Saturday, May 23, 2009

GHPGVNTN- GIẤC MƠ LÃNH TỤ 27-37

GIẤC MƠ LÃNH TỤ



Phần 27/62



9. Nghĩ sao về 5 điều đòi hỏi của Phật giáo ?

Như thế trong 5 điều đòi hỏi của PG :

ạ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.

b. Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ Số 10.

c. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.

d. Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạọ

ẹ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.



Thì yêu cầu "cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo" không đúng với thực tế. Sử gia PG Lý Khôi Việt lại đi viết :"Chính trị VN suốt 100 năm nay, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ý nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ý nói Công giáo)".

Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đã thưà biết rõ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đã tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lý do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rõ để quay lại khúc phim lịch sử này ("Theo Đỗ Mậu" trong VNMLQHT thì TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm vì chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, còn ông chống độc tài quân phiệt vì chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG thì Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đã chấp nhận một cách nhanh chóng, vì những đòi hỏi đó phù hợp với tình trạng thực tế lúc đó của thời cuô.c.10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :
TT Thích Tâm Châu đã lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đã xử dụng Cảnh sát Dã chiến để ngăn chặn các cuộc biểu tình và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.

Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đòi hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư ký) và Đức Nghiệp (Phó thư ký). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.

Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Võ Đình Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơị Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật nàỵ Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đã thường dùng các phương thức sau đây : biểu tình bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêụ

Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi vì HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơị Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. Vì TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đã họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đã ký kết một thông cá chung gồm những diểm sau đây :


- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế: Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.

- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.

- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.

- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.

- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đình nạn nhân.


Thông cáo chung vừa được ký xong thì Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi ký tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nhìn thấy chữ ký của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầụ Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào :"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".

Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.

Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu tình và bị cảnh sát dàn chàọ Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợị Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay lòng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều thì ông Diệm càng bị mắc bẫỵ Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở đầụ 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máụ



11. Trò ảo thuật của TT Trí Quang :

Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày thì nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau :

"Để tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường ho.. Các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và đợi li.nh. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mớị Hãy theo dõi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".

Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đã ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện nàỵ

Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đình Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lý do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đỗ chính phủ. Lý do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung", do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu như trước.

Rất bực mình trước thủ đoạn này ông Nhu tìm cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu tình trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính tri.. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung Còn, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cô.ng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Hòa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lãnh tụ PG chống đốị Nhưng ông không đề phòng nổi mạng lưới mà cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.


12. Sự can thiệp của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đã quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sư..


ạ Âm mưu của Hà Nội :

Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đã hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn "giải phóng miền Nam". Sau đó, Đại hộ 3 ra Nghị Quyết tuyên bố : "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam". Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nhìn được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ ti.ch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau :"Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐ, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ".


Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước tình thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam N để chống lại sự xâm lăng của CS.


b. Đòi thiết lập các căn cứ quân sự :

Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng tình hình NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS". TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.

Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dư.. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lý do hòa hoãn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".

Phó TT Johnson tỏ ra không bằng lòng về sự từ chối nàỵ Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đã gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau :"Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đã nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược". PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 thì 2 ngày sau TT Diệm đã gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng". ("Hồ sơ mật Dinh Độc lập", Nguyễn Tiến Hưng).

Qua văn thư này, rõ ràng TT Diệm đã gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài lòng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. Tình hình quân sự ngày càng xấu đị

Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho tình hình quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự


c. Cái cạm bẫy được đưa ra :

Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lãnh sự tự liên lạc lấỵ Ông có cho công an theo dõị Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên tình báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.

Để có lý do hành động, TT Kennedy đã gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngaọi giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc trình khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữạ


d. Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :

Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu thì được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge trình ủy nhiệm thư lên ông Diê.m.Khi Lodge đến thì TT Diệm đã biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đã vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng. Sau khi trìh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đã từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức tình báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lãnh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đã móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh. Trong cuốn "Our Endless War Inside VN", Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc nàỵ Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.Trong khi Conein và các tướng lãnh VN hoạch định kế hoạch thì Lodge giả làm áp lực đòi ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vơ.. Ông cho biết nếu không làm thế thì Mỹ sẽ ngưng viện trơ.. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo đô.ng.

Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu "giải độc".

Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CSA "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôị Tôi đã đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đã thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp..."


Phần 28/62



* Tiễn đưa "ân nhân" :

Khi biến cố "chỉnh lý" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đã nói với các ký giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đã nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong thì bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đã làm nhóm PG đấu tranh khó chị

Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ



* Đòi nợ máu :

Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo SửLuận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đã nhận xét :

"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đã hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".

Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đòi nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :

- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Tháị

- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.

- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...


Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh còn do dư.. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân thì có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đã chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đã không dám đáp ứng đòi hỏi củ TT Trí Quang.


Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đã làm cuộc "chỉnh lý". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.

Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy thì còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đã ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 ngườị Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ


1. Vụ Phan Quang Đông :

Ngày 26/3/64, Tòa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.

Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và tình báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu th+ơng và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên tình báo của Pháp, nên PQD đã bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm thì Nguyễn Phương đã nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đình Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh

của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư vì đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc trình cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc trình được Đỗ Mậu trình lên TT Diệm và sau đó vụ này không còn nhắc tới nữạ

Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của hình luật để xử tử hình PQD và Ngô Đình Cẩn thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử hình ngày 28/3/64.


Phần dưới là một đoạn trích dẫn trong cuốn “Biến Động Miền Trung” của tác giả Liên Thành, cựu Thiếu Tá Trưởng Ty CSQG/QLVNCH, Thưà Thiên-Huế:


“Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên Cộng Sản: Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây. Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành Chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v.v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa thiên - Huế, đều phải có sự chấp thuận của Chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu.

“Trong khi đó thì tên điệp báo Việt Cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật Giáo. Từ khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân Sự, Hành Chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài Đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào.

“Ngay khi tiếng súng Cách Mạng 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ.

“Thừa Thiên- Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu. Hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt Cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là Ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là Ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được.

“Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng nầy là của một giai nhân quí phái nào đó ở đất Thần kinh. Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ ngoài Bắc. Những điệp viên của cơ quan nầy tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối Chính Trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội.

Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này. Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam.

“Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật Giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận.

“Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên Sĩ Quan:

- Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh.

Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:

- Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó Thiếu tướng lo cho họ.

“Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy nóc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ trước khi căn nhà màu hồng nầy bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những Điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc. Các cuộc biểu tình hoan hô Cách Mạng, đã đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quí Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm.”


Phần 29/62


2) Vụ Dương văn Hiếu :

Ngày 23/6/64, Tòa Án Cách Mạng tại Saigon lại xét xử vụ Dương Văn Hiếu, Tư lịnh Cảnh sát Đa(.c biệt và các cộng sự viên là Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái và Phan Khanh.

Ông Dương Va(n Hiếu là người phụ trách công tác phản gián để tìm ba('t các cán bộ CS na(`m vùng. Na(m 1958, trong một cuộc hành quân tại Quảng Ngãi, Trung doàn 4 của Sư đoàn 1 đã phát hiện 1 tài liệu bí mật của VC chôn giấu và cho cơ quan mật vụ của BS Trần Kim Tuyến biết. Dương Va(n Hiếu được cử đi và ông khám phá đó là một tài liệu ghi khóa mật mã của VC. Hiếu cho làm bản sao, chôn lại chỗ cũ và cho pháo binh ba('n vào để phá dấu vết đào bớị Nhờ vậy VC không nghi ngờ các khóa mật mã của họ đã bị khám phá.

Dùng các khóa mật mã ba('t được, Đoàn Công Tác Đa(.c Biệt Miền Trung của Hiếu đã giải mã hàng tra(m va(n kiện liên lạc giữa VC và nhờ đó phát hiện hàng tra(m cán bộ na(`m vùng của VC từ Quảng Trị tới Saigon. Trong các nhân viên cao cấp của VC bị ba('t có Cao Đa(ng Chiếm, Huỳnh Va(n Trọng, Trần Ngọc Hiền,... Nhóm TT Trí Quang đã có nhiều hồ sơ tố cáo Đoàn Công Tác Đa(.c Biệt Miền Trung đã ba('t giam người trái phép, trong đó có vụ lớn nhất là vụ Nguyễn Va(n Đạt ở Huế. Các lãnh tụ chùa Từ Đàm quả quyết Đạt đã bị ba('t oan, nhưng hồ sơ tình báo cho thấy Đạt chính là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên của VC. Có nhiều cán bộ VC hoạt động dưới quyền của Đạt đã làm tờ tự thú và xin trở về với chính phủ VNCH. Về sau, bịnh sốt rét của Đạt tái phát na(.ng, cơ quan an ninh đã cho Đạt về với gia đình và giúp cho phương tiện cứu chữạ

Ma(.c dù có những tài liệu minh chứng các hồ sơ do các ta(ng ni chùa Từ Đàm đưa ra tố cáo về việc ba('t giam trái phép đều liên hệ đến đa(.c công CS na(`m vùng, ngày 25/6/64 tòa tuyên án Dương Va(n Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 na(m khổ saị

Hậu quả của các bản án này là các nhân viên tình báo và an ninh ở miền Trung không còn dám ba('t các cán bộ na(`m vùng hoạt động trong các tổ chức PG nữa nên tình hình miền Trung đã trở nên rối loạn liên tục.

Các nhân viên tình báo cao cấp nói ra(`ng TT Trí Quang cương quyết loại trừ tất cả những nhân chứng biết rõ và na('m trong tay hồ sơ hoạt động cho CS của nhóm ông. Những người có tên trong danh sách đòi nợ máu của ông đều là những nhân chứng biết về sự liên hệ của ông với VC, trong đó Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông là 2 người biết nhiều chi tiết nhất. Tuy 2 nhân chứng này đã chết, nhưng cơ quan tình báo của VNCH và CIA đã lưu trữ đầy đủ hồ sơ hoạt động của nhóm nàỵ


Về chiến dịch "diệt dư đảng Cần Lao", VC cho biết :

"Hoạt động của ta từ sau hồi Diệm đổ diễn ra mạnh mẽ, đã kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả 3 vùng, từ rừng núi đến đồng ba(`ng, thành phố, tới giới tuyến giáp ranh vùng sâụ

"Trên cơ sở phong trào đấu tranh quần chúng, công tác xây dựng thực lực cách mạng cũng phát triển mạnh : Ở Thừa Thiên cơ sở chính trị đã ta(ng 40% so với na(m 1962, phong trào thanh niên ra vùng giải phóng tham gia cách mạng ngày một nhiềụ

"Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh, nổi lên là những cuộc đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân lao

động đòi trừng trị những tên ác ôn đầu sỏ có nợ máu với dân như tên Đỗ Cao Trí, đòi hạ bệ tên Nguyễn Quang Trung, tỉnh trưởng Quảng Tri.. Cuộc đấu tranh đòi xử tội tên Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông có tới 5 vạn người tham giạ Khi Nguyễn Khánh ra Huế bị quần chúng la ó, ném guốc, dép phải bỏ về Saigon" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn tha('ng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).

Sau vụ PG miền Trung bị dẹp tan vào tháng 6/1966, uy lực của TT Trí Quang không còn nữa, chính phủ đã ký sa('c lịnh ngày 31/10/66 giảm án khổ sai của các đương sự bị Tòa Án Cách Mạng kết án xuống còn 5 na(m khổ sai rồi qua na(m 1967 trả tự do hết.



* Thanh toán Công iáo và các đảng phái chống Cộng dưới danh nghĩa diệt trừ "dư đảng Cần Lao" :

Sau khi chế độ NĐ sụp đổ, TT Trí Quang cho lập ngay Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, phát xuất từ Huế, để tiếp tục cuộc "đấu tranh". Như chúng ta đã thấy, mục tiêu chiến lược của ông không phải là chống đàn áp PG; nghĩa là PG chỉ là con cờ của ông. "Chống đàn áp PG" chỉ là chiến thuật. Do đó, khi mục tiêu chiến thuật này được thỏa mãn, ông tạo mục tiêu mới ngay và xử dụng PG để đạt tới mục tiêu mới nàỵ Mục tiêu chiến thuật mới đó là "diệt dư đảng Cần Lao". Như đã nói, coi là "du đảng Cần Lao" tất cả mọi người theo Công giáo và bất cứ tổ chức nào chống hay không đồng quan điểm với ông. Về sau, các khẩu hiệu của nhóm PG cực đoan miền Trung ghi rõ "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo". Phải diệt xong CG và các đảng phái quốc gia chống Cộng mới có thể cướp chính quyền, vì đó là các đối thủ có thể nga(n cha(.n hoa(.c phá vỡ kế hoạch tiến công của ông. Vì thế, mới ra quân, ông và nhóm của ông đã chỉ thị cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc chĩa mũi dùi tha(?ng vào CG và các đảng phái quốc gia chống Cô.ng. TT Trí Quang không lường trước được phản ứng của CG, các đảng phái và các Phật tử chân chính, nhất là các tông phái miền Ba('c và miền nam.

