phủ đưa TT Trí Quang vào Sài Gòn, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tàị (* Đến đây, tôi xin mở dấu ngoặc để nói thêm về dưỡng đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, để bạn đọc hiểu rõ hơn. Tôi quen với vợ chồng bác sĩ Tài từ năm 1965, khi tôi với Hồ Ngọc Cứ và Nguyễn Duy Tài cùng ra tranh cử Hội Đồng Đô Thành. Tôi biết cả nguyên nhân tiền bạc, do đâu mà vợ chồng BS Tài đã có để lập nên nhà bảo sanh nàỵ Nhưng đó là chuyện riêng của bà Tài, đã xả thân để gầy vốn cho chồng làm ăn, nên tôi không đề cập vào đây làm chi. Tôi chỉ đề cập đến BS Tài.Vì hành động của ông ta liên quan đến chánh trị và gắn bó với Trí Quang. Đó là một nhà bảo sanh tư, nằm trên đường Duy Tân, nổi tiếng chuyên môn các dịch vụ phá thai bất hợp pháp, với giá cắt cổ. Những sản phụ nào gần chết mà không đủ tiền cũng đừng hòng được nhận bệnh.
 
Một hôm, thảm cảnh thương tâm sau đây đã xảy ra: một trung sĩ ở trong xóm nhà thờ Tân Định, sau đường Hiền Vương, góc ngã ba Duy Tân, có vợ sanh khó, mất máu quá nhiều đến ngất xỉu mê man rồi. Người chồng đem vợ đến dưỡng đường Duy Tân của BS Tài gần đó xin cứu cấp. Bác Sĩ Tài đòi phải đóng tiền trước đủ 18.000 đồng mới cho nhập viện. Viên hạ sĩ quan nghèo, không đủ tiền, lạy lục xin cho đóng trước vài ngàn, còn lại sẽ trả sau.
Bác sĩ Tài trả lời lạnh lùng: ”Không có tiền thì đem đi nhà thương thí, chớ đem đến đây làm gì?!” Và nhất định không nhận bệnh. Sản phụ đó chết. Người chồng đau đớn quá, mỗi chiều chiều, dắt bầy con thơ nheo nhóc đến trước dưỡng đường BS Tài ngồi khóc kể, réo đích danh Nguyễn Duy Tài chửi bới thậm tệ. Chuyện này đã kéo dài cả tháng trời. Những ai có dịp qua lại đường Duy Tân, ngang dưỡng đường Nguyễn Duy Tài thời đó đều không khỏi chạnh lòng khi chứng kiến cảnh thương tâm đó.

Vậy, chuyện Nguyễn Duy Tài chứa chấp, nuôi dưỡng, săn sóc Thích Trí Quang trong bảo sanh viện Duy Tân chẳng qua chỉ là một hành vi ”mậu dịch tình cảm” giữa bọn người quyền thế, giàu có, bất lương với nhau. Quả nhiên, ít lâu sau, Nguyễn Duy Tài đã được khối Phật Giáo Ấn Quang cài vào một danh sách tranh cử Thượng Viện, rồi trở nên nghĩ sĩ, đại diện cho phe nhóm Phật Giáo Ấn Quang.

Sau ngày 30. 4. 75, ra hải ngoại, tôi không lấy gì làm lạ khi thấy vợ chồng BS Nguyễn Duy Tài, ở Paris, liên hệ chặt chẽ với TT Thích Minh Tâm, thuộc nhóm ”Phật Giáo Thống Nhất” miền Trung!). TT vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức) cho đến khi chánh phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4.66, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3.9.66...
 
Tại miền Trung, TT Trí Quang cho tuyên truyền rằng: ”Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ Kim và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao kỳ, đem quân đội ra tàn sát Phật Tử miền Trung... tại Sài Gòn TT Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ Kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ Kim. Thực ra, tôi chưa được một đô la của Mỹ, chứ nói chi đến vạn đến triệu...”
 
Về chuyện Phật giáo Ấn Quang đem người và khí giới đến đánh chiếm và đốt phá VNQT, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau:
“Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng như Kiều Mộng Thu v.v... đột nhập vào VNQT bắt TT Viện trưởng VHĐ Thích Thiện Tường cùng với rất đông chư tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang.
 
Ngày hôm sau Nha Tuyên Úùy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VNQT...
Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VNQT một lần nữa. Lần này họ bắt hết tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VNQT, và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự...” (trang 28)
 
Về hành động của phe Ấn Quang đánh phá, đốt chùa, bắt nhốt tăng chúng, HT Tâm Châu viết:”Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VNQT chia rẽ giáo hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn GHPGVNTH. Thực như câu phương ngôn của VN thường nói: ”Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng“. Cậy đông lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả ra chi cả!

Cho đến nỗi những vị tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng giáo hội, cũng như các vị tăng ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay... Về vấn đề này, chính HT Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: 
”CS từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng“...
 
Khi quân CS từ rừng về Sài Gòn đã có gần 500 tăng ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón...(trang 29)....
 
Ngày 19.5.75, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.”(trang 30).

Nói về tinh thần đấu tranh của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 22: 
Trong lúc xáo trộn, TT Trí Quang kéo thầy Quảng Độ (biết tiếng Anh), sư Bửu Phương (biết tiếng Miên) chạy xuống Tân Châu và đang định chạy sang Kamphuchia, thì Sài Gòn trở lại yên ổn, các vị lại trở về.”...
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại lễ Hiệp kỵ chư lịch đại Tổ sư, chư Thánh tử đạo và chư vị Tiền bối hữu công tại Saigon ngày 13.1.2011
Tên Việt Gian giả sư Thích Quảng Độ kêu gọi người dân nằm nhà đừng chống bọn VGCS dưới danh từ "biểu tình tại gia". Thích Quảng Độ và tên Việt Gian Mai Chí Thọ cướp Miền Nam đối ẩm 
 
Nhận xét về hành vi trốn chạy của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 34, đoạn 3, nguyên văn như sau:
“Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà thượng tọa cư ngụ tại đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậỵ Và, sau TT cùng hai vị tùy tùng trở về Sài Gòn thì ai cũng biết. Để xác tín việc này, ĐĐ Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho TT Trí Quang ngày 31. 12. 73 như sau: ”Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chánh phủ Nguyễn Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình hình biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các thượng tọa khác... Gần cuối lá thơ, ĐĐ Thích Quảng Thành với tính tình trung trực đã viết: ”Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa (Thích Trí Quang) với nhân vật “NHẠC BẤT QUẦN“, trong tiểu thuyết nổi danh của Kim Dung. Nhạc Bất Quần là chưởng môn của một võ phái nổi tiếng và được giới giang hồ xưng tụng là “Quân Tử Kiếm“, vì lối đánh và đường kiếm của ông rất quân tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một “ngụy quân tử“, với những mưu mô và thủ đoạn cực ác và cực nham hiểm”... (trang 35).
 
