Monday, July 20, 2009

NGÁO BỊP ẤN QUANG TRONG "NGHIỆP BÁO" DI CĂN.-Trương Minh Hoà

NGÁO BỊP ẤN QUANG TRONG "NGHIỆP BÁO" DI CĂN.

Trương Minh Hoà (Tinparis.net)

"ÁC BÁO Ấn Quang, từ Áo Bác.
Ai Lát thay lòng, rõ ÁC LAI".

Hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều có mục đích hướng dẫn con người làm điều thiện và đồng thời cũng là chỗ dựa tâm linh vững chắc trong tín ngưỡng với lòng tin mặc khải vào đấng thiêng liêng; ngoại trừ các giáo phái tà đạo, chủ trương biến đức tin thành" mê tín dị đoan" để phục vụ lợi ích cho giáo chủ như đạo thờ quỷ Sa Tăng hay các thứ đạo thời thần linh, tế thần còn sót lại từ thời kỳ thần quyền.... Tuy nhiên, trong bất cứ nơi nào trong xã hội từ Đông sang Tây, hay dù ngay ở thiên đình được tuyển chọn kỷ về đạo đức nhưng cũng lọt sổ vài nhân vật chưa đủ tiêu chuẩn đạo đức, thế mới có câu:" tiên mắc đọa" vì cái tâm không ổn sanh ra phạm giới bởi" tư tưởng phát sinh ra hành động", điển hình như nhân vật Thiên Bồng Ngươn Soái trong chuyện ngụ ngôn Phật Giáo là Tây Du Ký; cho nên gần như các tôn giáo thường có một số kẻ xấu, lợi dụng tôn giáo để làm nhiều điều ác, sai trái, gây nên bao thảm họa cho xã hội, quốc gia, thế giới. Trong Phật giáo gọi là nghiệp báo, xã hội là tội ác; tuy nhiên khi kẻ gian ác chưa nhận thức được tội lổi và còn được BAO DUNG như tên ăn cướp thoát khỏi cái gõ búa của quan tòa, được sống bình thường trong xã hội, thì có ngày chúng BUNG DAO đâm sau lưng lần nữa tạo thêm tội ác; đó là trường hợp" Di căn nghiệp báo" của một nhóm người, mượn ác cà sa, núp danh đức Phật, dựa vào tôn giáo làm bình phong, trong tên gọi Ấn Quang. Tục ngữ có câu:" ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt", nên khi những kẻ gian ác chư thành thật sám hối, mà lại được tôn vinh, trở thành nhân vật nổi tiếng, thần tượng, thì nguy cơ gây thêm nghiệp báo là điều có khả năng xảy ra sau nầy.

Một số kẻ khai thác lòng tin vào đấng Allah trong Hồi Giáo với danh nghĩa thánh chiến, đưa đến chủ nghĩa khủng bố, giết người hàng loạt, không kể người trong đạo, họ biện minh những nạn nhân đồng đạo là:" Allah biết ai là người của Hồi Giáo" ( tức là khi bom tự sát nổ, trong số những người chết, thì Allah rước người đạo Hồi và những người ngoài đạo là không được lên trời, là lối ngụy biện cho hành vi gây tội ác của những kẻ xấu).

Công Giáo trước 1975 tại miền Nam, linh mục Chân Tín lợi dụng lòng" bác ái" của Thiên Chúa mà che chở, binh vực hết mình cho những tên khủng bố Việt Cộng sa cơ trong các trại tù, ông cùng linh mục Nguyễn Ngọc Lan, hổ trợ từ linh mục Phan Khắc Từ...thành lập ra cái gọi là:" Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù" giúp bọn phiến Cộng được hưởng đầy đủ tiện nghi trong nhà tù Phú Quốc, các trại tù phiến Cộng và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, những tên tù nầy trở về trả thù tàn nhẩn và cái ủy ban nầy tự động giải tán sau khi Việt Cộng hoàn thành nhiệm vụ:" đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào", bỏ mặc cho hàng trăm ngàn tù nhân thuộc quân nhân cán chính miền Nam chịu cảnh đọa đày dã man dưới bàn tay của đảng Cộng Sản.