1) Tạo lý do mới : Để xách động Phật tử đứng lên diệt "dư đảng Cần Lao TCG", ngày 3/8/64, TT Thích Thiện Minh dẫn một phái đoàn Phật tử đến ga(.p Tướng Nguyễn Khánh, đưa hồ sơ tố cáo tại các địa phương "dư đảng Cần Lao" đang "đàn áp PG" ở Quảng Nam và Đà Na(~ng : ba('t bớ Phật tử ở Duy Xuyên, đốt nhà ở Phước Tuy, sát hại Phật tử ở An Thạch, v.v... Sau khi điều tra, ban điều tra thấy ra(`ng những người bị ba('t đều là cán bộ CS na(`m vùng tổ chức phá rốị

2) Đánh phá các cơ sở CG : Áp đảo được chính quyền địa phương, Hội Đồng Nhâ Dân Cứu Quốc tại miền Trung quay mũi dùi tấn công tha(?ng vào CG. Các nhân viên CG trong các cơ quan công quyền bị phân biệt đối xử. Nhiều người bị ba('t, bị cất chức hay bị đổi đi xạ Các giáo xứ thường bị khiêu khích và đe dọạ Khi thấy nhóm PG miền Trung này quá lộng hành, các giáo xứ này đã liên kết để đối phó.


Ngày 26/8/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bất thần ra lịnh tấn công 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Na(~ng, đốt sạch nhà cửa, giết 11 người và gây thương tích cho 42 ngườị 2 giáo xứ này đã trở thành một bãi tha ma, nhà thờ và tượng ảnh bị đập nát, những cột nhà đen nám chơ vơ giữa đống tro tàn... Tướng Nguyễn Chánh Thi tuyên bố cứu trợ nhưng không cho bồi thường, viện lý do vụ thiệt hại này không phải lỗi của chính quyền. Ông cho điều tra qua loa rồi xếp luôn hồ sợ Người điều khiển cuộc đốt phá và chém giết "kiểu phong trào Va(n Thân" này là Hà Xuân Kỳ và Phan Xuân Huỵ Nhờ chỉ huy vụ chém giết và đốt phá này Huy được nhóm TT Trí Quang đưa ra làm dân biểu đơn vị Đà Na(~ng. Cũng trong ngày đó, các giáo xứ tại Qui Nhơn cũng bị đánh phá na(.ng nề, nhưng dân làng đã tự cứu lấy mình.


Được tin cầu cứu từ Đà Na(~ng và Quy Nhơn, ngày 27/8/64, khoảng 2000 giáo dân các xứ di cư đã đến bao vây Bộ Tổng tham mưu ở Saigon đòi ga(.p Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, yêu cầu giải quyết vụ Đà Na(~ng và Quy Nhơn, đòi phải có biện pháp đối với các tổ chức gây rốị Cuộc xô xát xảy ra làm 4 người bị ba('n chết và 11 người bị thương. Một toán đến Đài phát thanh đọc bản Tuyên ngôn chống Cộng và chống trung lập. Tại đây có một cuộc xô xát với học sinh Nguyễn Trường Tô.. Viện Hoá Đạo và Tòa Giám Mục đã đứng ra yêu cầu tín đồ giữ bình tĩnh và giữ hòa khí.

Ngày 28/8/64, Hội Đồng Nhân dân Cứu Quốc vây trường CG Nguyễn Bá Tòng, đập phá nhà in của trường, đốt phá tòa báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm. Hay tin này một số thanh niên CG di cư đã đến giải vâỵ Lực lượng Nhảy Dù được huy động đến để gàn xếp. Kết quả có 2 người chết và 48 người bị thương.


Ngày 29/8/64, Viện Hoá Đạo ra tuyên bố không muốn nhúng tay vào các vụ bạo động này nữa vì các nguyện vọng của PG đã được thỏa mãn thì bị TT Trí Quang và các Phật tử theo ông ở Huế phản ứng mạnh mẽ, nên ngày 1/9/64, TT Tâm Châu lại ra thông báo khác yêu cầu chính phủ phải dứt khoát với "các nhóm người phá hoại của chế độ cũ". Yêu cầu chính phủ đừng chụp mũ các Phật tử tranh đấu là du đãng để ba('t bớ. Ông dọa là nếu đến ngày 27/10/64 không giải quyết thì sẽ cho lịnh bải thị và bải khóạ

Để đáp lại, ngày 8/9/64 linh mục Hoàng Quỳnh, chủ tịch Khối Công Dân Công Giáp, gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một thư ngỏ yêu cầu chính phủ quan tâm đến các vụ tấn công các cơ sở CG trong những ngaỳ vừa qua, yêu cầu điều tra và giải quyết một cách vô tư các vụ tấn công các giáo xứ ở Đà Na(~ng và Quy Nhơn. Nếu chính phủ không vãn hồi được an ninh thì các giáo xứ CG ba('t buộc phải đứng ra tổ chức tự vê..


Ngày 21/9/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc cho lịnh tấn công Đài phát thanh Quy Nhơn và lùng ba('t "dư đảng Cần Lao". Ngày 27/9/64, TT Trí Quang và nhóm của ông ra lịnh mở các cuộc lùng ba('t "du đảng cần lao" tại Huế và các tỉnh Trung phần.


Ngày 25/9/64 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Saigon lại hô hoán ra(`ng "dư đảng Cần Lao" đang thuê lò rèn Lâm Hiệp Thành ở Xóm Củi rèn hàng ngàn con dao để chống cách ma.ng. Nhưng Phái Đoàn Viện Trợ Hoa Kỳ ra thông cáo nói rõ là số dao này do Phái Đoàn đa(.t ra để cung cấp cho Phủ Bình Định & Phát Triển phát cho nông dân chớ không phải cho "dư đảng Cần lao".

Từ khi các giáo xứ CG ba('t đầu tự tổ chức để bảo vệ chính họ thì Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc không còn lộng hành như trước nữạ Về vụ này các nhóm CG thân Cộng như Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn va(n Trung, Trương Bá Cần,...đã phản đối chủ trương tự vệ, nhưng các giáo xứ nghe họ thì cha('c đã tan hoang như Thanh Bồ và Đức Lợị


Phần 30/62



3) Vụ Linh mục Cao Văn Luận :


Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, là cái gai mà TT Trí Quang muốn nhổ ngay từ đầu, nhưng ông không dám nhổ ngay vì Linh mục Luận là người có công lớn trong việc xây dựng lên Viện Đại học Huế, ông lại được hầu hết các giáo sư và sinh viên yêu chuộng vì tính tình hòa nhả, có tinh thần phục vụ tích cực và bất vụ lợi... Trong thời gian PG đấu tranh lật đổ ông Diệm, ông không đứng về phe chính phủ. Nhưng sự hiện diện của ông lúc này gây trở ngại cho cuộc đấu tranh cướp chính quyền mà TT Trí Quang đang phát động vì Linh mục Luận không đồng ý đưa chính trị vào đại học. Ngoài ra, TT Trí Quang không muốn có một người CG nắm địa vị quan trọng trong Viện Đại học Huế, nhất là khi người đó là một linh mục. Viện Đại học Huế phải trở thành của PG. Vì thế, khi đã làm chủ được tình hình ở Huế và đa số các tỉnh miền Trung, TT Trí Quang liền ra lịnh cho các giáo sư thuộc phe ông trong Viện đại học dứt điểm vụ nàỵ Trước hết, nhóm này cho xuất bản tờ tuần báo Lập Trường để triển khai chủ trương của nhóm, cổ võ cho đường lối của TT Trí Quang và công khai chống chính phủ.

Ngày 18/9/64, một số giáo sư và sinh viên họp tại Viện Đại học yêu cầu Linh mục Luận từ chức để khỏi làm trở ngại cho chiến dịch bài trừ "Cần Lao" của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Một số sinh viên không đồng ý quan điểm của một số giáo sư nên đã làm kiến nghị phản đốị Một giáo sư đại diện cho phe PG đấu tranh trả lời rằng Linh mục Luận giống như một "ung thư" phải cắt để khỏi làm tê liệt thân thể. GS Lý Chánh Trung, tuy ủng hộ PG, nhưng cũng bất bình. Ông viết :

"Cái "ung thư" Cao Văn Luận đã mọc từ trong bào thai của Viện Đại học Huế. Nó đã khai sinh và làm cho trường thành bào thai dó. Cái "ung thư" đó đã lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mời mọc từng người về giúp Viện Đại học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáọ Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng "được"lắm chứ. Cái trường Y Khoa của BS Quyến, nếu không có niềm tin tưởng, cái gàn lì và công vận động của Cha Luận, làm sao thành hình ?

...



"Thực ra các anh đã "cách chức" Cha Luận vì Cha không dồng ý với các anh về mặt chính tri.. Như vậy Viện Đại học Huế đã biến thành một đảng chính trị rồị Và ai không đồng ý với các anh đều là "ung thư" phải mổ phăng đi cho..."dễ làm việc" có phải vậy không ?

"Các anh đòi hỏi dân chủ. Đòi hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng huênh hoang; bắt đầu làm chủ chân lý, 'xếp sòng cách mạng' " ("Ba năm xáo trộn"; Lý Chánh Trung; Nam Sơn, 1966; t. 108-112).

Tại Saigon, ngày 27/9/64, "Lực lượng Sinh viên Học sinh bảo vệ Giáo dục thuần túy" tập họp và biểu tình trước Viên Hóa Đạo yêu cầu "đưa chính trị ra khỏi học đường". Hội Đồng Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh Saigon họp ra quyết nghị chống việc các tổ chức chính trị xen lấn vaò học đường và lôi cuốn sinh viên vào các cuộc phiêu lưu chính tri.. Các tổ chức này bị phe PG cực đoan tố cáo là tay sai của "dư đảng Cần Lao".


4) Đánh tất cả những ai không đồng chủ trương :



Sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cất chức Tư lịnh Vùng I vì dung dưỡng phong trào ngụy hòa và sự lộng hành của nhóm PG cực đoan miền Trung, TT Trí Quang thấy thế dựa bị mất, đã mở cuộc phản công Hội Đồng Quân Lực và tiến tới cướp chính quyền. Trong chiến dịch mới này, TT Trí Quang không tha bất cứ tổ chức nào ông coi là "phản động", không đứng về phe của ông.

Về phía các đảng phái, người ta thấy chỉ có nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc hệ phái Nguyễn Tường Tam do Nguyễn Tường Hiếu lãnh đạo đã theo nhóm TT Trí Quang, còn đa số các đảng phái khác hoặc đứng ngoài cuộc chiến hoặc chống lạị Về phía báo chí, ngoại trừ một vài tờ báo của PG, hầu hết các báo không đồng ý về đường lối của TT Trí Quang. Các tông phái PG miền Nam rút ra khỏi phe đấu tranh như Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam... Ngay cả các tăng sĩ miền Bắc trong Viện Hóa Đạo cũng thường xuyên phản kháng. Trước tình trạng này, TT Trí Quang vẫn không xét lại hành động của ông mà còn ra lịnh tấn công bất cứ tổ chức hay cơ quan nào không chấp nhận chủ trương của ông.

Ngày 6/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đến đập phá tòa soạn báo Sống của Chu Tử, đốt xe đạp đậu trước và tố cáo báo này là tay sai "dư đảng Cần Lao". Ngày 8/4/66, Nghiệp đoàn Ký giả ra thông báo phản đốị

Ngày 9/4/66, VNQĐ Đà Nẵng đã ra thông cáo tố cáo Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đã phá trụ sở của họ và bắt đi các đảng viên.

Ngày 10/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng Đà Nẵng có trang bị súng tiểu liên và lựu đạn đã đến vây đánh giáo xứ Tam Tòa, nhưng nơi đây đã tự vệ vững chắc. Ngày 28/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ném lựu đạn vào nhà cha xứ Tam Tòạ

Ngày 16/4/66, vào sáng sớm, ông Chu Tử (Chu Văn Bình), chủ bút nhật báo Sống, vưa ra khỏi nhà thì bị bắn nhiều phát. Ngày 17/4/66, nhiều đoan` thể, tổ chức, giáo sư và sinh viên Luật khoa, Tổng hội sinh viên Saigon và Đà Lạt, các luật sư, nhà văn, nhà báo đã lên án vụ ám sát Chu Tử.