 
 NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH CỦA TRÍ QUANG 

Nhân Bạch Thư này, tôi xin giới thiệu thêm về lai lịch, nguồn gốc của Trí Quang, một tên CS nằm vùng hạng gộc, đã tạo nên bao nhiêu biến cố bi thương cho đất nước suốt từ 1963 đến 1975.

TT Trí Quang sanh năm 1922, năm nay đã 75 tuổi, tại làng Diêm Điền (còn gọi là Nại Hiên hay Kẻ Nại), thị xã Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo khổ nổi tiếng ở miền Trung. Hầu hết dân làng đều làm nghề nông, thợ mộc, hay làm thuê làm mướn, để kiếm sống qua ngàỵ Vì phong thổ, dân làng Diêm Điền có tật nói ngọng, như dân làng Thổ Ngọa, nên đi đến đâu mở miệng ra cũng khó lẫn. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính bảo thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích.
 
Trong quá khứ, khi phong trào Văn Thân nổi lên, năm 1885, dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau đến đốt nhà thờ Sáo Bùn, nằm về phía Nam Đồng Hới, của Thiên Chúa Giáo, tạo nên một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu sống mấy trăm giáo dân trong đó. Sau trận đốt phá, giết chóc tàn bạo này của dân làng Diêm Điền, số giáo dân còn sống sót, đã phải chạy lên phía Bắc Đồng Hới lập nên một giáo xứ mới, gọi là Tam Tòa. Khi phong trào Việt Minh nổi lên, làng Diêm Điền đã dễ dàng trở thành “CÁI NÔI” của Cộng Sản, và dân làng này đều trở thành những tay Cộng Sản rất quá khích và khát máu.
 
 Đến năm 1947, khi quân Pháp đã tái chiếm Đồng Hới, vãn hồi an ninh, trật tự, và thiết lập đồn bót canh gác khắp tỉnh Quảng Bình, nhưng từ khoảng thời gian 1947 đến 1954, vẫn không một ai dám bén mảng đến làng Diêm Điền. Vì kẻ nào đã lạc bước đến làng đó đều kể như bị thủ tiêu luôn.
 
Trong hoàn cảnh bần cùng ấy của làng Diêm Điền, TT Trí Quang đã xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là người anh cả của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha mẹ đặt tên cho là Phạm Văn Bồng. Ba người em của ông cũng đã được cha mẹ đặt tên chọ Nhưng vì gia cảnh quá túng quẫn, cha mẹ không nuôi nổi các con, nên người con trai lớn tên Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em lớn nhà họ Phạm đã xuất gia, qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình, cũng thuộc thị trấn Đồng Hới. Bởi nhân duyên ấy, nên về sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được Hòa Thượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang, Minh, Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại.

Nhờ nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang và Phạm Minh đã được học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu cảnh thất học.
 
VỢ PHẠM CHÁNH LÀM NỘI ỨNG ĐÁNH ĐỒN Đến năm 1945, khi phong trào Việt Minh nổi lên trên toàn quốc, Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu hành, tham gia kháng chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa, nên Phạm Minh đã được phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã, tại địa phương. Còn hai người em, tên Phạm Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Độị Chẳng bao lâu sau, Phạm Chánh được kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du Kích. Nhưng đến ngày 4. 6. 47, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, thuộc phía Tây thành phố Đồng Hớị Lúc bấy giờ Phạm Chánh mới 21 tuổị Còn người em út, tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội CSBV vẫn còn sống cho đến năm 1954, khi chia cắt đất nước.

Sau khi Phạm Chánh đã bị Tây bắn chết, người vợ của Phạm Chánh cũng là một kháng chiến quân, đã từ chiến khu quay trở về làng Diêm Điền, xin phép được hồi cư, với lý do được gần gũi phụng dưỡng cha mẹ chồng. Điều nên biết là vợ của Phạm Chánh lúc bấy giờ còn rất trẻ, và là một thiếu phụ nhan sắc mặn mòi.

Vợ Phạm Chánh cầm đơn xin giấy phép hồi cư, lên Đồng Hới, gặp thiếu úy Huỳnh Công Tịnh. Lúc bấy giờ TU Huỳnh Công Tịnh đang giữ nhiệm vụ trưởng Phòng Nhì của Trung Đoàn Nguyễn Huệ, bộ chỉ huy đóng ở Đồng Hới, đã nhận đơn và bắt cô ta phải làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữạ Vợ Phạm Chánh tuân thủ, cam kết đủ mọi điềụ Nhưng TU Huỳnh Công Tịnh vẫn còn nghi ngờ, nên ngầm ra lịnh cho thượng sĩ Phạm Phòng phải theo dõi sát hành tung của đương sự. Đồng thời TU Huỳnh Công Tịnh cũng ra lịnh cho trưởng đồn Diêm Điền biết sự hồi cư rất khả nghi của vợ Phạm Chánh, để đề phòng chu đáo.

Quả nhiên, chỉ vài tuần lễ sau khi mới hồi cư, vợ của Phạm Chánh đã tìm cách lân la đến đồn Diêm Điền, làm quen với các binh sĩ trong đồn. Nhiều khi cô nàng còn đùa cợt lả lơi, ra chiều khêu gợi tình tứ với anh em binh sĩ. Không bao lâu sau, cô nàng tiến gần đến mục tiêu hơn. Vợ Phạm Chánh đem thân xác trẻ đẹp, còn hấp dẫn của mình ra để thực hiện Mỹ Nhân Kế, suồng sã bắt nhân tình với viên trưởng đồn. Trong những lần gần gũi thân mật, viên trưởng đồn nhận thấy cô nàng đã để lộ nhiều hành vi khả nghi như hay hỏi han về tình trạng binh sĩ trú đóng trong đồn, chú ý theo dõi các cuộc hành quân, và nhất là cô nàng đặc biệt quan sát các vị trí phòng ngự chung quanh đồn, các công sự chiến đấu trong đồn v.v... Vì thế viên trưởng đồn đã ngầm báo cáo cho TU Huỳnh Công Tịnh biết, để phác họa sẵn một chương trình “tương kế tựu kế”.

Về mặt địa thế, đồn Diêm Điền nằm về phía Tây, cách thành phố Đồng Hới khoảng một cây số, và là một trong những đồn vòng đai bảo vệ thành phố. Khi đã nắm vững được tin tình báo, quân Cộng Sản Việt Minh sẽ kéo tới tấn công đồn Diêm Điền, lập tức trung đoàn Nguyễn Huệ liền âm thầm mở cuộc bủa vây, bố trí các địa điểm phục kích chung quanh đồn, đồng thời trí các loại súng phóng tạc đạn, súng cối, và các loại trọng pháo đều nhắm vào đồn.Tối hôm đó, như thường lệ, vợ của Phạm Chánh lại vào đồn ngủ với viên trưởng đồn. Khoảng 2 giờ sáng, khi đặc công đã thi hành xong kế hoạch cắt hàng rào kẽm gai, gỡ xong một số mìn chung quanh đồn, vợ Phạm Chánh liền dùng lửa làm ám hiệu, để cho đặc công ở ngoài bò vào trong đồn.