Khối Phật Giáo Ấn Quang lợi dụng lòng tín ngưỡng, từ bi và khối đa số tín đồ, để làm loạn tại miền nam, thế mà tự cho là" pháp nạn". Đầu tiên khai thác sự thiên vị của tổng thống Ngô Đình Diệm đối với Thiên Chúa để biểu tình và xuyên tạc" đàn áp tôn giáo"; nếu đệ nhất Cộng Hòa đàn áp, thì sư sải không thể ra khỏi chùa như ngày nay dưới chế độ CS, chớ đừng nói đến biểu tình rần rộ, tự thiêu,....thời thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, vốn là một Phật tử thuần thành, tự xưng là" Budhha Child" trong một quyển sách, thì làm gì có đàn áp Phật Giáo?. Thế mà thượng tọa Thích Trí Quang và đồng bọn làm cuộc tạo loạn miền Trung 1966, họ lộng ngôn cho là" pháp nạn", gây biết bao nghiệp báo sau nầy. Nói đúng hơn là dù miền Nam trước 1975 có tự do tôn giáo, dành nhiều ưu tiên cho Phật Giáo, thì đám tăng ni thân Cộng hay thành phần nằm vùng" mượn áo cà sa, phục vụ ma Cộng Sản" cũng không để yên, họ tìm mọi lý do để quấy động theo chủ trương, chính sách của đảng Cộng Sản, mục đích tối hậu là làm rối loạn hậu phương miền Nam để mở đường cho giặc tràn vào.

Mỗi một ngành nghề được đào tạo trong phạm vi chuyên môn như thợ điện, ống nước, làm rẫy, bác sĩ, kỷ sư, luật sư....nên trong tôn giáo, những người lãnh đạo cũng được đào tạo để làm những công việc: lễ nghi, giảng đạo và một số công việc khác như từ thiện, khuyến tu, làm lành lánh dữ...nên những lãnh đạo tinh thần không có sở trường và được đào tạo để làm những công việc" kinh bang tế thế" như tham gia chính quyền, điều hành đất nước.... đó là phạm vi chuyên môn của từng ngành nghề, nếu ai làm những gì mà mình không rành, tất gây nên tai họa. Từ đó, một người làm nghề bán thịt, không thể làm công việc giải phẫu của một bác sĩ, ngay cả ngành điện, kỷ sư điện tử không thể làm công việc của một kỷ sư điện nặng thành thạo.

Thí dụ như năm 1979, giáo chủ Hồi Giáo Khomeini lật đổ vua Paul Palevi ở Iran, dù được đánh bóng là" cuộc cách mạng Hồi Giáo" nhưng từ đó, đưa đất nước đến chiến tranh với Iraq và những hậu quả kinh tế, chính trị đến ngày nay. Tại miền Nam, linh mục Hoàng Quỳnh, lãnh đạo tinh thần có uy tín, vì không rành vấn đề tình báo, chỉ nhìn con người qua chân dụng là tín đồ Thiên Chúa, nên đã tiến cử cụm tình báo chiến lược A 22 với tên Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ vào phủ tổng thống, kế cận bên tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, biết bao tin tức tối mật đã lọt ra ngoài; nếu cảnh sát đặc biệt, các cơ quan an ninh không khám phá sớm, thì cụm tình báo A 22 gây nhiều tác hại khôn lường; nguy hiểm nhất là chúng có kế hoạch lợi dụng lúc tổng thống Thiệu cải tổ nội các để xếp đặt những chức vụ như: Thủ tướng: Huỳnh Văn Trọng ( hay là phó thủ tướng đặc trách xây dựng và phát triển nông thôn..), Lê Hữu Thúy với chức vụ tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, Vũ Ngọc Nhạ làm bộ trưởng nội vụ, Bùi Nhượng Thắng làm bộ trưởng thông tin và chiêu hồi, Nguyễn Xuân Hòe làm bộ trưởng kinh tế...như vậy, nếu kế hoạch thành công, thì biết bao chiến sĩ quốc gia, các tướng tài, sĩ quan tâm huyết, các đảng phái quốc gia... lần lượt bị" nội các" của Huỳnh Văn Trọng bắt bớ theo luật pháp của miền Nam Việt Nam, bị chụp mũ tội hình sự bằng những ngụy tạo.