Ngày 21/4/66, VNQĐ họp tại Tòa Đô Chánh Saigon tố cáo các vụ đàn áp đảng viên tại Đà Nẵng, chê chánh quyền bất lực và quyết định tự vệ bằng võ lực. Cùng ngày VNQĐ Quảng Ngãi biểu tình chống khủng bố và bạo đô.ng.

Ngày 24/4/66, giáo dân Saigon, Thủ Đức và Đà Nẵng biểu tình chống khủng bố và bạo động, tố cáo chính phủ nhu nhược và đã đảo Cabot Lodgẹ

Ngày 27/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ám sát ông Phan Thuyết, Bí thư VNQĐ Đà Nẵng.

Ngày 2/5/66, trong khi các đảng viên VNQĐ và thanh niên làm lễ truy điệu ông Phan Thuyết thì tại Đã Nẵng đám tang của ông Thuyết bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đi xe Jeep xã súng bắn làm 2 người bị thương nă.ng.

Ngày 7/5/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ra lịnh cấm bán ở Huế và Đà Nẵng các nhật báo Chính Luận, Tự Do, Thời Luận và Tiền Tuyến vì cho rằng các báo này là của "dư đảng Cần Lao".

Ngày 14/5/66 tại Saigon, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đã ám sát ông Nguyễn Chữ, một đảng viên VNQĐ khi ông lên tiếng tố cáo các vụ bắt bớ đảng viên và phá trụ sở đảng tại Đà Nẵng.

Ngày 26/5/66, sinh viên Tô Lai Chánh, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên saigon bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt cóc vì Chánh và Tổng hội quyết định không tham gia vào cuộc nổi loạn của PG. Trước đó, Chánh và các sinh viên đã tuyệt thực phản đối và yêu cầu TT Thiện Minh chứng minh điều TT nói là sinh viê đã nhận tiền của chính phủ. Đến ngàu 30/5/66, Chánh được thả.

Ngoài ra, cùng lúc TT Trí Quang đi khai chiến với các tông phái PG khác. Ngày 29/5/66, ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, phải viết văn thư yêu cầu Tòa Đô Chánh Saigon cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa Xá Lợị

Ngày 2/4/66, trong cuộc biểu tình trước Đài phát thanh Saigon, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng hô to "Đả đảo Thích Tâm Châu và "Hoan hô Hồ Chí Minh".

Ngày 3/6/66, TT Trí Quang công khai lên án chính sách ôn hòa của TT Tâm Châu khiến TT Tâm Châu và Hộ Giác tức giận từ bỏ các chức vụ trong Viện Hóa Đạo.. TT Tâm Châu đã phải chạy ra Vũng Tàu hay vào Trung tâm Nhu đạo ở Quang Trung để trốn vì sợ bị ám sát.

Qua vài sự kiện trên, người ta đã bắt đầu thấy rõ rằng nhóm PG cực đoan miên Trung đã đi từ việc chụp mũ "dư đảng Cần lao" đến tố cáo là "tay sai chính quyền", rồi khủng bố, bắt giam, bắt cóc, ám sát, chiếm cơ quan công quyền, v.v... Họ đã dùng bất cứ pương tiện nào để đạt mục đích. Từ từ dân chúng bắt đầu chán ghét và họ mạnh dạng lên án. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng trở nên rối loạn, không còn kiểm soát được, mở đường cho chính quyền thanh toán.


Phần 31/62



Cướp chính quyền


Sau khi đã thỏa mãn tiếng kêu đòi nợ máu của nhóm TT Trí Quang xong, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ đến củng cố địa vị


* Hiến chương Vũng Tàu :

Vốn là một quân nhân thuần túy, Tướng Khánh không có kinh nghiệm về chính trị và nhất là không biết gì đến thủ đoạn và chiêu bài của CS, nên lầm tưởng rằng đưa những người mà nhóm của TT Trí Quang đòi nợ máu ra xử bắn và bỏ tù là có thể lấy lòng của nhóm PG cực đoan miền Trung. Ông không hiểu rằng "diệt dư đảng Cần Lao" chỉ là mục tiêu bề ngoài (biểu kiến), một chiêu bài để kích động quần chúng. Mục tiêu tối hậu là cướp chính quyền tại miền Nam VN. Vì thế, sau khi đưa Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông ra xử bắn (cùng ngày) và tuyên phạt khổ sai các thành phần bị đòi nợ máu trong danh sách của TT Trí Quang, Tướng Khánh tưởng rằng ông đã được PG ủng hộ nên thừa thắng xông lên và kết quả thật là thảm hạị

Ngày 16/8/64, Tướng Khánh cho triệu tập Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (HDQDCM) tại Vũng Tàu để công bố một bản Hiến Chương mớị Theo đó, sẽ có một Quốc hội lâm thời gồm 100 hội viên dân sự và 50 hội viên quân sự do HDQDCM chỉ đi.nh. HDQDCM vẫn là cơ quan quyền lực tối caọ và hội đồng này đã chỉ định Tướng Khánh làm Chủ tịch VNCH.

Nhiều người tin rằng tác giả của bản Hiến Chương trên là Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng của chính phủ Nguyễn Khánh. Hồng là một luật sư có tư cách đàng hoàng, được nhiều người yêu mến, nhưng về phương diện chính trị, ông được xếp vào loại những nhà lập thuyết, hoạch định đường lối và chính sách theo "luận", mang tính chât mờ mờ ảo ảo, chứ không theo thực tế.

Hiến Chương vừa được công bố thì bị chống đối ngaỵ Các đảng Đại Việt (BS Nguyễn Tôn Hoàn), Dân Chủ Xã Hội (Nguyễn Bảo Sơn) và VNQĐ (biệt bộ Nguyễn Tường Tam) lên tiếng công kích trước nhất, sau đó là Tổng hội Sinh viên Saigon và khối Công giáọ Tướng Khánh nhìn lại nhóm PG đấu tranh miền Trung thì nhóm này cũng chống đối luôn. Sinh viên Saigon là giới làm áp lực mạnh nhất đòi Tướng Khánh phải thu hồi Hiến Chương và thành lập chế độ dân chủ.

Ngày 26/8/64, sau 10 ngày ban hành Hiến Chương, HDQDCM tuyên bố thu hồi Hiến Chương và thiết lập các cơ chế dân chủ. Quân đội quay về cương vị quân sự của ho.. Tạm thời thành lập Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực gồm Tam Đầu Chế : Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh. Chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ nhưng phải tổ chức Quốc Dân Đại Hội trong vòng 2 tháng.



* Không còn chính phủ :

Lợi dụng cơ hội này, TT Trí Quang tuyên bố không chấp nhận cơ chế tạm thời nói trên và hô hào loại bỏ chế độ độc tài quân phiệt. Miền Trung gần như không còn chính phủ nữạ Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do TT Trí Quang điều động đã nổi loạn khắp nơi và làm chủ tình thế ở các tỉnh miền Trung, thay chính quyền cai tri.. Ngày 3/9/64, Tướng Dương Văn Minh và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh đã bay ra Huế trấn an phong trào PG. Lý Chánh Trung viết bài "Loạn để trị" trên tờ Tìm Hiểu số 2/10/64 mô tả giai đoạn này như sau :

"Vì rằng từ mấy tháng nay, nhất là từ cái ngày Hiến Chương Ô Cấp (Vũng Tàu), "thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý" bị đập đổ, ngươi dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của tự dọ Tự do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấụ Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng trận. Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều "thiện chí" bằng cái chính quyền này : xum xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi ngườị


"Nhưng tội thay, không làm ai vừa lòng cả.

"Nhưng còn chính quyền nữa đâu mà nói ! Ai cầm quyền hiện nay tại miền Nam ? Người Mỹ trả lời : Ông Nguyễn Khánh, rồi "Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực". Dưới Ban Lãnh Đạo Lâm Thời có một chính phủ xử lý thường vụ" trong 2 tháng (chỉ còn 1). Trong chính phủ này, có một ông Phó Thủ Tướng đã bôn đào, 2 ông Tổng Trưởng đã chấp nhận từ chức. Dưới nữa ta có các Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, v.v... Tất cả guồng máy hành chánh vẫn nằm đó, công chức cuối tháng vẫn lãnh lương dều đềụ Nhưng chính quyền, ôi chính quyền, mi ở nơi nao ?

"Ở Huế có cái Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (rồi Cứu Quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đã cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thê rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để "thỉnh ý" Hội Đồng đó. Hội Đồng thương thuyết tay ngang với Chính Phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, những Hội Đồng tương tự được thiết lập và người ta đã chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người "dư đảng Cần Lao" đến đầu thú nơi ông Tỉnh thì được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội Đồng thì được trả về Tỉnh.

"Thế thì ai cầm quyền trên đất nước này ? Và dựa vào đâu những cái Hội Đồng đó dám tự xưng là "nhân dân" ? Dân nào mà cử các ông ấy ?".

Chính trong thời gian này, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang đã thiêu rụi 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, tấn công các cơ sở ấn loát và báo chí của CG tại Saigon. Nếu không có sự đối kháng của Khối Công Dân CG (của linh mục Hoàng Quỳnh), các tổ chức CG tự vệ tại các giáo xứ thì nhiều tang thương chắc đã xảy rạ



* Thủ Tướng Trần Văn Hương :

Ngày 8/9/64, Tướng Khánh ban hành Quyết định số 7/BLDQGQL thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia với nhiệm vụ soạn thảo Hiến Chương, triệu tập Quốc Dân Đại Hội, tổ chức các cơ cấu quốc gia, cố vấn cho chính phủ và Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Lâm Thời Quân Lực. Thượng Hội Đồng này gồm đại diện của các tôn giáo và một số nhân sĩ. Về phía PG có Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Nguyễn Xuân Chữ, HồĐắc Thắng, Nguyễn Đình Luyện và Tôn Thất Hanh.

Sau đó Tướng Khánh nghĩ đến giáo sư Trần Văn Hương. Ông là người miền Nam, thanh liêm, đã từng chống ông Diệm và được giới PG miền Nam ủng hô.. Ông rất cương quyết, không nhượng bộ những hành vi phi pháp và bạo đô.ng. Cũng như đa số dân miền Nam, ông không đồng ý lối đấu tranh của TT Trí Quang. Người ta dùng ông để chống lại nhóm PG cực đoan miền Trung.

Ngày 9/9/64, Trần Văn Hương được cử làm Đô Trưởng Saigon thay thế Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm. Tuy là Đô trưởng nhưng ông được xếp ngang hàng như một Tổng trưởng.

Ngày 13/9/64, Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Saigon - Gia Định chiếm đóng một số trụ sở quan trọng như đài phát thanh, Phủ Thủ tướng...rồi lên tiếng đả kích Tướng Khánh là hèn nhát và mị dân. Tướng Đức nhân danh "Hội Đồng Quân Dân Cứu Quốc" tuyên bố vãn hồi trật tự bị phá hoại và uy quyền quốc gia đã bị miệt thi.. Tướng Đức nói không có đảo chánh mà chỉ biểu dương lực lươ.ng. Ngày 19/9/64, Tướng Đức và các sĩ quan theo ông bị cất chức. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang lại lộng hành hơn trước.

Ngày 20/10/64, Hiến Chương Lâm Thời được ban hành. Theo Hiến Chương này thì Quốc Dân Đại Hội có quyền lập pháp và cử Quốc Trưởng. Thủ Tướng do Quốc Trưởng chọn và phải được Quốc Dân Đại Hội chấp thuận.

Ngày 24/10/64, Thượng Hội Đồng Quốc Gia tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng VNCH theo Hiến Chương ngày 10/10/64. Tướng Nguyễn Khánh đệ đơn từ chức Thủ Tướng và từ giả chính quyền để trở về quân độị Ngày 31/10/64, giáo sư Trần Văn Hương được cử giữ chức Thủ Tướng.

Do sự đòi hỏi của mọi giới, ngày 13/11/64, Thủ Tướng Hương tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Quốc Gia là chính phủ cần phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị và tôn giáo, đưa tôn giáo ra khỏi chánh tri.. Lệnh dẹp các cuộc biểu tình và nổi loạn được ban hành ngay sau đó. Tướng Khánh được cử là Tổng tư lịnh quân độị

Để đối phó với thái độ cứng rắn của Thủ Tướng Hương, TT Trí Quang ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc biểu tình khắp nơi đả đảo chính phủ. Ngày 24/11/64, TT Tâm Châu gởi văn thư yêu cầu Thượng Hội Đồng Quốc Gia có thái độ với ông Hương. Ông Hương ra lịnh đóng cửa các trường học cho đến khi có lịnh mới và tuyên bố không lùi bước và sẽ dùng mọi cách để tái lập trật tự và uy quyền của quốc giạ Có 228 người biểu tình và gây rối bị bắt.