Khi biết chắc đặc công CS đã bò vào sát đồn, viên trưởng đồn mới vùng dậy phóng ám hiệu cho các đơn vị phục kích đồng loạt khai hỏa phản công. Đến lúc bấy giờ, vợ của Phạm Chánh mới biết được kế hoạch của mình đã bại lộ, liền nhảy vào ôm ghì lấy viên đội trưởng. Giữa tiếng súng nổ ròn tứ phía như pháo ran, và tiếng súng cối nổ ì ầm chung quanh đồn, lúc bấy giờ hai ngườiø hãy còn trần truồng như nhọng, ôm nhau vật lộn xà ngầụ Cuối cùng viên trưởng đồn đã vớ được khẩu súng lục giấu sẵn dưới giường, bắn chết vợ của Phạm Chánh.

Sáng hôm sau, dư luận cả thành phố Đồng Hới đều xôn xao bàn tán về vụ quân CS Việt Minh đã tấn công hụt đồn Diêm Điền. Người ta cũng thì thào bàn tán không ngớt về chuyện vợ của Phạm Chánh, đã dùng Mỹ Nhân Kế, làm nội gián trong vụ tấn công đồn Diêm Điền, nhưng mưu sự bất thành, và người góa phụ, em dâu của TT Trí Quang, đã bị bắn chết tại trận trong lúc thân xác còn lõa lồ. Vài ngày sau, bà mẹ của Thích Trí Quang đã bị cơ quan an ninh địa phương bắt giam mấy tuần lễ liền, để tra vấn về vụ người con dâu làm nội ứng trong vụ đánh đồn Diêm Điền.
 
Nói về Phạm Minh, người em kế của Trí Quang, đã đi theo Việt Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Theo ký giả Robert Shaplen, đã viết trong quyển “The Lost Revolution” (Nhà x.b. Harper and Row, 1965), có đoạn kể rằng:
Khoảng tháng 5, 1964, sau khi nhà Ngô sụp đổ, người em trai kế của Trí Quang, tên Phạm Minh, vốn là một ủy viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo, đội tên “Thích Diệu Minh” đã cùng với một cán bộ của MTGPMN lén vào chùa Từ Đàm thăm Trí Quang... 
 

TRÍ QUANG BỊ BẮT

Để giúp đồng bào nắm vững được các hoạt động chánh trị thiên Cộng liên tục của Trí Quang, khởi từ thập niên 30 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay CSBV, tôi thiết tưởng cần phải mời bạn đọc theo tôi lùi về dĩ vãng, từ khi Trí Quang còn là một tu sĩ trẻ tuổi.
 
Tuy khởi đầu, cậu bé Phạm Quang nghèo khổ đã được HT Phổ Minh cho nương nhờ cửa Phật, để có chỗ ăn học. Ở Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết HT Phổ Minh là một vị cao tăng, đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tụ Nhưng ngài chỉ thông thạo Hán Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây học. Dù vậy, đến năm 1945, HT Phổ Minh lại không theo CSVM. Ngài đã ở lại vùng Pháp chiếm đóng, trong khi nhiều tăng sĩ Phật Giáo đã đi theo kháng chiến. Trong thời gian này, khoảng năm 1934, bác sĩ Lê Đình Thám (thân phụ của ông Lê Đình Duyên, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, cựu giáo sư trung học, cựu đổng lý Bộ Thông Tin, thời Nguyễn Khánh làm thủ tướng, cựu dân biểu thời đệ nhị Cộng Hòa), đã cùng với Thượng Tọa Thích Mật Thể lập ra trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào tạo tăng sĩ.
Ảnh: Việt gian Lê Đình Thám, cùng cái gọi là "gia đình Phật tử" với tên đại Việt gian Nguyễn Sinh Cung / Hồ Chí Minh).
 
Năm 1942, lúc đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi, đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, giám đốc trường.
 
Năm sau, 1943, Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp.
 
Nên biết HT Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc đảng này còn hoạt động trong bóng tối.


Mệt quá vào công viên ngủ,sư thì ngảo còn tiểu thì ngồi canh chừng ,sợ bị mần thịt


Sư ở Huế thì chống VNCH còn sư SG thì làm ngược lại,nội bộ của chúng còn chưa đoàn kết thì mong gì người ngoài?Điển hình là thích trí Quang và thích quảng Độ. Hai tên này không biết tên nào là thật tình yêu nước đây.
 
Đến năm 1945, sau khi VM cướp chánh quyền HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS, trong đó có Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...

Tên Lưu manh với danh vọng thành quốc sư của VGCS, nên ra công phá hoại Miền Nam VNCH. Sau khi bọn VGCS chiếm được Miền Nam, chúng loại trừ những tên lưu manh nguy hiểm giúp chúng cướp đoạt Miền Nam VNCH. Và Tên Thiện Minh bị chúng tra tấn đến chết trong tù để dạy cho những tên còn ước vọng làm quốc sư nên câm mõm chó, đừng giở trò đấu tranh. Vì thế, Trí Quang và Quảng Độ ngoan ngoãn như con chó trước chủ VGCS.
 
Về phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc kháng chiến”, và ra lịnh cho quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn v.v..., thì vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang trở về nơi sinh quán, làng Diêm Điền. Một thời gian ngắn sau, Trí Quang lại theo chân TT Thích Mật Thể ra Vinh. Nhưng Trí Quang chỉ ở Vinh có vài tháng, rồi lại quay trở về Diêm Điền, để giữ chức chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Bình.

Đến năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Đồng Hới, Trí Quang rời làng Diêm Điền, đến cư ngụ tại làng Trung Nghĩa, vì Diêm Điền nằm quá gần thành phố, nên rất khó khăn thực hiện công tác bí mật. Trong thời gian này, Trí Quang hoạt động cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú.
 
Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo và Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí Quang và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòạ Tuy bị trói giật cánh khủyu, nhưng không hiểu làm cách nào nửa đêm Nguyễn Tịch đã tự cởi trói và trốn thoát mất dạng. Ít lâu sau Trí Quang cũng đã được Pháp trả tự dọ Riêng tên Toại Béo, vì trong thời gian hoạt động cho VMCS, đã chỉ điểm cho CSVM giết hại nhiều anh em hoạt động chánh trị quốc gia chống CS, nên khi bị bắt, Toại Béo đã phải trả nợ máu. Quân Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn, rồi chặt đầu, đem bêu ở chân Cầu Dài, phía Nam thành phố Đồng Hớị Về sau, Pháp còn đem chiếc đầu lâu của Toại Béo về bêu ở cổng Quảng Bình Quan, nằm về phía Tây thành phố. Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang lại bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí mật và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh. Lần này Trí Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa.