Riêng khối Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, gây biết bao" pháp nạn" cho dân tộc, tiếp tay cho giặc Cộng thôn tín miền Nam; ngay cả trong Phật Giáo, đồng đạo, là tăng sĩ cao cấp, thượng tọa Thích Tâm Châu, viện trưởng Viện Hóa Đạo Việt Nam Quốc Tự cũng bị khủng bố chớ đừng nói đến dân bình thường của các tôn giáo khác, nhất là những người mà đám Ấn Quang lưu ý là kẻ thù; khi thượng tọa Thích Tâm Châu đi" phật du" qua vài nước như Tích Lan, Tân Gia Ba... để cám ơn các nước hổ trợ cho cái gọi là" cách mạng 1 tháng 11 năm 1963" do phản tướng bị ảnh hưởng Ấn Quang là Dương Văn Minh và các phản tướng tá khác: Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu... đến tháng 7 năm 1966...về Việt Nam Quốc Tự, khi mới bước vào văn phòng thì có băng roll với hàng chữ đỏ, nền vàng:" Muốn quần chung tuân theo kỷ luật, thì phải tuân theo quần chúng". Tới bàn giấy, gặp ngay" một đĩa máu và con dao nhỏ" kèm theo một lá huyết thư đề hàng chữ:" yêu cầu các thượng tọa trong Viện Hóa Đạo, không được theo thượng tọa Tâm Châu". ( theo tài liệu Bạch Thư của Thích Tâm Châu năm 1994).

Những cuộc xuống đường gây rối, bạo loạn, đem bàn thờ Phật xuống đường, làm hậu phương miền Nam rối loạn, núp dưới" bình phong Phật Giáo" làm cho chính phủ miền Nam mất dần uy tín thế giới, bên ngoài phong trào phản chiến khuynh tả xuyên tạc, dựa vào các cuộc bạo loạn của Phật Giáo để" triển khai" đánh phá, xuyên tạc... đưa đến hậu quả miền Nam mất ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà sau nầy Việt Cộng cho biết là: thắng ở sân sau, nước Mỹ...thế mới thấy được công to với VC do khối Phật Giáo Ấn Quang đóng góp tích cực; cho nên ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong khi toàn dân kinh hoàng, thì khối Ấn Quang huy động hơn 500 tăng ni để đón mừng" đoàn quân Tarzan" cùng nhịp với Trịnh Công Sơn" nối CÒNG TAY lớn".

Chưa hết, ngày sinh nhật của tên quốc tặc, gian tham dâm ác Hồ Chí Minh, lần đầu tiên tổ chức tại miền Nam, chùa Ấn Quang long trọng làm lễ uy nghi hơn cả vía Phật hay ngày Đức Thích Ca đản sinh, thành đạo...ngày 19 tháng 5 năm 1975, có một" cao tăng" đứng lên đọc" tham luận" kể lễ công lớn của Phật Giáo đã đóng góp với" quỷ đỏ vô thần" được gọi là" cách mạng". Rõ ràng những tăng ni mượn danh Phật, lập ra khối Ấn Quang, đã" mượn ánh đạo vàng để phục vụ đệ tam Cộng Sản Quốc Tế". Đây là điều vô cùng nguy hại, kẻ địch ở chiến trường không nguy hiểm bằng kẻ thù ở sau lưng, nên những tên Việt Cộng mặc áo cà sa, làu thông kinh Phật, rành cúng bái....chính là thủ phạm, tiếp tay cho Việt Cộng thôn tín miền Nam tự do, luôn phải đương đầu với" giặc trong lẫn ngoài".