Ngày 29/11/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tổ chức đưa đám tang học sinh Lê Văn Ngọc bị chết trong cuộc biểu tình ngày 25/11/64. Cảnh sát khám thấy chiếc xe NDG.228 trong đoàn hộ tang có chở võ khí liền bắt giam một số ngườị Các cuộc biểu tình và bải khoá lại được tổ chức liên tục. Chính phủ ra lịnh đàn áp thẳng taỵ Các TT Tâm Châu, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác bắt đầu tuyệt thực. Viện Hoá Đạo đóng cửa ngưng hoạt đô.ng.

Tuy đã giao quyền cho chính quyền dân sự, ngày 18/12/64 Tướng Khánh lại cho thành lập Hội Đồng Quân Lực và ngày 20/12/64 Hội Đồng này tuyên bố bất tín nhiệm và giải tán Thương Hội Đồng Quốc Gia vì cho rằng Thượng Hội Đồng bị một số tướng lãnh có óc bè phái, bị mua chuộc, gây chia rẽ hàng ngũ quốc giạ Một số thành viên của Thượng Hội Đồng bị lưu giữ.. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Hương vẫn được tín nhiệm.

Tướng Đôn kể rằng khi đến Đà Lạt thì Tươ"ng Khánh than phiền là Thượng Hội Đồng gồm các tay chân thân tín của Dương Văn Minh và họ đã chống lại tất cả những quyết định của ông. Ông sẽ về Saigon để bắt tất cả "những tên phản động" đó. Thật vậy, Thượng Hội Đồng gồm nhiều đại diện của phe TT Trí Quang như Lê Khắc Quyến, Ngô Gia Hy, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Luyện, Hồ Đắc Thắng..., phe này luôn luôn tìm cách phá quấy chính phủ Hương khiến chính phủ này không làm gì được.


Phần 32/62



* Tướng Khánh và Mỹ :

Thấy cảnh tượng Thượng Hội Đồng Quốc Gia bị thanh toán như trở bàn tay, ngày 20/12/64, Đại sứ Hoa Kỳ lúc đó là Tướng Maxwell D. Taylor đã mời Tướng Khánh và một số tướng trẻ tới nhà Tướng Westmoreland. Trong bữa tiệc này, về phía VN người ta thấy có các Tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang. Về phía Mỹ có Đại sứ Maxwell D. Taylor và phụ tá của ông là Alexis Johnson. Tướng Taylor đã nói với các tướng Việt Nam :"Đêm nay, tại nhà của Tướng Westmoreland,tôi nói rõ cho các anh rằng Hoa Kỳ không còn muốn dung thứ cho những âm mưu gây ra tình trạng bất ổn nữa". Tướng Taylor tỏ ra khó chịu về việc bắt giữ các thành viên của Thượng Hội Đồng mà không hề hỏi ý kiến của ông tạ Ông nói nếu tình trạng này kéo dài thì Hoa Kỳ phải nghĩ đến việc cắt viện trợ

Tướng Khánh tỏ ra tức giận về những lời nói bộc trực của Taylor. Hôm sau, ông tuyên bố với báo chí :"Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn tủi nhục trong nô lệ ngoại bang". Sau đó, ông ra lịnh phóng thích vợ của Huỳnh Tấn Phát, một lãnh tụ cao cấp của MTGPMN, rồi gởi cho Huỳnh Tấn Phát một bức thư dề nghị liên hiệp. Ngay 28/1/65, Phát phúc thư, ca tụng Tướng Khánh có tinh thần bất khuất, không chịu áp lực của đế quốc và thực dân, và đề nghị Tướng Khánh cùng các bạn của ông tham gia MTGPMN. Tướng Khánh ngây thơ về chính trị đến mức không hiểu được MTGPMN chỉ là công cụ của Hà Nội hay sao và Huỳnh Tấn Phát chỉ là một tên hữu danh vô thực trong Mặt Trận, làm sao quyết định được việc ông đề nghị ? Cho đến nay, ông vẫn còn cho rằng nếu lúc đó ông không bị lật đổ thì "MTGPMN đã về với mình rồi và đã có hòa bình lâu rồi !". Tầm vóc của Tướng Khánh còn quá bé nhỏ, thua Ngô Đình Nhu xa lắc, nên Bắc Việt không muốn nói chuyện.



* Mượn gió bẻ măng :

Lợi dụng sự căng thảng giữa Tướng Khánh và Mỹ, Hà Nội đã chỉ thị các đặc công CS nằm vùng tấn công thẳng vào Mỹ và lập các tổ chức ngụy hòạ TT Trí Quang và Võ Đình Cường liền ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc hành đô.ng. Ngày 22/1/65, đoàn biểu tình kéo tới Tòa Đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi, đưa cao các biểu ngữ "Hãy để cho dân tộc Việt Nam tự quyết" và đả đảo Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN. Sau đó, đoàn biểu tình kéo tới đập phá thư viện Lincoln ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, trước Tòa Đô Chánh Saigon. Khoảng 100 người bị bắt. Thủ Tướng Hương phải xin lỗi Tòa Đại sứ Mỹ (thư viện Lincoln là tài sản của Hoa Kỳ) và đọc một bài hiệu triệu quốc dân ý thức trách nhiệm trước tình thế, tránh bạo động và lên án "lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng ni..." và "những trò khỉ của chúng".



* Quân đội quay trở lại :


Ngày 27/1/65, Hội Dồng Quân Lực ra tuyên cáo nói rằng Quân Đội đã trao quyền lại cho một chánh quyền dân sự, nhưng tình thế ngày càng rối ren hơn nên Quân Đội buộc lòng phải đứng ra lãnh trách nhiệm lịch sử. Hội Đồng ủy nhiệm cho Tướng Khánh giải quyết các cuộc khủng hoảng và tổ chức Quốc Dân Đại Hộị Thủ tướng Hương chấp nhận từ chức. Hạ được ông Hương, PG coi như đạt được thắng lợị

Được tin Quốc Dân Đại Hội được thành lập, khối PG tỏ vẻ phấn khởị Nhóm TT Trí Quang tin rằng nếu tổ chức Quốc Dân Đại Hội, phe của ông sẽ nắm đa số và quyết định mọi đường lối của quốc giạ Viện Hóa Đạo đưa ra một thông cáo tuyên bố ngưng các cuộc biểu tình và ra lịnh trở lại sinh hoạt bình thường. Các lãnh tụ PG tự động chấm dứt tuyệt thực.

Hôm 28/1/65, Hội Đồng Quân Lực ban hành quyết định lưu niệm Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và cử Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh quyền Thủ Tướng.

TT Trí Quang họp báo phân trần : PG không muốn chính quyền dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi PG là CS. PG không chống Mỹ nhưng VN không muốn bị hiểu lầm. Ông muốn tỏ thái độ hòa dịu để dànnh nổ lực đạt tháng lợi tại Quốc Dân Đại Hộị

Bất thần Không quân Mỹ ném bom miền Bắc ngày 7/2/65 và những ngaỳ kế tiếp. Hành động đột biến này của Mỹ là yếu tố thứ hai khiến TT Trí Quang phải ngưng tranh đấu để xét xem những diễn biến mới của tình hình và đợi chỉ thi..

Ngày 15/2/65, Tướng Khánh, nhân danh Hội Đồng Quân Lực, ban hành quyết định tuyển ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng và BS Phan Hy Quát làm Thủ Tướng. Chiều hôm đó Thủ Tướng trình diện thành phần chính phủ, trong đó Trần Quang Thuận làm Bộ trưởng Xã hội, Bùi Diễm làm Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng. Chính phủ này được coi là chính phủ PG, nên TT Trí Quang không chống chính phủ nữạ

Ngày 19/2/65, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Nguyễn Bảo Kiếm tổ chức đảo chánh dưới danh nghĩa Lực Lượng Bảo vệ Dân Tộc, đòi Nguyễn Khánh từ chức và trao quyền lại cho dân sư.. Cuộc đảo chánh bất thành. TT Tâm Châu lên đaì phát thanh kêu gọi Phật tử ủng hộ Hội Đồng Quân Lực. Tướng Thi cho rằng cuộc đảo chánh này do Đại sứ Maxwell Taylor xúi dục.

Kể từ khi Tướng Khánh chống lại Đại sứ Taylor, các tướng lãnh nhận thấy phải thay Tướng Khánh mới được Hoa Kỳ ủng hộ, nưng chưa có cơ hộị Nhân dịp có đảo chánh, Tướng Khánh đang lẫn tránh ở Ba Xuyên, Hội Đồng Quân Lực họp và quyết định cử Trung tướng Trầ Văn Minh làm Tổng tư lịnh Quân đội thay cho Tướng Khánh và bổ nhiệm ông làm Đại sứ Lưu đô.ng.



* Mở mặt trận mới : ngụy hòa

Khi đã có một chính phủ PG, TT Trí Quang không chống chính phủ nữa mà mở mặt trận mới : đòi Mỹ ngưng chiến tranh. Chiến dịch này nhằm chống lại việc Mỹ ném bom Bắc Việt và mở rộng hành quân ở miền Nam.

Ngày 27/2/65, TT Thích Quảng Liên, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, tuyên bố thành lập Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, yêu cầu chấm dứt chiến tranh VN và rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam.

Nhận ra đây là một phong trào ngụy hòa do các cán bộ CS nằm vùng giựt dây, các đảng phái quốc gia và đoàn thể tôn giáo khác đã phản ứng mạnh mẽ, yêu cầu chính phủ Quát có thái độ dứt khoát với các tổ chức ngụy hòạ Ngày 1/3/65, cính phủ Quát vội vàng tuyên bố : Chỉ nói chuyện hòa bình khi CS chấm dứt xâm lăng. VNCH cương quyết chống lại sự xăm lăng của CS để bảo vệ tự dọ Hôm sau, Pentagon tuyên bố tiếp tục dội bom Bắc Việt để ngăn chặn sự đem quân vào Nam của Bắc Việt. VNCH và Tòa Đại sứ Mỹ ra một thông cáo chung giải thích rằng phải oanh tạc các cơ sở quân sự ở Bắc Việt vì các cơ sở này yểm trợ cho cuộc xâm lăng miền Nam.

Mặc cho những lời giải thích trên, chiến dịch của PG đòi hòa bình vẫn được đẩy mạnh, các truyền đơn ngụy hòa được rãi khắp nơị Khi chiến dịch này lên cao độ, đãcó những cuộc tự thiêu đòi hòa bình : Thích Giác Thành tự thiêu sau Viện Hoá Đạo vì thấy cảnh tang tóc của chiến tranh; Ni cô Thích Huệ Thiên đổ xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân Gia Định, nhưng được cứu thoát. Ni cô cho biết bà muốn tự thiêu vì thấy những đau khổ do chiến tranh gây ra, v.v...

Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình đã gây khó khăn cho chính phủ Quát. Ông ra lịnh cho Tổng nha Cảnh sát có biện pháp ma.nh. Ngày 5/3/65, Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho đồng bào biết phong trào ngụy hòa do VC giựt dây tuy có nhiều tên khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là : làm suy yếu tinh thần chống Cộng của quân dân miền Nam và gây mâu thuẫn trong hàng ngũ quốc giạ Sau đây là những tên khác nhau của tổ chức này :


- Ủy Ban Vận Động Hòa Bình
- Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết
- Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng
- Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh
- Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc,.v.v...


Điều chắc chắn là TT Trí Quang đã thành lập Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, còn TT Quảng Liên thành lập Ủy ban Vận

Động Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết.

Do dư luận phản ứng mạnh mẽ, ngày 11/3/65, Viện Hoá Đạo phải ra thông cáo tuyên bố : Ủy ban Vận Động Hòa Bình do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hoá Đạọ Dựa vào thông cáo này, Bộ Nội vụ công bố danh sách 358 người đã ký tên vào kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình : 3 luật sư, 5 bác sĩ và dược sĩ, 5 kỹ sư, 11 ký giả, 20 giáo viên, 22 công chức, 64 buôn bán, 78 lao động, 24 sinh viên, 77 học sinh, v.v... Ngày 17/3/65, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức chủ tịch phong tràọ Cảnh sát liền được lịnh bắt một số nhân vật quan tro.ng. Ngày 19/3/65, 3 người thuộc Ủy ban Vận Động Hòa Bình bị trục xuất ra Bắc qua cầu Hiền Lương và họ được CS Bắc Việt đón rước rềnh rang : GS Tôn Thất Dương Kỵ, BS Thú Y Phạm Văn Huyến (thân phụ bà Ngô Bá Thành), và ký giả Cao Minh Chiếm.