Sau lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang nhận thấy quê hương Đồng Hới không còn là nơi dung thân với những hoạt động bí mật được nữa, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ đó, bề ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng ngấm ngầm bên trong ông vẫn tiếp tục hoạt động cho CSVM.

TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNH ( của VGCS)
 
Khoảng năm 1953, CSVM khởi sự chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Một mặt vẫn đánh nhau kịch liệt với Tây, mặt khác CSVM mở chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải ngoại, để áp lực Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình được CS lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạọ Ở miền Nam, Trí Quang đã hoạt động tích cực để ủng hộ ủy ban nàỵ
 
Đến năm 1954, sau Hiệp Định Genève, luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa Bình” để yểm trợ cho đường lối chánh trị của CSBV.
tên vg Nguyễn Hữu Thọ 

 
Ở Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế, do Trí Quang thành lập, ngay từ giây phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có sự tham gia của một số trí thức miền Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v... Lúc này ông Diệm đã về nước chấp chánh.

Ngày 29. 8. 54, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2 điểm: yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam, và phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève.
 
Gần một tháng sau, ngày 21. 9. 54, Phong Trào Hòa Bình (cho VGCS) tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc.

Trước tình thế đó, bắt buộc chánh phủ Ngô Đình Diệm phải tỏ thái độ.
 
Ngày 7.11.54, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào nàỵ
 
Ở Sài Gòn, LS Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị bắt.
Ở Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng lưới an ninh. Nhưng, ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn lại muốn nhân dịp này noi gương Gia Cát Lựơng, trổ tài “thất túng, thất cầm” Mạnh Hoạch. Ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Cẩn tin chắc rằng: với những tài liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữạ 
Đến ngày 9. 2. 55, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ra lịnh tống xuất 26 nhân vật đầu xỏ của PTHB ra Hải Phòng, trao cho CSBV. Nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến và Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Văn Đẳng... Như thế, ta không lấy làm lạ chẳng bao lâu sau, Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà Ngô trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh viện trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công ty bào chế thuốc tây OPV, tiền bạc vô như nước lụt! Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi giữ chức tỉnh trưởng.
 
Từ năm 1955 đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế.

Riêng Trí Quang thì được Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho thêm phần khang trang, mỹ lệ.
 
Nên biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”.
Đến đời vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “An Tôn Tự” bị coi như phạm húy). Vì là một ngôi cổ tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ, nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã bắt đầu bị hư mục.

Bởi thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung, nhất là dân Huế, không còn ai lấy làm lạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẩn đã đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với TT Trí Quang. 
Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm thêm hào quang và làm tăng thêm uy tín cho Trí Quang.

Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng Nhì Pháp trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã nắm gọn được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai lầm hoàn toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn. Ông đã chơi trò chánh trị, muốn bắt chước Gia Cát Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, nhưng rất tiếc, tài trí của ông Cẩn không sánh được với Khổng Minh. Còn Trí Quang lại là một tay cán bộ CS thâm căn cố đế, thì không bao giờ có thể trở thành Mạnh Hoạch được.

Như vậy, nói theo kiểu người Tây phương, ông Cẩn đã “đùa với lửa”, còn nói theo kiểu VN ta thì ông Cẩn đã chơi trò “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, chẳng trước thì sau anh em nhà ông Cẩn cũng sẽ bị Trí Quang tiêu diệt, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.

TRÍ QUANG VÀ CHẾ ĐỘ DIỆM
 
Cho đến nay ai cũng biết chế độ Ngô Đình Diệm đã bị quân đội, theo lệnh của Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, gỉa thuyết, nếu bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ Diệm thì dù cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc thêm ba đầu sáu tay cũng không làm nên chuyện. Nhưng trên thực tế, ta phải nhìn nhận rằng, lúc khởi đầu Trí Quang và Thiện Minh đã chủ động trong việc phản đối lệnh giới hạn việc treo cờ Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản năm 1963. Chẳng bao lâu sau cuộc phản đối này đã được sự hộ trợ tích cực của tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở Huế và một số tỉnh ở miền Trung, biến thành cuộc đấu tranh chánh trị, núp dưới danh nghĩa Phật Giáọ Đặc biệt nhất là sự yểm trợ của một số cán bộ cao cấp CS nằm vùng gồm: Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hồ Cầm...
 
Trong thời gian Trí Quang dùng Phật Giáo để đấu tranh, dân xứ Huế ai cũng thấy Võ Đình Cường, Nguyễn Trực, và Tống Hồ Cầm đều là những cánh tay mặt và tay trái của Trí Quang. Nhưng trên thực tế, các cán bộ CS cao cấp ấy đều là “cố vấn trực tiếp chỉ đạo” của Trí Quang. Vì thực chất Trí Quang chỉ là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học, với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình độ Hán học của một nhà Nho, và cũng không có chút hiểu biết gì về Tây học. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm thông dịch viên. Với căn bản đó, nên tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn hẹp, nhất là trên bình diện chánh trị quốc tế.

Xem hình

Theo hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng viên CS thâm niên. Cường đã được kết nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Viện đại học này tọa lạc ở gần đầu cầu Trương Minh giảng. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác tuyên vận trong giới Phật Giáo miền Trung.
 
Suốt trong thời gian từ 1947 cho đến 1965, Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần, nhưng đều được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự do.
 
Kể từ cuối năm 1963, tựa vào thế lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình Cường đã ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh của chế độ đệ nhị CH miền Nam.
 
Sau năm 1975, Võ Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của khối PG thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, tp HCM.

Về phần Thích Nhật Thiện, bí thư của Trí Quang, tuy là tay chân thân tín của Trí Quang, nhưng sau ngày 30.4.75, cũng đã bị CSBV bắt giam để điều tra, vì bị tình nghi đã hoạt động gián điệp cho CIA Mỹ.
 
CSBV đã căn cứ trên sự kiện, đêm ngày 22. 8. 63, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Công An Cảnh Sát vây bắt tất cả sư sãi trong các chùa Xá Lợi, An Quang, Theraveda... không một ai thoát được, duy chỉ có Trí Quang, đã nhờ Thích Nhật Thiện đem đi trốn trong cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ. (Trong tác phẩm VNNC của Trần Văn Đôn cũng có ghi điều này).

Vậy, phải chăng Thích Nhật Thiện đã có móc ngoặc với CIA Mỹ?
 
Còn Trí Quang thì sao? Đó là những vấn nạn trầm trọng cho cả hai thấy trò Trí Quang và Nhật Thiện!

Ngoài ra, tôi còn được biết thêm Thích Nhật Thiện, tên thật là Lê Mậu Chí, còn gọi là Hàm, sanh quán tại Thừa Thiên. Trước di cư năm 1954, Lê Mậu Chí đã làm công an thuộc ty CA Đồng Hới, rồi chuyển vào ty CA Khánh Hòạ Tại đây, vì gian díu tình ái lăng nhăng, Lê Mậu Chí đã bị đổi ra chi CA Sông Cầụ Không bao lâu sau, năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải luôn khỏi ngành CẠ Mất việc, Lê Mậu Chí mò vào Sài Gòn, xin xuất gia đầu Phật, và học thêm Anh Văn. Khoảng các năm 1963 đến 65, Thích Nhật Thiện trụ trì tại một ngôi chùa thuộc quận Nhì, gần khu chợ Cầu Muốị Trong thời gian này, khi ra tranh cử ở quận Nhì, tôi và Hồ Ngọc Cứ thường gặp 
¼Thích Nhật Thiện.

Theo dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ khởi đầu, lúc tháng 5. 1963 cho đến ngày miền Nam mất vào tay CSBV, người ta nhận ra các phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng Sản đã được Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng triệt để. Cao điểm của cuộc đấu tranh Phật giáo miền Trung đã đạt được là đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC” sặc mùi Cộng Sản, và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, do toàn cán bộ CS nằm vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến, chủ tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao Huy Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đang ở Pháp)...

Vì cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc sụa mùi CS, và lộ liễu quá, nên khó thu hút được các thành phần khác, nên chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như đảng CSVN cải danh thành đảng Lao Động vậy!

Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của HĐNDCQ, ra đời với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm mục tiêu thừa thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình trị áp bức nổi dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu mục tiêu lớn, toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa hiệp với một số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ TRỊ”, làm cho chế độ miền Nam bị tê liệt.

Trong thời gian, kể từ sau ngày 1.11.63 trở đi Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một lãnh chúa quyền khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể mặt. Điều này ai cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Dương Văn Minh, một cán bộ CS nằm vùng ở trong Nam giống hệt như Trí Quang nằm vùng ở miền Trung, đến giờ phút cuối cùng, ngày 30.4.75, vẫn còn phải “nhất bộ tam bái” đến “HOÀNG CUNG ẤN QUANG” chầu chực Trí Quang cả ngày lẫn đêm, để lãnh chỉ thị!

Căn cứ trên các sự kiện kể trên, ta mới có thể hiểu được cách chính xác, vì sao sau ngày chế độ nhà Ngô sụp đổ, các tay chân thân cận của gia đình họ Ngô như: BS Lê Khắc Quyến đã không bị kết tội “DƯ ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ”, Nguyễn Cao Thăng, đã kinh tài cho Ngô Đình Cẩn và đảng Cần Lao mà không bị rụng sợi lông chân nào, lại còn được hưởng trọn gia tài OPV của Cẩn để lại.

Riêng vụ nổ trước đài Phát Thanh Huế, chỉ riêng một mình thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng Nội An, cấp thừa hành của tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, bị đưa ra tòa truy tố và bị tù khổ sai chung thân. Trong khi đó, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, kiêm thị trưởng thành phố Huế, người chịu trách nhiệm toàn bộ hành chánh và an ninh tại địa phương lại được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, rồi về sau lại còn được chuyển về bộ Quốc Phòng giữ chức Công Cán Ủy Viên, thời tướng Đôn làm tổng trưởng.

Bạn đọc có biết tại sao không? Vì Đẳng vốn là tay chân bộ hạ thân tín từ lâu của Trí Quang trong các Phong Trào Hòa Bình đấy!

CẤU KẾT GIỮA TRÍ QUANG VÀ LÊ KHẮC QUYẾN


 
Trong phong trào Phật Giáo đấu tranh miền Trung năm 1963, do Trí Quang và một số tăng ni nằm vùng và toàn thể cán bộ CS trong chi bộ Thuận Hóa của Lê Khắc Quyến tích cực yểm trợ. Bọn CS nằm vùng này biết rõ hơn ai hết, các thầy trong chùa Từ Đàm chỉ có một số PT giới hạn, nhưng không có cán bộ xách động đấu tranh chuyên nghiệp. Bọn CS có cán bộ thành thạo việc xách động quần chúng, biết cách tổ chức đấu tranh có qui củ. Trong khi đó quần chúng VN đại đa số đều nghèo khổ, không có địa vị, nên thường dễ dàng nghe theo lời tuyên truyền rỉ tai, và dụ dỗ của CS nằm vùng. Nếu có kẻ nào cứng đầu, không nghe, bọn CS nằm vùng không ngần ngại gì áp dụng ngay biện pháp hù dọạ Có khi chúng dùng chính bàn tay của cơ quan an ninh và chánh quyền địa phương mù quáng, để thực thi những lời hăm dọa của chúng, khiến cho người dân thấp cổ bé họng chẳng còn biết nương tựa vào ai, phải khiếp sợ ngấm ngầm CS.

Ngay trong giai đoạn đầu, bọn cán bộ CS nằm vùng kể trên đã xuất hiện với lý do chính đáng là ủng hộ triệt để yêu sách của Phật Giáo, nguyện hy sinh tranh đấu cùng các tăng ni, Phật tử, rồi lại còn hô hào vận động thêm quần chúng tham gia đông đảo hơn nữạ Sau đó các thầy được đề cao lên đến tận chín tầng mây xanh, tưởng chừng như đức Phật Thích Ca sống lại cũng không bằng. Trong trường hợp này, dĩ nhiên các thầy đều không khỏi sướng rên lên. Vì các thầy đâu đã thành Phật hay Bồ Tát gì. Trong bụng ông thầy tu nào cũng vẫn có một phần cơm và một phần cứt như mọi chúng sinh thôi!

Từ đó các thầy chẳng khác nào những con cá đã ngậm phải lưỡi câu vô hình của bọn CS nằm vùng. Khi chợt biết ra, các thầy muốn nhả lưỡi câu trong họng cũng không còn kịp nữạ Vả lại, một khi đã được "thần thánh hoá" rồi còn ai dại gì muốn quay đầu trở lại, hiện nguyên hình làm một tên phàm phu tục tử nữả! Ay là chưa kể đến yếu tố TT Trí Quang chính là một cán bộ CS gộc. Điều này, tôi sẽ chứng minh trong một đoạn tớị Sau hơn 20 năm lưu vong, đồng bào tị nạn ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã biết hết cả rồi.

Trong đoạn này, tôi cần phải chứng minh cho mọi người thấy rõ cuộc đấu tranh của PG miền trung đã bị CS nằm vùng thao túng và lộng hành từ đầu đến cuối, như đang giữa thủ đô cờ đỏ sao vàng Hà Nộị Các sư Trí Quang, Thiện Minh chỉ là những kẻ cho mượn danh nghĩa, các chùa Từ Đàm, Diệu Đế chỉ là diễn trường của những vở bi hài kịch, và lá cờ PG chỉ là một cái vỏ bọc ngoài của một cái nhọt chánh trị đã tới hồi cương mủ, phải được xì ra.