Dù đã bị cảnh cáo như vậy nhưng các tổ chức ngụy hòa vẫn tiếp tục hoạt đô.ng. Một tổ chức có tên Khối Quốc Gia Chống Cộng được thành lập. Khối này gồm đại diện của Cao Đài, Phật Giáo Hòa hảo, Công Giáo và Tổng Giáo Hội Phật Giáo hợp thành. Ngày 2/6/65, do Trung tướng Nguyễn Thành Phương hướng dẫn, Khối đã đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu phải thành lập một chính phủ quốc gia chống Cộng và chống trung lập thật sự, giải tán chính phủ Quát vì có nhiều thành phần thân Cộng trong chính phủ này đã bảo trợ cho các tổ chức ngụy hòạ Một Ủy Ban Liên Tôn mới thành lập ra thông cáo tố cáo chính phủ Quát âm mưu ban hành một quy chế hạn chế quyền tự do tôn giáọ

Phong trào chống chính phủ Quát nổi lên khắp nơị Trước tình thế này Tổng nha Cảnh sát yêu cầu những người ký tên trong bản kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình phải ra trình diện.. Không chịu nổi áp lực, ngày 11/6/65, Quốc trưởng Sửu và Thủ tướng Quát đều từ chức, trao quyền lại cho Quân Độị Các tướng lãnh thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, ban hành Hiến chương mới và cử Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ.

Ngày 24/8/65, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đưa các thành phần của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết ra trước Tòa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử. Trong dịp này, nhiều bằng chứng được dưa ra cho thấy nhóm này đã thực sự hoạt động cho CS. Kết quả tòa tuyên phạt 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị án tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng chủ chốt là TT Quảng Liên thì không bị truy tố.

Khi tình hình miền Nam gặp khủng hoảng trầm trọng và đang lúc PG miền Trung đang đẩy mạnh chiến dịch ngụy hòa thì Hoa Kỳ đưa Cabot Lodge trở lại làm Đại sứ thay Maxwell Taylor. Ông đến trình ủy nhiệm thư ngày 25/8/65. Các nhà quan sát biết rằng kỳ này Lodge đến không phải là để "cứu PG" như lần trước, mà là để thanh toán con bài tôn giáo mà Hoa Kỳ đã lỡ dựng lên để làm chiêu bài lật đổ TT Diệm năm 1963. Số phận con bài PG cực đoan miền Trung coi như đã bị định đoạt.


Ngày 20/10/65, Edgar Hoover, Giám đốc CIA tuyên bố CS đang xúi giục biểu tình chống chính sách Mỹ tại VN và gia tăng các hoạt động phản chiến.

Bằng chứng về hoạt động của CS dưới danh nghĩa các phong trào đòi hòa bình ngụy tạo đã quá rõ khiến TT Trí Quang không chối cãi dược. Ông đành chịu im tiếng để cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ hành đô.ng. Nhưng ông chuẩn bị thời cơ để mở một cuộc tấn công mới nhằm cướp chính quyền.


Phần 33/62



* Ngòi thuốc súng :



Khi bị đánh tại miền Nam, nhóm PG cực đoan quay về vùng I vì nơi đây có Tướng Thi che chở.

Qua việc chính phủ Quát bị lật đổ và các phong trào ngụy hòa bị dẹp tan, nhóm TT Trí Quang nhận ra rằng các tôn giáo và đảng phái quốc gia là những lực lượng có thể phá vỡ các kê hoạch của ông, trước tiên là ông phải tấn công vào họ dưới danh nghĩa "diệt dư đảng Cần Lao". Các tông phái PG miền Bắc và miền Nam tách dần ra khỏi Giáo hội là một thiệt hại lớn, làm cho lực lượng đấu tranh yếu hẳn đị Để bù lại, nhóm này đã cố gắng củng cố lại lực lượng ở các tỉnh miền Trung, nhất là trong hàng ngũ quân nhân và sinh viên. Nhóm đã biến các Khuôn Bộ PG thành những Chi Bộ PG giống hệt như tổ chức của Đảng CS.

Nhắc lại, Đại tá Nguyễn Chánh Thi lưu vong mới trở về được 2 tháng thì được bổ nhiệm làm Tư lịnh phó Quân Đoàn I, dưới quyền của Tướng Khánh. Ông nhận chức vào ngày 14/12/64. Chính trong hoàn cảnh này ông đã hợp tác với Tướng Khánh làm cuộc "chỉnh lý" ngày 30/1/64. Ngày 14/11/64, Tướng Thi được Tướng Khánh cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Tôn Thất Xứng. Tướng Minh và Tướng Khánh đều hiểu rõ tính ngang bướng của Tướng Thi nên muốn đẩy ông đi một vùng xa xôi cho êm chuyện. Vả lại, miền Trung là vùng của TT Trí Quang, một người hay sinh sư.. Phải có một tướng ngang bướng như Tướng Thi mới ứng phó được. Nhưng khi nắm được Tư lịnh vùng I kiêm Đại biểu chính phủ tại miền Trung, Tướng Thi đã dựa vào lực lượng PG tại đây để củng cố tư thế và địa vị, còn TT Trí Quang dựa vào Tướng Thi để tổ chức cơ cấu địa phương, triển khai phong trào ngụy hòa và bài Mỹ dưới mọi hình thức. Sự kiện này làm các tướng VN và Hoa Kỳ bực mình.

Không thể kéo dài tìn trạng trên, ngày 11/3/66, Hội Đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã họp 5 tiếng đồng hồ liên tục tại Bộ Tổng tham mưu và công bố cho Tướng Thi nghỉ phép đi chữa bịnh mũi tại Hoa Kỳ. Ngày 13/3/66, Hội Đồng Tướng Lãnh lại tái họp bỏ phiếu với 32 thăm thuận và 4 thăm trắng cho Tướng Thi nghỉ việc. Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư lịnh sư doàn I, được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Thị


Khi thấy con gà quan trọng của PG bị loại, Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp khẩn cấp và công bố lập trường 4 điểm :


- Các tướng lãnh có công với "cách mạng" phải được trở lại quân độị
- Các tướng lãnh trở về cương vị quân sư..
- Lập chính phủ doàn kết.
- Bầu cử quốc hộị


Mục tiêu thực sự của bản tuyên bố này là đòi hỏi phải đưa các tướng PG trở lại chính quyền. Các cuộc biểu tình lại

được phát động để yêu cầu thỏa mản nguyện vọng của PG. Nhưng nhân lễ nhận chức Thị trưởng Đà Lạt của bà Nguyễn Thị Hậu vào ngày 19/3/66, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố các cuộc xuống đường hay đình công bãi thị chẳng ảnh hưởng gì tới chính phủ cả. Để đáp lại thách đố này, nhóm TT Trí Quang ra lịnh đình công và bãi thị khắp các tỉnh miền Trung, nhất là ở Huế. và Đà Nẵng. Sinh viên và học sinh ở Huế biểu tình chống Mỹ. Tòa Lãnh sự và các cơ quan của Mỹ tại Huế phải đóng cửa đề phòng phá hoạị

Ngày 14/3/66, Đại tá Sam Wilson và ông Ted Britton đến hỏi Tướng Thi rằng nếu đưa ông trở lại Đà Nẵng thì ông có thể ổn định tình hình không; Tướng Thi nói không chắc. Ngày 15/3/66, 2 Đại tá Phạm Văn Liễu và Nguyễn Ngọc Loan đưa Tướng Thi ra Đà Nẵng. Ông kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhưng TT Trí Quang không để ý tới chuyện đó. Vụ cất chức Tướng Thi chỉ là cái cớ để phát động đấu tranh trở lại mà thôi, mục tiêu chính là tiến tới nắm chính quyền.

Ngày 25/3/66, Tướng Kỳ tuyên bố các vụ lộn xộn miền Trung đã gây trở ngại cho việc tiếp tế cho dân chúng và vận tải quân nhụ Sau đó ông lại tuyên bố sẽ dùng biện pháp mạnh để đối phó nếu các vụ lộn xộn tràn làn.

Ngày 27/3/66, trong khi khoảng 20,000 người biểu tình ở Huế, Linh mục Hoàng Quỳnh của Khối Công Dân Công Giáo đã đòi hỏi phải lập chính phủ dân sự nhưng không muốn có bạo đô.ng. Ông cho rằng tổng tuyển cử ngay lúc này chưa thuân lợị PG Hòa Hảo, một số đảng phái chính trị và tổ chức sinh viên tại Saigon ra tuyên bố muốn tiến tới một chế độ dân chủ nhưng chống lại các vụ bạo đô.ng.

Mặc cho những lời tuyên bố và phản kháng trên, phong trào chống Mỹ vẫ tiếp tục được đẩy mạnh cùng lúc ở Huế và Saigon. Tại Huế cũng như tại Saigon, ngườita thấy các đoàn biểu tình đưa cao những biểu ngữ :


-
Down with US Obstruction

- We want Independence

- Nước VN của người VN

- Người Mỹ gây rối cho nhân dân VN,...


TT Trí Quang cho rằng 2 Tướng Thiệu và Kỳ dám chống lại PG là do có Mỹ đứng đàng sau nên phải chống Mỹ.

Ngày 5/4/66, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố muốn các vụ lộn xộn tại VN phải sớm giải quyết. Các lãnh tụ tôn giáo và chính trị nên hội ý với nhau để sớm có Hiến pháp dân chủ. Hoa Kỳ không can thiẹp vào các vấn đề nội bộ của VN. Mọi giải pháp đều do người VN quyết đi.nh.


* Phối hợp chiếntranh chính trị với chiến tranh quân sự :

Tại Huế và Đà Nẵng, nhóm TT Trí Quang đã phối hợp với một số cán bộ VC nằm vùng, các chính khách hoạt đầu và một số Phật tử cực đoan làm nồng cốt chỉ huy và thúc đẩy một cuộc nổi loạn cướp chính quyền, trong số này người ta thấy :


- Võ Đình Cường (cán bộ CS)
- Ngyễn Trực (cán bộ CS),
- Hoàng Phủ Ngọc Phan (cán bộ CS)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (cán bộ CS)
- Tống Hồ Cầm (cán bộ CS)
- Bùi Hữu Giao
- Nguyễn Tường Hiếu (VNQĐ hệ phái Nguyễn Tường Tam)
- Thái Đìn Quang
- Thái Doãn Trinh
- Hoàng Phúc
- Hoàng Thị Như Mai
- Nguyễn Văn Hảo
- Hoàng Ngọc Giàu (cán bộ CS)
- Lê Tuyên
- Ngô Văn Bằng
- Ngô Kha (cán bộ CS)
- Hà Xuân Kỳ (cán bộ CS)
- Tống Nhạn
- Phan Hàm (cán bộ CS)
- Tư Đồ Minh
- Nguyễn Văn Mẫn,
- Bửu Tôn...



Mọi kế hoạch hành động đều do Võ Đình Cường và Nguyễn Trực soạn thảo theo chỉ thị và hướng dẫn của Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy và Tư lịnh Quân khu Trị Thiên - Huế của CS.

Ngày 1/4/66, Trung tướng Phan Xuân Chiểu đã ra Huế để dàn xếp các vụ lộn xộn thì bị TT Trí Quang ra lịnh bắt làm con tin, không cho trở về Saigon. Tướng Thi kể lại rằng chính ông đã can thiệp để Tướng Chiểu được thả rạ Sau đó, các lực lượng quân đội theo phe TT Trí Quang đứng lên cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, hô hào dân chúng võ trang chống Thiệu - Kỳ. Tại Quảng Trị và Quảng Ngãi, quân đội còn giữ được.

Ngày 2/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho vây Đài phát thanh Saigon, hô khẩu hiệu "Đả đảo Thích Tâm Châu", "Hoan hô Hồ Chí Minh".

Ngày 3/4/66, Tướng Kỳ họp báo tuyên bố coi như Huế và Đà Nẵng đã mất vaò tay CS. BS Nguyễn văn Mẫn, Thị trưởng Ddà Nẵng, đã ra lịnh đình công bãi thị chống chính quyền trung ương và dùng công quỷ tổ chức biểu tình. Chiến dịch bài Mỹ được phát động để ly gián giữa VNCH và Đồng Minh nhằm cô lập VNCH. Tướng Kỳ cho biết sẽ đưa quân đội đến giải tỏa Đà Nẵng.