Nếu bạn đọc là những người từng theo dõi thời cuộc nước nhà trong những tháng từ 5 đến 11, năm 1963, chắc hẳn chưa quên tờ báo "LẬP TRƯỜNG", với nhóm cán bộ CS nằm vùng đứng đầu là BS Lê Khắc Quyến. Ngay từ lúc này, chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh em nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đã đào tẩu thiên đàng CS, chạy qua Paris rồi!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình Cường, cư sĩ PG, tác gỉa cuốn "ÁNH ĐẠO VÀNG"... đã nhập cuộc. Hiện nay Lê Khắc Quyến đã chết rồi, nhưng các đồng chí của ông ta vẫn còn sống và đang hoạt động cho CS. Bây giờ Võ Đình Cường đang phụ trách báo "GIÁC NGỘ", ở đường Nguyễn Đình Chiểu, (tên cũ Phan Đình Phùng) là một tờ báo của tổ chức PG quốc doanh Hơn thế nữa, nhóm CS nằm vùng này lại còn lập ra một tổ chức nhân dân hoàn toàn rập khuôn theo kiểu CS, với cái danh xưng cũng nồng nặc mùi CS là: "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC". Chính Lê Khắc Quyến đã đứng tên chủ tịch của Hội Đồng. Nhóm ấy đã núp dưới danh nghĩa PG đấu tranh, lợi dụng tình thế rối loạn ở miền Trung, ngày 21. 9. 1964 đã tụ tập và kéo nhau đến đánh chiếm đài phát thanh Huế, đốt phá nhiều cơ sở chánh quyền ở Huế và Qui Nhơn... Đêm 23.1.65, bọn "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC" của Lê Khắc Quyến còn kéo nhau đến phòng thông tin Mỹ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ, gây thiệt hại trên 5000 quyển sách. Khi đó, ông phó lãnh sự Mỹ hay tin, đến nơi lo chữa cháy để cứu sách trong thư viện cũng đã bị bọn tay chân bộ hạ của Lê Khắc Quyến chọi đá vào ông ta, khiến ông ta đã bị thương trầm trọng, phải đưa vào nhà thương cấp cứụ Hành động lợi dụng danh nghĩa PG đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bọn Lê Khắc Quyến và HĐNDCQ của hắn đã phá rối nền trị an ở Huế đến cùng cực. Những ai đã từng ở Huế trong thời gian này đều không khỏi ngao ngán, tưởng chừng như là một nơi "VÔ CHÁNH PHỦ" hay CSBV sắp vào tiếp thu đến nơi rồi! Mặc dù Lê Khác Quyến và đồng bọn đã hành động phản bội quân dân miền Nam cách trắng trợn và công khai như thế - chỉ còn thiếu việc kéo cờ đỏ sao vàng lên Ngọ Môn Quan nữa mà thôi! - nhưng hắn vẫn không bị điều tra, và chẳng gặp chút khó khăn nào trước chánh quyền và luật pháp. Ngược lại, bọn độc tài quân phiệt Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu... vẫn còn trọng dụng và ưu đãi hắn.

Ngày 8. 9. 1964, Lê Khắc Quyến và Tôn Thất Hanh đã được bổ nhiệm vào cái gọi là: "THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUỐC GIA".

Sau đó Lê Khắc Quyến lại còn được đổi vào Sài Gòn cho làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính, trong Chợ Lớn. Vây, Lê Khắc Quyến là ai? Nhân dân cố đô Huế không ai lạ gì ông bác sĩ đã được hưởng nhiều ơn mưa móc nhất của gia đình nhà họ Ngô trong suốt 9 năm trời. Đồng thời người dân xứ Huế cũng thừa biết ông ta là người "thân với bên kia"! 
 

LÊ KHẮC QUYẾN LÀ AI?
 
Ngay từ khi ông Diệm chưa về nước chấp chánh, năm 1952, BS Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà họ Ngô mời làm y sĩ riêng cho thân mẫu của ông Diệm. Đến khi ông Diệm về nước, làm thủ tướng, rồi làm tổng thống, quyền uy lừng lẫy một thời, ở ngoài Trung, ông LK Quyến ra vào dinh Phủ Cam hàng ngày như ra vào nhà của ông. Ngoài những ưu đãi về vật chất và thế lực chánh trị, LK Quyến còn được ông Diệm tặng riêng cho một chiếc xe du lịch hiệu Mercedes, trị gía khoảng 200.000 đồng. Thời kỳ 1955-56, loại xe này được qui định là xa xỉ phẩm, cấm nhập cảng cho quần chúng xử dụng. Xe đó thuộc chế độ ưu tiên nhập cảng, chỉ dành riêng cho chánh phủ và một số dân biểu gia nô trong quốc hội đệ nhất Cộng Hòa. Tưởng cũng nên nhắc lại một chút dữ kiện để bạn đọc trẻ tuởi ở hải ngoại dễ hình dung trị gía của số tiền 200.000 đồng VN thời 1955-56. Lúc ấy, người công chức chỉ được lãnh mỗi tháng khoảng 1.800 đồng. Với số lương đó, người ta có thể nuôi được vợ và một đứa con! Nhờ dựa vào thế lực nhà Ngô, LK Quyến còn được dạy học tại đại học Y Khoa Huế, và sau đó kiêm luôn chức khoa trưởng Y Khoa, thuộc viện đại học Huế.

Trong thời kỳ này chi bộ Thuận Hoá, dưới quyền chỉ huy của cán bộ LK Quyến vẫn âm thầm hoạt động, thật kín đáo, để không bị lộ tung tích. Dù bận rộn một lúc nhiều chức vụ, nhiều công việc quan trọng, như: y sĩ riêng cho bà thân mẫu TT Diệm, giáo sư, khoa trưởng phân khoa y học, bác sĩ LK Quyến vẫn cố gắng duy trì phòng mạch của ông, đã mở từ trước năm 1952, tại gần cửa Thượng Tứ, Huế. Vì chính nơi đây là trạm giao liên, đồng thời còn là trạm cứu thương, đặc biệt dành cho các cán bộ CS cao cấp thường lén về nằm điều trị. Phòng mạch của LK Quyến đã được trang bị chẳng khác nào như một bệnh xá, có nhiều giường điều trị, với đầy đủ tiện nghi tối tân cấp cứu và giải phẫu ngoại khoa.

Bệnh nhân, nếu là thường dân, muốn đến phòng mạch của BS Quyến để khám bệnh phải xin thẻ trước, lấy số trước, hoặc phải lấy ngày, giờ hẹn trước. Nhưng các cán bộ CS, đồng chí của BS thì được ưu tiên nhận bệnh và ưu tiên điều trị, không cần phải có một thủ tục nàọ Bởi các bệnh nhân đặc biệt ấy đã được thông báo trước bằng giao liên, hay bằng mật mã, ám hiệu, hoặc bằng khẩu hiệu đặc biệt của cơ sở, trong trường hợp nghiêm trọng và cấp bách. Tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình, cụ thể, mà tôi đã biết được. Dĩ nhiên, còn vô số trường hợp khác nữa, mà tôi không biết hết. Vào khoảng mùa Hè, năm 1952, một cán bộ CS hạng gộc, tên Oanh, thuộc xã Hương Bình, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, con ông Viên Tứ, khá nổi tiếng ở Huế, đã bị “cảm sốt cấp tính” rất nặng, có thể nguy đến tính mệnh, đã được BS Quyến đặc cách nhận bệnh, và chữa trị trong phòng riêng của phòng mạch, không ghi vào sổ nhận bệnh hay danh sách bệnh nhân. Tóm lại không để lại một dấu vết nào của tên Oanh trong hồ sơ.

Nhân viên trong phòng mạch của BS Quyến đều là cán bộ giao liên của CS. Ngoài một người y tá đàn ông, tên Nuôi, còn có một nữ y tá tên Thảo, người ở thôn Vỹ Dạ, Phú Vang, đã có chồng đi tập kết. Đến sau năm 1954, nữ y tá Thảo của BS Quyến cũng bỗng nhiên biến mất khỏi phòng mạch, không ai biết đi đâu, và cũng chẳng ai tìm ra tông tích. Về sau, trong thời kỳ Tết Mậu Thân, người dân đất Thần Kinh mới đột nhiên hoảng vía khi thấy vợ chồng nữ y tá Thảo thình lình xuất hiện. Theo tôi, người biết rõ tông tích của BS Lê Khác Quyến nhất, hiện nay còn đang sống ở Pháp, là ông Võ Như Nguyện, người đã từng giữ chức giám đốc Công An Trung Phần từ trước năm 1954. Còn thiếu tướng Đỗ Mậu, tuy đã từng nắm chức vụ giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một thời gian khá lâu dài, dưới thời đệ nhất CH, nhưng cũng đã tỏ ra không biết gì nhiều về mặt trái của LK Quyến. Có thể TT Đỗ Mậu đã e ngại tư thế của LK Quyến, y sĩ điều trị riêng cho thân mẫu của tổng thống Diệm, và là người đã được ông Cẩn rất trọng nể, nên không dám sờ đến.
 
Trong quyển hồi ký VNMLQHT, khi đề cập đến những biến động dữ dội tại miền Trung, dưới thời kỳ tướng râu dê Nguyễn Khánh cầm quyền, tác gỉa cũng chỉ nhận xét về BS Lê Khắc Quyến bằng một câu đơn giản như sau: "Trong hàng ngũ đấu tranh Phật Giáo, trước hết có các ông Lê Khắc Quyến, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một phần tử thân kháng chiến mà nhiều người ở Huế biết rõ." (trang 912).
 
Về mặt nổi LK Quyến làm chủ tịch HĐNDCQ, nhưng về mặt chìm, LK Quyến còn là chi bộ trưởng của chi bộ Thuận Hoá của CSBV.
 
Thành phần cán bộ đảng viên gồm những người có tên sau đây: Tướng Lê Văn Nghiêm, trước năm 1954, khi quân Pháp vừa thất trận Điện Biên Phủ, đồng thời cũng là lúc mặt trận chánh trị Quốc-Cộng ở VN đang sôi động nhất, đã vội vã đem dâng toàn bộ bản đồ hành quân, có chấm tọa độ sẵn, trao cho người thân tín đem ra khu cho CS. Người đó là thầu khoán Nguyễn Ngọc Bang, một đồng chí của Lê Khắc Quyến và Lê Văn Nghiêm.
 
Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiêm đang mang lon trung tá. Ông ta vốn xuất thân lính khố xanh. Nhờ đã lập được nhiều công trạng hữu ích cho cách mạng từ nhiều năm qua, nên sau năm 1975, cựu tướng Lê Văn Nghiêm đã không bị quân CSBV bắt đi học tập cải tạo như hàng trăm ngàn sĩ quan khác trong quân đội Ngụy quyền miền Nam. Ông ta đã được CSBV ưu đãi cho ở nhà hú hí với vợ con, tại đường Lý Thường Kiệt, ở Huế, cho đến khi chết. Lê Văn Nghiêm vốn là bạn thân với BS Lê Khắc Quyến, Nguyễn Ngọc Bang và  Nguyễn Ngọc Bang vốn làm nghề thầu khoán xây cất, khá nổi¼Thân Trọng Phước tiếng ở miền Trung. Vào khoảng năm 1984, Nguyễn Ngọc Bang đã được sang Mỹ tị nạn theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng ông ta đã qua đời khoảng năm 1991.

Một cán bộ CS khác tên Trí, làm nghề thợ mộc, có xưởng mộc tại đường Nguyễn Hoàng (tên cũ) ở Huế. Trong vụ tàn sát ở Huế dịp tết Mậu Thân, tên Trí đã lập thành tích lớn, một tay đã giết khá nhiều người.Theo hồi ký của tướng CS Lê Minh (nay đã chết) có đoạn ghi nguyên văn như sau: ”Riêng chuẩn bị cho Mậu Thân chúng tôi đã đưa 200 khẩu súng với chất nổ C4 vào bên trong nhà anh Lê Hữu Trí, Minh-Cận đều chứa vũ khí ”.Ngoài ra, tôi còn được biết thêm: Tên Trí đã hoạt động cho CS từ thời Pháp còn ở VN, rồi đến đệ nhất và đệ nhị CH không hề bị khó dễ. Tôi càng ngạc nhiên khi thấy các cơ quan an ninh dân sự lẫn quân sự đều làm lơ trước những hành động phi pháp của hắn. Tôi thấy, trước khi vụ tết Mậu Thân diễn ra, nếu chính quyền VNCH ở địa phương bắt tên Trí và đồng bọn, thì hàng vạn đồng bào ở cố đô Huế đâu đã bị chết thảm trong bàn tay tàn ác của quân CSBV! (Vậy mà tướng Trưởng, lúc bấy giờ là người có trách nhiệm bảo vệ Huế, còn dám trơ trẽn chạy tội, tuyên bố với báo chí là ông ta đã áp dụng chiến thuật... ” dụ địch”! Tội ấy với lời nói ngu xuẩn này thực đáng đem ra xử bắn tại chỗ theo quân pháp ).
 
Sau ngày 30.4. 75, người dân xứ Huế đã thấy tên thợ mộc Trí, một đồng chí trong chi bộ Thuận Hóa của BS Quyến, đã xuất hiện hoạt động công khai cho chánh quyền CS tại địa phương. Ngoài ra, chi bộ Thuận Hoá của BS Quyến còn có 2 vợ chồng tên Hiển, làm nghề bào chế thuốc tây (préparateur en pharmacie).
 