Phần 34/62

Đại tá Đàm Quang Yên, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà đã đứng hẳn về phía TT Trí Quang. Ông huấn luyện quân sự, cấp vũ khí cho các thanh niên Phật tử và tổ chức họ thành những đơn vị chiến đấụ Một số binh sĩ theo ông bỏ ngũ gia nhập lực lượng nàỵ Nhưng Đại tá Yên là một sĩ quan có trình độ kiến thức thấp, tính tình nông nỗi, nóng nảy nên không đủ khả năng làm được việc ông đang làm.

Hoa Kỳ ra lịnh tản cư các cơ quan của họ ra khỏi thị xã Đà Nẵng. Đại tá Yên cho thiết lập các công sự chiến đấu ở các chùa tại Đà Nẵng và hô hào dân chúng dùng mọi phương tiện để chống lại "quân đội Thiệu - Kỳ". Trong khi đó, Tướng Kỳ ban hành quyết định cất chức BS Nguyễn Văn Mẫn và cử Trung tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng Bình Long làm Thị trưởng Đà Nẵng.

Ngày 5/4/66, Tướng Kỳ đích thân dẫn 2 tiểu đoàn Dù ra Đà Nẵng hội đàm với Thiếu tướng Chuân và lên tiếng kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ. Khi Tướng Kỳ về Saigon thì các tiểu đoàn Dù được chuyển tạm vào căn cứ Chu Lai của Hoa Kỳ ở Quảng Tín, gần sát Đà Nẵng. BS Nguyễn Văn Mẫn và khoảng 400 binh sĩ kéo đến lập một căn cứ phòng thủ tại chùa Phổ Đà. Khi máy bay lượn trên thành phố rãi truyền đơn kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ diệt trừ các cuộc nổi loạn bị CS giựt dây thì chuông của chùa Phổ Đà, Tĩnh Hội, Vĩnh Hội, Phật Học, Phổ Thiên, Giảng Đường, Vu Lan...được khua lên inh ỏị Sau đó là tiếng trống, thùng thiếc, phèng la, mõ...kêu vang cả thành phố.

Trong lúc tình hình Đà Nẵng căng thẳng thì TT Tâm Châu tuyên bố trước khoảng 10 ngàn Phật tử rằng ông vẫn chủ trương tiếp tục đấu tranh ôn hòa và đòi trong 3 tháng phải có chính phủ dân cử và Quốc Hộị Ông sẵn sàng lãnh những viên đạn của những kẻ quá khích. Một cuộc thương lượng giữa chính phủ và Viện Hóa Đạo được xúc tiế nhanh chóng và có kết quả. Để đổi lại, chính phủ hứa sẽ không bắt bớ những người nổi loạn có võ trang và rút quân khỏi Đà Nẵng. Đại hội Phật giáo Thế giới đang họp tại Tích Lan đã lên tiếng ủng hộ lập trường của TT Tâm Châụ Ngày 9/5/66, Hòa Thượng Tổng thư ký Hội Tăng già Tích Lan đã gởi cho TT Tâm Châu một văn thư khen ngợi và tỏ ý hoan hỷ khi biết TT đã tránh được cho PG một cuộc chiến tranh với chính phủ. Nhưng ngược lại, việc này đã làm cho TT Trí Quang nổi giận. TT Trí Quang công khai chỉ trích Viện Hóa Đạo và tuyên bố không chấp nhận kết quả do Viện Hoá Đạo công bố, đòi bộ ba Thiệu - Kỳ - Có phải ra đdị

Ngày 8/4/66, TT Thích Thiện Minh tuyên bố lập "Ủy Ban Tranh Đấu Chống Chính Phủ" vì các tướng lãnh, nhất là Tướng Thiệu, đã không giữ lời cam kết. PG sẽ chống đến cùng, dù phải đổ máụ Khi TT Thiện Minh công khai tuyên chiến với chính quyền thì TT Trí Quang tuyên bố ngược lạị Ông kêu gọi Phật tử tạm ngưng các cuộc đấu tranh ở Huế và Đà Nẵng để đợi chính quyền giữ lời hứạ Lời kêu gọi này làm cho TT Thích Thiện Minh bực tức vô cùng.

Giữa 2 TT Trí Quang và Thiện Minh luôn có sự đối nghịch nhau, khi trống đánh xuôi thì kèn thổi ngược. TT Trí Quang lo sợ TT Thiện Minh cướp công đầu sau khi cuộc đấu tranh đem lại thắng lợi nên tìm cách gạt tất cả các tổ chức của TT Thiện Minh sang một bên. Mặc cho những chỉ thị ngược lại của TT Trí Quang, ngày 19-20/4/66, TT Thiện Minh mở các cuộc thuyết pháp liên lục tuyên bố PG đang bị khiêu khích, có thể có đảo chánh trong tuần tới, trừ khi chính phủ chấm dứt mọi hành động chống đối PG.

Ngày 9/4/66, Tướng Tôn Thất Đính được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Nguyễn văn Chuân. 2 tướng Thiệu và Kỳ đã nhờ Tướng Đính giải quyết vụ miền Trung vì tin rằng Tướng Đính là con gà của PG có thể làm công việc này được. Nhưng khi đến Huế, Tướng Đính lại theo phe TT Trí Quang và chửi 2 tướng Thiệu - Kỳ giữa ba quân.

Ngày 17/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ cách mạng bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chi, Tỉnh trưởng Quảng Nam và ông Quận trưởng quận Hòa Vang vì những người này không theo TT Trí Quang. Tại Đà Lạt, Lực Lượng này lại bắt giữ Đại úy Quân vụ Thị trấn, đốt quân xa và đuổi đánh Quân cảnh. Quân đội phải nổ súng.

Khi thấy nhóm PG cực đoan quá lộng hành, Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức đảng phái không còn im lặng được nữa, họ đã lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ. TT Thích Liễu Minh thuyết pháp tại Viện Hóa Đạo, khen ngợi thiện chí của chính quyền và yêu cầu Phật tử ngưng bạo động, ngưng đòi hòa bình vì "chưa đúng lúc". Khối Công Dân Công Giáo biểu tình ở Đà Nẵng, Thủ Đức và Saigon chống các cuộc bạo loạn ở miền Trung, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Đại sứ Cabot Lodgẹ Tổng Hội Sinh Viên Saigon lập Ủy Ban Bảo Vệ Tổ Quốc và Dân Quyền, chống lại các vụ lộng hành ở miền Trung.

Ngày 21/5/66. Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng của TT Trí Quang cho tung ra tại Huế, Đà Nẵng và Saigon một loại truyền đơn thăm dò. Truyền đơn kêu gọi đưa TT Trí Quang ra làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận là Thủ Tướng. Truyền đơn này đã cho thấy rõ mục tiêu và tham vọng của nhóm bạo đô.ng. Các cuộc náo loạn tại Huế, Đà Nẵng và Đà Lạt lại tiếp tục.

Bỗng nhiên báo chí Mỹ mở chiến dịch ca tụng TT Trí Quang như là một lãnh tụ chính trị lỗi lạc của VN, có thể trở thành Quốc Trưởng.. Mục tiêu của chiến dịch này nhằm thúc đẩy các lực lượng đấu tranh võ trang tiến xa hơn một chút nữa, gây náo loạn và bất mãn trong quần chúng để Tướng Kỳ có lý do xử dụng quân đội đánh dẹp. TT Trí Quang và nhóm của ông không ý thức được chiến dịch thâm hiểm này nên thừa thắng xông lên. Đại tá Yên, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà, một đệ tử của TT Trí Quang, đã phối hợp các lực lượng Phật tử do ông huấn luyện và các binh sĩ bỏ ngũ thành những đơn vị chiến đấu, chiếm thành phố Đà Nẵng, biến 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà thành 2 căn cứ võ trang chống chính phủ.

Ở Huế, một lực lượng quân sự do Bửu Tôn thành lập đã thu nạp được một số binh sĩ và thanh niên Phật tử lên đến 2 tiểu đoàn. Bửu Tôn là Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử ở Huế, không biết gì về quân sự nhưng được TT Trí Quang và Võ Đình Cường tin cậy nên giao cho chỉ huy lực lượng võ trang. Lực lượng này làm chủ tình hình ở Huế, ban hành mọi mệnh lệnh và muốn bắt ai giam cũng được. Bửu Tôn đã nhiều lần đem quân tấn công các giáo xứ CG tại quận Phú Vang vì cho rằng các giáo xứ này thân chính quyền. Các giáo xứ trên phải tổ chức tự vệ để cứu lấy mình vì Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Sư đoàn trưởng Sư đoàn I và Trung tá Trần Văn Khoa, Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế, không dám đá động đến lực lượng của Bửu Tôn. Tướng Nhuận chỉ cho một tiểu đoàn của Sư đoàn I vào Huế để bảo vệ các cơ sở của Hoa Kỳ.

Cũng như tại Huế, các giáo xứ CG tại Đà Nẵng phải tự động võ trang để tự vệ vì chính quyền đã nằm trong tay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng. Lực lượng này đã nhiều lần tấn công giáo xứ Tam Tòa trong thành phố Đà Nẵng nhưng bị đẩy luị Thỉnh thoảng lại xảy ra các cuộc giao tranh trong thành phố Đà Nẵng giữa lực lượng của TT Trí Quang và toán tự vệ CG. Các toán tự vệ này đã mở rộng phòng tuyến ra các đường Thống Nhất, Quang Trung, Nguyễn Hoàng, Trần Cao Vân, Khải Định, Gia Long, Đống Đa...để bảo vệ các giáo xứ Thạch Gián, Tam Tòa, Thanh Bình, Thanh Bồ và Đức Lợị Đường dọc theo biển đều do các tự vệ CG tuần tra nên rất an toàn. Thỉnh thoảng nhóm tự vệ CG phải mở thế công để áp đảo tinh thần làm cho lực lượng của TT Trí Quang không dám bung ra xa, nhờ vậy giáo dân sống an toàn.


Ngày 30/4/66, Đại sứ Lodge tuyên bố trở về Mỹ để thảo luận về tình hình VN. Các giới quan sát cho rằng số phận của nhóm PG cực đoan miền Trung đã gần kề.

Ngày 15/5/66 trong khi Cảnh sát mở cuộc lục soát các trung tâm phát xuất những vụ náo loạn tại Saigon như trụ sở Thanh Niên Phật Tử, Tổng Liên Đoàn Lao Động... TT Thiệu thông báo các cuộc hành quân tái lập an ninh trật tự ở Đà Nẵng đang tié'n hành. Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay thế Thiếu tướng Tôn Thất Đính làm Tư lịnh Quân đoàn Ị

Nghe Tướng Cao dược cử làm Tư lịnh vùng I, phe PG cực đoan miền Trung phản ứng mạnh mẽ vì Tướng Cao vừa là CG vừa là vị tướng trung thành với TT Diệm. Đây là thành phần mà TT Trí Quang tìm diệt. Vì thế khi nhậm chức tại Đà Nẵng, người ta thấy không có chỗ nào an toàn cho Tướng Cao cư ngu.. Ngày 17/5/66, khi Tướng Cao lên máy bay Hoa Kỳ đi thị sát Quân đoàn I thì Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức trong lực lượng đấu tranh của PG đã xã súng bắn nhưng không trúng. Xạ thủ trực thăng Hoa Kỳ đã dùng đại liên bắn lại khiến Thức chết tại chỗ và 6 binh sĩ khác bị thương.

Khi trở lại Saigon, Tướng Cao cho biết nếu không có các cố vấn Mỹ trong Quân đoàn đi sát hai bên thì có lẽ ông bị ám sát rồị Trong những ngày ở lại Đà Nẵng, ông tá túc trong căn cứ Hoa Kỳ và đi quan sát chiến trường bằng trực thăng Hoa Kỳ. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, sẽ chỉ huy các lực lượng Cảnh sát Dã chiến đánh chiếm các vị trí trong thành phố Đà Nẵng. Nhiệm vụ của Tướng Cao là để chống lại lực lượng PG, nhưng ông bất tuân thượng lịnh và quyết định thương lươ.ng. Tướng Kỳ muốn chấm dứt vai trò của Tướng Cao để đưa một tướng khác đến.