Vào khoảng năm 1950-51, tên Hiển đã bị Tây hành quân, phục kích bắn chết trong một đêm kia tại bến đò "BA BẾN", nằm về phía quận Hương Thủỵ Còn người vợ của Hiển, sau đó cũng đã bị khai trừ ra khỏi đảng, không hiểu vì lý do gì. Hiện nay người đàn bà này đang sống tị nạn tại Canada, gần chỗ tị nạn của mấy người con của BS Quyến, và mấy người con của tướng Lê Văn Nghiêm.Nếu bạn đọc còn chưa hài lòng về những thành tích nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma CS của bác sĩ Lê Khắc Quyến, thì đây, tôi xin kể tiếp một bằng chứng nữa:Chuyện không may này bất ngờ đã xảy ra vào khoảng cuối năm 1962. Hôm ấy, ty Công An tỉnh Thừa Thiên đã trình sang tòa hành chánh tỉnh một công văn "MẬT" có liên quan đến BS Quyến. Người tiếp phát công văn "MẬT" ấy là Công Tằng Tôn Nữ Như, một nữ tu xuất, em của ông Bửu Đồng (ở Đức*) và là chị của ông Bửu Sao (ở Orlando, Mỹ), con ông Ưng Trạo, có trách nhiệm trước tiên vô sổ công văn, ghi trích yếu, rồi mới phân phối ra, đệ trình lên cấp thẩm quyền giải quyết. vì công văn "MẬT" này có tầm mức quan trọng đặc biệt, nên giới chức trong tòa tỉnh đã phải cấp tốc trình thẳng lên ngay cho ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng duyệt xét. Nội dung công văn MẬT ấy như sau:

-"Một xe chở đầy thuốc tây đã bị lật trên lộ trình Cầu Hai - Lăng Cô, quốc lộ 1, thuộc địa phận quận Phú Lộc. Người phụ trách chuyến xe chở thuốc tây này tên là Phạm Văn Nhân, nhân viên tùng sự tại bệnh viện Huế. Trong cuộc thẩm vấn sơ khởi của công an, Phạm Văn Nhân khai là chở thuốc tây cung cấp cho chi y tế quận Phú lộc, theo lệnh của BS Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện..."Theo tường trình của công an tỉnh thì lời khai của Phạm Văn Nhân hoàn toàn sai sự thật. Vì 2 lẽ sau đây:- Vấn đề giao thuốc tây cho các Chi Y Tế thuộc phần việc và trách nhiệm của Ty Y Tế tỉnh, tuyệt nhiên không liên quan gì đến bệnh viện Huế, dưới quyền điều khiển của BS Quyến.

- Chi Y Tế Phú Lộc nằm tại Truồi, quận lỵ, chứ không phải Cầu Hai - Lăng Cô. Nên biết rằng từ Lăng Cô đến đèo Hải Vân không xa mấỵ Nơi đây vốn là địa điểm giao liên quan trọng của Cộng Sản suốt trong thời kỳ chiến tranh.Theo tường trình của công an tỉnh thì đây là vụ tiếp tế thuốc tây cho CS, và bởi thế nên công an đề nghị nên cần phải thẩm vấn BS Quyến, rồi lập các thủ tục cần thiết chiếu theo luật định.Vì công văn này chỉ là bản sơ trình, nên cần phải được cấp trên cho phép tiến hành thủ tục thẩm vấn, nhiên hậu mới có thể thiết lập hồ sơ theo luật định. Sau khi hồ sơ đã hoàn tất mới tái trình lên tòa tỉnh và các cơ quan thẩm quyền liên hệ, để thực hiện giai đoạn chót của thủ tục là truy tố can nhân và tòng phạm ra tòa án. Nhưng công văn MẬT này của Ty Công An tỉnh đã bị một bàn tay cao cấp nào đó trong guồng máy chánh quyền thủ tiêu luôn. Thế là nội vụ bị xử chìm xuồng, và tội tiếp tế thuốc tây cho CS của BS Quyến cũng được ếm nhẹm luôn.

Điều đáng nói thêm ở đây, nhân viên có trách nhiệm tải thuốc tây cho CS tên Phạm Văn Nhân lại chính là cháu ruột của Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ đang làm thủ tướng chánh phủ CSBV, anh em với giáo sư Việt Văn Phạm Văn Diêu, ở Sài Gòn. Anh Phạm Văn Diêu lớn hơn tôi vài tuổi và đã dạy chung với tôi trong nhiều trường tư thục ở Sài Gòn. Dịch vụ tiếp tế thuốc tây cho CS ở miền Nam, trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhất là dưới thời các tẩu tướng tham nhũng, thối nát cầm quyền, đã trở thành gần như "CÔNG KHAI PHỔ BIẾN". Chẳng tin, xin cứ hỏi các ông bà chủ các viện bào chế như: Trang Hai, La Thành Nghệ, Nguyễn Cao Thăng, Trương Văn Chôm, và các dược sĩ như: Ngô Khắc Tĩnh, Trần Văn Lắm, cựu chủ nhân nhà thuốc tây Cường Lắm, ở góc đường Thủ Khoa Huân và Lê Thánh Tôn, gần tiệm vàng con cọp Nguyễn Thế Tài...thì rõ!

Để có một cái nhìn chính xác về biến động miền Trung, tôi nhận thấy cá nhân ông Diệm là người có tư cách đạo đức hơn hẳn nhiều người khác mà tôi đã có dịp biết. Ông Ngô Đình Nhu xứng đáng là người trí thức, có mưu lược, tư tưởng phóng khoáng, quan niệm về tôn giáo và chánh trị rất dứt khoát. Hai ông ấy không cuồng tín và chủ trương kỳ thị tôn giáo như ông Ngô Đình Thục. Nên nhớ là vào khoảng năm 1956-57, tổng thống Ngô Đình Diệm đã duyệt y việc thành lập Phật giáo thống nhất, cho phép các khuôn hội, Niệm Phật Đường mở cửa tự do, và các Phật tử trên toàn quốc dược tự do đi lại hành lễ, không có ai cản trở hay làm khó dễ điều gì.

Như thế chắc chắn lệnh cấm treo cờ trong dịp lể Phất Đản năm Qúi Mão là do sự đốc thúc của ông Thục. Ông Thục muốn phục vụ đắc lực "nước Chúa" của ông, nhưng không ngờ lại di hại cho toàn thể các em trong gia đình ông, khiến những người này đều bị chết thảm! Riêng ông Thục đã may mắn thoát thân, khỏi bị nhân dân đòi nợ máu, ngay trong khi biến cố trọng đại của đất nước còn đang diễn tiến.

Ngày xưa, nếu nhà vua mù quáng mà có được bầy tôi trung thành, nghĩa khí, như Biển Thước dám mắng tận mặt vua Tần Vũ Vương, thì dù cho ông vua có hôn mê, đần độn đến đâu cũng phải tỉnh ngộ, và đất nước lo gì không có ngày hưng thịnh. Ngược lại, ngay từ đầu, triều đình nhà Ngô đã bị bao vây bởi một số linh mục di cư chỉ biết có quyền lợi trước mắt. Đến khoảng cuối thập niên 50 sang đầu thập niên.