Trong vụ này, Tướng Cao có 2 lầm lỗi lớn khi nhận đi làm Tư lịnh vùng Ị Thứ nhất là ông không nhận ra dụng ý của 2 Tướng Thiệu - Kỳ. Hoa Kỳ đang cố tình gài cho phong trào PG miền Trung đi quá trớn rồi diệt chứ không muốn thương lượng dây dưạ Thương lượng với nhóm này chỉ mang hậu họa, vì bất cứ lúc nào họ cũng dưa ra mục tiêu mới để nói ngược và làm ngược dễ dàng. Trong khi đó Tướng Cao chỉ muốn đàm không muốn đánh, tức là đi ngược lại chủ trương của Mỹ và 2 tướng Thiệu - Kỳ. Thứ hai là ông tin tưởng rằng mình có thể thương lượng với nhóm PG cực đoan miền Trung. Ông không ý thức được rằng TT Trí Quang và nhóm của TT Trí Quang là những thành phần cực đoan, không bao giờ chấp nhận nói chuyện với ông vì ông vừa là CG vừa là thân tín của TT Diệm. Ông thuộc vào loại "dư đảng Cần Lao" gộc đang bị TT Trí Quang tìm diệt thì làm sao có thể nói chuyện với nhau được. Nếu cần người thương lượng thì 2 tướng Thiệu - Kỳ đã tìm người khác rồị Ông trở về Saigon an toàn là cả một sự may mắn.

Xác chết của Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức được dưa về Huế và được rước đi trên đường phố để kích động Phật tử và binh sĩ nổi loạn.

5 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến được chở bằng phi cơ ra Đà Nẵng đã mở cuộc hành quân chớp nhoáng tái chiếm thành phố Đà Nẵng, đài phát thanh và làm chủ tình thế. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang rút về đóng trong 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến kéo tới vây chùa Phổ Đà đòi thả 17 binh sĩ bị bắt. 14 binh sĩ được trả về với đầy đủ võ khí.


Phần 35/62



* Kêu cứu Hoa Kỳ :


Khi tình hình bắt đầu nguy ngập, ngày 15/5/66, từ Huế, TT Trí Quang đã gởi một điện văn nhờ TT Johnson can thiệp. Ông vẫn tin rằng Hoa ỳ sẽ ủng hộ PG như thời kỳ chống chính phủ Diệm. Trong điện văn ông kêu gọi "Chính phủ Hoa Kỳ cần tìm cách ngăn chặn cuộc đàn áp Phật giáo". Ngaỳ 17/5/66, TT Johnson đã tuyên bố với báo chí là chính phủ Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Quân đội VNCH để quân đội này có vai trò trọng yếu trong chính phủ tương laị Ông kêu gọi Quân lực VNCH chấm dứt nhanh chóng các vụ xâu xé nội bộ để lo chống Cộng và thực hiện dân chủ từng bước. Sau đó Ngoại trưởng Rusk đã thông báo cho TT Trí Quang biết Hoa Kỳ không thể can dự vào các vấn đề thuộc chủ quyền của VN và cũng không nhúng tay vào các vụ đàn áp đối lập của Tướng Kỳ. Ông khuyên nên tập trung nổ lực vào việc chống Cô.ng.

Ngày 20/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng kêu gọi TT Johnson can thiệp gấp. Ông yêu cầu Thủy quân Lục chiến Mỹ có hành động, nếu không sẽ cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng phá phi trường Đà Nẵng. Không nghe Hoa Kỳ trả lời gì, ngày 22/5/66 ông ra lịnh cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắn phá phi trường Đà Nẵng. 1 phi cơ Hoa Kỳ bị hư hại và một số binh sĩ Mỹ bị thương. Nhiều phi cơ phải bay đến các căn cứ khác. Các căn cứ quân sự Mỹ được lịnh nổ súng nếu bị tấn công.

Dùng áp lực quân sự không kết quả, ngày 25/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng yêu cầu TT Johnson và Quốc hội Mỹ ngưng yểm trợ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.



* Đà Nẵng được giải thoát :


Tướng Dư Quốc Đống được phái tới Đà Nẵng để chỉ huy chiếm lại thành phố. Ngày 18/5/6, Tướng Kỳ đã yêu cầu Viện Hóa Đạo kêu gọi các tăng sĩ ở Đà Nẵng đừng chứa chấp các lực lượng đấu tranh trong chùa hoặc rời khỏi 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà gấp.

Ngày 20/5/66, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra lịnh cho các Tướng Thi và Đính phải ra trình diện đồng thời đòi hỏi Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Tư lịnh Sư đoàn I, phải dứt khoát tư tưởng, không thể đứng ở giữa được.

Ngày 22/5/66, cuộc tấn công vào 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà bắt đầụ Chỉ trong 1 thời gian ngắn, khoảng 600 binh sĩ và thanh niên Phật tử ở trong chùa Phổ Đà và các vùng lân cận đã ra đầu hàng; 30 nhà báo bị bắt giữ làm con tin đã được cứu thoát. Tại chùa Tỉnh Hội, các binh sĩ và thanh niên Phật tử cũng buông súng; 4 phóng viên của UPI và AP được giải thoát. Hơn 1,000 khẩu súng các loại được tìm thấy trong chùa Tỉnh Hội và 30 xác chết đã sình thốị BS Nguyễn Văn Mẫn bị bắt dưa vào Saigon. Báo cáo sơ khởi cho biết có 76 người chết. Thiếu tướng Đính theo một số tàn quân chạy ra Huế.



* Huế kháng cự vô vọng :

Thanh toán xong Đà Nẵng,lực lượng Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến ra Huế bằng đường bộ qua đdèo Hải Vân. Lực lượng của Bửu Tôn phục kích 2 bên quốc lộ 1. Bửu Tôn cho thành lập 1 "Tiểu đoàn Quyết tử" lấy tên là Tiểu đoàn Nguyễn Trọng Thức để cố thủ Huế. Trung tá Trần Văn Khoa đem chừng 1,000 quân trung thành chính phủ về đóng ở Quận Hương Thủỵ Khi các đơn vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến vào Huế thì Tiểu đoàn Quyết tử bỏ súng chạỵ Quân đội chiếm thành phố dễ dàng.

Ngày 31/5/66, Tướng Hoàng Xuân Lãm được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Huỳnh Văn Caọ Trung tá Trần Văn Khoa đem quân trở lại Huế, công bố lịnh giới nghiêm và yêu cầu Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang đem vũ khí tới nạp. Bửu Tôn đầu hàng và đem 520 võ khí các loại ra nạp. An ninh Huế được tái lập. Bộ Tư lịnh Sư đoàn I rút khỏi Huế.


* Lá bài chót : đem bàn thờ Phật xuống đường :

Khi mặt quân sự hoàn toàn thất bại, ngày 6/6/66 TT Trí Quang ra lịnh cho Phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường và phát động chiến dịch tự thiêu :

- Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu ở chùa Diệu Đế (Huế)
- Cô Hồ Thị Châu tự thiêu ở Viện Hoá Đạọ
- Nữ sinh Nguyễn Thị vân tự thiêu ở chùa Thành Nội, Huế.
- Ni cô Thích Nữ Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hoá Đạọ
- Một em học sinh 15 tuổi tự thiêu ở Quảng Tri....


TT Trí Quang tin rằng Quân đội không dám đụng đến bàn thờ Phật và chiến dịch tự thiêu sẽ làm thế giới rúng động như năm 1963, nhưng ông đã lầm, thế giới vẫn ngậm câm. Còn về phần quân đội, Tướng Kỳ ra lịnh cho Cảnh sát Dã chiến và Thủy quân Lục chiến xúc tất cả các bàn thờ ở Huế cũng như ở Saigon. Ngày 3/6/66, phát ngôn viên của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon lên tiếng xác định : Đang có chiến dịch bạo động và tự thiêu nhằm áp lực chính phủ Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN, nhưng chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục giữ thái độ bất can thiệp như cũ.

Xử dụng mọi phương thức không đem lại kết quả, TT Trí Quang đành ngồi tuyệt thực. Trong khi đó, TT tâm Châu dẫn một Ủy ban Phật giáo mới thành lập gồm 6 người đến Dinh Gia Long gặp Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia để thương thuyết. Ông yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc đấu tranh để cùng chính quyền tổ chức các cơ cấu dân chủ, nhưng ngược lại 2 TT Thiện Minh và Trí Quang đều phản đốị Ngày 17/6/66, An ninh Quân đội đã bắt vợ của GS Lê Tuyên cùng một số sinh viên tranh đấu ở Huế và đưa TT Trí Quang lên máy bay về Saigon cho ở Bịnh viện Duy Tân của BS Nguyễn Duy Tài để "chữa bịnh và bảo vệ". Ngày 22/6/66, GS Lê Tuyên (hiện nay ở Mỹ) ra trình diện và bị bắt đưa vaò Saigon.

Kế quả cuộc tái chiếm Huế : 7 binh sĩ bị thương, tạm giữ 190 quân nhân ly khai, 109 công chức và 35 cảnh sát tham gia Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng.

Tướng Thi cho biết trong cuộc đánh chiếm Đà Nẵng và Huế nói trên có 242 người chết và bị thương.

Ngày 26/6/66, TT Trí Quang "tuân lịnh Đức Tăng Thống" đã ngưng tuyệt thực.

Ngày 27/6/66, Tướng Kỳ họp báo tại Huế nói : Công nhận "được làm Vua , thua làm giặc", nhưng không công nhận "được làm Vua, thua thì hoà".

GS Lê Tuyên bị bắt tại Huế ngày 21/6/66 đã tuyên bố trong cuộc họp báo rằng TT Trí Quang mới là người chủ động, ông chỉ là người thừa hành mà thôị


Phần 36/62


Vì quên một phần nói về sự tương quan giữa các tôn giáo khác và CS, ta tiếp tục phần này trước khi chấm dứt. Sự tàn sát và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và tôn giáo đối kháng để giữ địa vị độc tôn truyền bá chủ nghĩa CS là mục đích chính của CS qua các thời đạị Để mở rộng tầm ảnh hưởng qua mỗi thời kỳ, CSVN đã nương theo các chiêu bài như chống Pháp cứu nước, chống Mỹ cứu nước nhằm gôm tất cả dưới một mái nhà CS. Do biết mưu đồ này các tôn giáo và đảng phái đã quy tụ về phương Nam thành lập một quốc gia VN mới không CS. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa của sự thành lập VNCH. Sau 1975, PG là nạn nhân sau cùng.

Lịch sử đã cho thấy có nhiều tôn giáo chống CS rất mạnh mẽ. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH), Cao Đài và Công giáo đã tham gia Mặt Trận Việt Minh (VM) với tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm thực sự theo đúng ý nghĩa vì một quốc gia VN tự do và hạnh phúc. Nhưng khi họ nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng sản Đông Dương thì đa số đã từ bỏ ngay VM.


Tại sao các tôn giáo Cao Đài, PGHH và Công giáo không tham gia VM ?



Trước hết VM chỉ là mặt nổi của Đảng CS Đông Dương. Các nhà lãnh đạo của các tôn giáo đều nhận thức rằng chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáọ Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo chống xâm lăng, CS chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôị Chính Mác đã từng nhận định :

"Tôn giáo là hơi thở của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng".

Mác còn tuyên bố :

"
Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân".

Nghĩa là Mác cho rằng tôn giáo chỉ là một hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi, nhân dân mới có hạnh phúc.

Ngoài chủ trương đó, với sự tráo trở khôn lường và phản trắc, Đảng CSĐ đã làm cho các tôn giáo trên dứt khoát với VC.

Sau khi HCM cướp chính quyền vào tháng 8/1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng CS đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp

đang mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong tình thế này, HCM đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1/1/1946, HCM thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân lâm thời với HCM làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó và một số bộ đã được dành cho các đảng phái quốc gia, nhưng CS vẫn kiểm soát được chính phủ mà không nhượng bộ bao nhiêu cho ho..

Ngày 6/3/1946, HCM ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, HCM quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo với sự trợ giúp của Pháp. Có 2 vụ tàn sát quy mô nhất :


Đó là vào đêm 27/6/1946. HCM ra lịnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái được xếp vào loại phản động trên toàn quốc, giết hoặc thủ tiêu các lãnh tụ cán bộ của các tổ chức nàỵ Con số bị giết tại chỗ hoặc thủ tiêu lên khoảng hàng ngàn ngườị Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoạ

Vụ tàn sát đêm 19/12/1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18/12/1946, Bộ Tư lịnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của VM tại Hà Nộị Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung và bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm tro.ng. Bộ tư lịnh Pháp liền ra mật lịnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự vê.. Vào khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, HCM ra lịnh nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công đồn Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ các đảng phái và tôn giáọ Số người bị giết kỳ này còn cao hơn lần trước.

Sau vụ này, đa số các sĩ phu và các tín đồ tôn giáo đã rời bỏ hàng ngũ VM và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng các tăng sĩ PG vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội PG Cứu Quốc.

Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, HCM quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng CSĐ họp từ 15-17/1/1948 có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau :

"Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v... Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậỵ

"Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạọ Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo, tín ngưỡng của giáo dân.

"Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhaụ Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành

cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản dộng, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động khuấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc". ("Lịch sử Đảng CSVN", nxb Sách Giáo khoa Mác-lênin, 1978, tr. 206-207).

Nhưng rồi sau khi giành lại được chính quyền, Đảng CSVN lại trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáọ Hà Nội có lần gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc họ về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn Chũ Nghĩa Vô Thần Khoa Học do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáọ Do các thủ đoạn tráo trở này mà các đảng phái quốc gia và tôn giáo kể trên đã không đứng chung hàng ngũ với CS.


Phần 37/62



Sự tương quan giữa các tôn giáo khác và CSVN

Sự tàn sát và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và tôn giáo đối kháng để giữ địa vị độc tôn truyền bá chủ nghĩa CS là mục đích chính của CS qua các cuộc chiến tại Việt Nam. Do đó, bắt đầu từ năm 1946, nhất là năm 1949 khi HCM bắt liên lạc được với quân của Mao Trạch Đông, nhiều người yêu nước đã bỏ hàng ngũ Việt Minh. Để mở rộng tầm ảnh hưởng qua mỗi thời kỳ đó, CSVN đã nương theo các chiêu bài như chống Pháp cứu nước, rồi kế đó chống Mỹ cứu nước nhằm gôm tất cả dưới một mái nhà CS. Do biết mưu đồ này, các tôn giáo và đảng phái dần dần đã quy tụ về phương Nam và vào năm 1954 họ đã thành lập một quốc gia VN mới không CS tức là VNCH, dưới sự trợ giúp của Mỹ .

Lịch sử đã cho thấy có nhiều tôn giáo chống CS rất mạnh mẽ. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một
số chức sắc và tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH), Cao Đài và Công giáo đã tham gia Mặt Trận Việt Minh (VM) với
tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm thực sự theo đúng ý nghĩa vì một quốc gia
VN tự do và hạnh phúc. Nhưng khi họ nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng sản Đông Dương thì đa số đã từ bỏ
ngay VM.



Tại sao các tôn giáo Cao Đài, PGHH và Công giáo không tham gia VM ?

Trước hết VM chỉ là mặt nổi của Đảng CS Đông Dương. Các nhà lãnh đạo của các tôn giáo đều nhận thức rằng chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáo. Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo chống xâm lăng, CS chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôị Chính Mác đã từng nhận định :

"Tôn giáo là hơi thở của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng".

Mác còn tuyên bố :

"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân".

Nghĩa là Mác cho rằng tôn giáo chỉ là một hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi, nhân dân mới có hạnh phúc.

Ngoài chủ trương đó, với sự tráo trở khôn lường và phản trắc, Đảng CSĐ đã làm cho các tôn giáo trên dứt khoát với VC.


Sau khi HCM cướp chính quyền vào tháng 8/1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng CS đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp đang mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông

Dương. Trong tình thế này, HCM đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1/1/1946, HCM thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân lâm thời với HCM làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó và một số bộ đã được dành cho các đảng phái quốc gia, nhưng CS vẫn kiểm soát được chính phủ mà không nhượng bộ bao nhiêu cho ho..


Ngày 6/3/1946, HCM ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, HCM quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo với sự trợ giúp của Pháp. Có 2 vụ tàn sát quy mô nhất :

Đó là vào đêm 27/6/1946. HCM ra lịnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái được xếp vào
loại phản động trên toàn quốc, giết hoặc thủ tiêu các lãnh tụ cán bộ của các tổ chức nàỵ Con số bị giết tại chỗ hoặc thủ tiêu lên khoảng hàng ngàn ngườị Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoạ

Vụ tàn sát đêm 19/12/1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18/12/1946, Bộ Tư lịnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của VM tại Hà Nộị Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung và bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm tro.ng. Bộ tư lịnh Pháp liền ra mật lịnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự vê.. Vào khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, HCM ra lịnh nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công đồn Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ các đảng phái và tôn giáọ Số người bị giết kỳ này còn cao hơn lần trước.

Sau vụ này, đa số các sĩ phu và các tín đồ tôn giáo đã rời bỏ hàng ngũ VM và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng các tăng sĩ PG vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội PG Cứu Quốc.

Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, HCM quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng CSĐ họp từ 15-17/1/1948 có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau :


"Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v... Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậỵ

"Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạọ Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo, tín ngưỡng của giáo dân.


"Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhaụ Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản dộng, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động khuấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc". ("Lịch sử Đảng CSVN", nxb Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 206-207).


Nhưng rồi sau khi giành lại được chính quyền, Đảng CSVN lại trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáọ Hà Nội có lần gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn "Chũ Nghĩa Vô Thần Khoa Học" do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáọ Do các thủ đoạn tráo trở này mà các đảng phái quốc gia và tôn giáo kể trên đã không đứng chung hàng ngũ với CS.


1.Tương quan giữa Phật Giáo Hòa Hảo và Cộng sản Việt Nam :


Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) là đạo Phật được Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cải biến cho phù hợp với tín đồ và môi trường của miền Nam VN. Vì đạo được khai sáng tại xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nên ông gọi là PGHH. Về giáo lý, PGHH lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản. Đây là 1 trong 84,000 pháp môn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng để cho các tín đồ tu tại gia biết con đường giải thoát.

Khi tình hình thế giới biến động, ngày 10/3/1945, ông Hồ Văn Ngà thành lập Đảng Việt Nam Quốc Gia, quy làm một 2 đảng Nhân Dân Cách Mạng và Việt Nam Quốc Gia lạị Ngày 14/8/1945, theo lời kêu gọi của ông Ngà, Đức Huỳnh Phú Sổ đã cùng các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch, v.v...đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Ngày 2/8/1945, lực lượng Việt Minh (VM) cướp chính quyền ở Hà Nội thì tại miền Nam, lực lượng của VM chưa có tên gì nên Nhật đã giao chính quyền Nam Kỳ lại cho ông Trần Văn Ân, Chủ tịch Hội Đồng Nam Kỳ.


Ngày 24/8/1945, Tổng Bộ VM cử Cao Hồng Lĩnh và Hoàng Quốc Việt từ Hà Nội vào Nam tăng cường cho Mặt Trận VM tại Nam Bộ và lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ ti.ch. Ngày 7/9/1945, nhóm Đệ Tứ (Trostkyite; nhóm này chủ trương chống Pháp và nhóm CS Đệ Tam của HCM) và các đảng phái Quốc gia đứng lên chống lại Lâm Ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu phải mở rộng cơ quan này, cho Phạm Văn Bạch làm Chủ ti.ch. Một cuộc biểu tình của PGHH được tổ chức tại Cần Thơ đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh của VM và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Cuộc đối kháng giữa các đảng phái quốc gia và CS bắt đầụ

Ngày 13/9/1945, công an của VM do Lý Huệ Vinh cầm đầu đi lục soát xóm Thơm lùng bắt các ông Vũ Tam Anh, Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Bùi Quang Chiêụ Trước đó, vào ngày 9/9/1945, Trần Văn Giàu đã cho công an VM vây trụ sở của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để bắt chủ tịch của hội này là Đức Huỳnh Phú Sổ, nhưng không bắt được ông.

Ngày 16/9/1945, quân Pháp trở lại chiếm Saigon, tuyên bố không chấp nhận Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu, đuổi Lâm Ủy Hành Chánh ra khỏi Dinh Gia Long. Trần Văn Giàu phải nhờ các ông Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Ký (tức Nguyễn Thị Sương) đứng ra lập Ủy Ban Ngoại Giao để thương lượng với quân dội Đồng Minh, nhưng không kết quả. Ngày 24/9/1945, các đảng phái quốc gia, trong đó có giáo phái PGHH, đứng lên sát cánh với VM hô hào chống Pháp. Trong khi Lâm Ủy Hành Chánh rút về chợ Đệm thì các đảng phái quốc gia lập Ủy Ban Phong Tỏa Saigon gồm có Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà và Kha Vạn Cân. Ngày 27/9/1945, Dương Văn Giáo thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Chính phủ này lại bị VM chống đối mạnh mẽ.


Trước sự chống cự của các đảng phái quốc gia và VM, Pháp đã thương lượng với các đảng phái quốc gia và đề nghị hưu chiến để tìm một giải pháp tốt đẹp. Cuộc hưu chiến bắt đầu từ 1/10/1945. Lợi dụng tình trạng đang hưu chiến để thương lượng với Pháp, Trần Văn Giàu cho công an và bộ đội VM bao vây trụ sở và tư gia của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, bắt các ông Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi Quang Chiêụ Một số bị hạ sát ngaỵ Các đảng viên của Đệ Tứ như Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phạm Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, v.v... đều bị VM bắt và đem ra chôn sống ở Lòng Song thuộc tỉnh Bình Thuận. Cuộc chiến giữa các đảng phái quốc gia và VM đã thực sự bắt đầụ Riêng PGHH đã lập các khu kháng chiến tại miền Tây để chống cả Pháp lẫn VM.


VM lợi dụng lòng yêu nước của Đức Huỳnh Phú Sổ (HPS) và của đồng bào, kêu gọi liên minh để kháng chiến. VM chiêu dụ một số người có uy tín của PGHH tham gia VM như Sư thúc Mười Trí (tức Huỳnh Văn Trí), anh em kết nghĩa với Đức HPS. Ngày 16/4/1947, VM giả vờ mở đại hội cao cấp của Ủy Ban Hành Kháng Nam Bộ tại Đốc Vàng, mời Đức HPS tới phó hộị Đức HPS đã cùng với 4 cận vệ đi thuyền tới điểm hẹn, thì đột nhiên nghe súng nổ hàng loạt. Đức HPS bị ám hại, 3 cận vệ của ông bị đâm chết, chỉ người lái thuyền nhảy được xuống nước bơi qua bên kia sông nên thoát chết.


Sau khi Đức HPS bị ám sát thì Mười Trí xuất hiện tại Thánh Địa như muốn thay thế Đức HPS làm Giáo chủ. Người ta loan tin "Đức Thầy vân du một thời gian, sẽ trở lại", trong thời gian chờ đợi, có vẻ Mười Trí sẽ là "Quyền Giáo chủ lãnh đạo PGHH". Nhưng âm mưu này của VM không thành vì trong Giáo hội này còn có nhiều người như Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt. Mười Trí lại bị mọi người nhìn bằng con mắt xoi mói nên không dám ở lại, phải đi vào mật khu của VM. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Mười Trí đã tập kết ra Bắc, trở lại miền Nam sau 30/4/75 và đã qua đời tại Saigon vào năm 1989.

Ám hại xong Đức HPS, VM cho bộ đội và công an đi lùng bắt giết các lãnh tụ và cán bộ trung kiên của PGHH. Có khoảng 12,000 tín đồ PGHH đã bị thanh toán trong giai đoạn nàỵ Riêng tại thôn Phú Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, người ta đã khám phá thấy 3 hầm chôn tập thể trên 300 ngườị Nhưng lực lượng PGHH đã được tổ chức lại để chống CS.

Sau ngày 30/4/75, CS triệt hạ toàn bộ cơ sở của PGHH, từ trung ương đến địa phương. Tất cả tài liệu kinh giảng của Giáo hội bị tịch thu, bắt dẹp bỏ hình Đức HPS tại nơi công cộng và tư giạ Một số lớn chức sắc và tín đồ của PGHH đã bị giết, bị tuyên án tử hình, án tù hay quản thúc tại giạ Vài vụ thanh toán điển hình :


- Những chức sắc và tín đồ bị án tử hình : Nguyễn Văn Phụng, Nguyễn Đê, Huỳnh Văn Lầu (cựu Dân biểu Quốc hội),

Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Văn Oanh, Lê Chơn Tình, Nguyễn Văn Coi, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Út, Tô Bá Hộ (có thể bị tử hình hay tù chung thân). Riêng Nguyễn Thành Long, Hội trưởng Hội PGHH quận Cái Răng, Cần Thơ đã bị bẻ cổ chết.

- Tù chung thân : Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Trên, Trần Văn Dũng.

- Bị đưa đi cải tạo và chết trong tù : Phan Bá Cầm (Tổng bí thư Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng), Thiếu tướng Lam

Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), Trịnh Quốc Khánh (tự Chín Lễ), v.v... Riêng cụ Trần Hữu Duyên, sau một thời gian cải tạo đã được tha về, năm 1992 bị bắt lại và bị phạt 10 năm khổ sai khi ông vừa được 70 tuổị

No comments:

Post a Comment