Trước 1975, khối Án Quang đánh phá rất tinh vi, dựa lưng vào" chùa và tượng Phật" để làm" thành trì" và lợi dụng nền dân chủ, tôn trọng tự do tín ngưỡng của chính quyền miền Nam. Bên trong là chứa chấp trốn quân dịch, thành phần thân Cộng hay có thể có cả cán Cộng nằm vùng mai phục...nhờ khối lượng đông đảo Phật tử nhắm mắt ủng hộ qua tập quán" trọng Phật kính tăng" một cách máy móc, mà các tăng ni có nhiều uy quyền, chẳng khác nào lãnh chúa, thò bàn tay khuynh đảo, gây áp lực với chính quyền; bằng chứng là những Phật tử thuần thành như chuẩn tướng Nguyễn Xuân Nhuận, tư lịnh sư đoàn 1 bộ binh, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lịnh quân khu 1, một số quân nhân" Phật tử" đi theo, tiếp tay cho thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh làm nên cuộc bạo loạn năm 1966, mà vết thương nghiệp báo trong vụ" mang bàn thờ Phật xuống đường" vẫn còn ghi nhớ trong lịch sử Việt Nam, cũng là vết nhơ không bao giờ tẩy sạch trong Phật Giáo, là nghiệp báo quá lớn, trở thành Cộng nghiệp, làm đất nước tiêu tán ngày nay. Khối Ấn Quang tổ chức chu đáo, có sách lược cả bên trong lẫn ngoài, nhịp nhàng công tác, làm suy yếu miền Nam" núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ":

-Bên trong: tại miền Nam, ngoài những tăng ni thân Cộng, thượng tọa Thích Trí Quang đặt chức, phong" giáo hàm" Trưởng Ban Thông Tin, nhà xuất bản Sen Vàng cho đại đức Thích Tắc Phước ( sau nầy đổi pháp danh là Thích Phước Huệ, lên huề thượng, ở Úc Châu, nổi tiếng vụ đi tịnh thất hàng năm, suốt 15 năm với tín nữ Diệu Đức).(* xem phần ghi chú cuối bài). Huề thượng Thích Phước Huệ, có nhà xuất bản Sen Hồng, cũng in kinh sách, thành lập một khối Phật Giáo ở Úc, cũng mang hai chữ" Thống Nhất". Đó là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan.

-Bên ngoài: cử đại đức Thích Nhất Hạnh là phát ngôn viên hải ngoại, gây ồn ào trong phong trào phản chiến, viết sách xuyên tạc chính quyền miền Nam, như quyển" Hoa Sen Trong Biển Lửa" phát hành vào năm 1967, dịch ra nhiều thứ tiếng. Tháng 10 năm 1974, lợi dụng đại hội Phật Giáo thế giới tổ chức tại Tokyo, Thích Nhất Hạnh yêu cầu Mỹ phải triệt thoái hết ra khỏi Việt Nam; lúc đó sau hiệp định Paris cơ quan D.A.O ( Defense Attach Office) sau nầy là văn phòng liên lạc viện trợ, bị Vũ Văn Mẫu đuổi phải ra khỏi Việt Nam trong 24 giờ sau khi làm thủ tướng cho tổng thống Dương Văn Minh.

Được biết, phong trào phản chiến do Nhất Hạnh hợp cùng với những đảng, tổ chức cánh tả phản chiến ở Âu Mỹ, có tầm hoạt động rộng rải tại các quốc gia dân chủ, tác động vào những cuộc hợp ở Paris giữa các bên trong cuộc chiến VN, do Cộng Sản quốc tế gây ra, đúng là" vừa ăn cướp vừa la làng"; trong đó có" đạo hữu" còn gọi là" cư sĩ" Võ Văn Ái hoạt động tích cực... đó là những kẻ:" ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng Sản" đâm sau lưng chiến sĩ, đồng bào miền Nam, tiếp tay cho giặc Cộng, hậu quả là gây nên thảm họa 30 tháng 4 năm 1975, mà cái nghiệp báo quá lớn: hàng ngàn quân cán chính bị hành quyết lúc Việt Cộng mới vào, hàng trăm ngàn quân nhân cán chính miền Nam bị hành hạ trong các nhà tù khắc nghiệt từ vài năm đến 17 năm...hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, thảm cảnh biển đông làm rúng động lương tri nhân loại...cả nước Việt Nam bị mất hết quyền tự do, quyền sống. Nếu các tăng sĩ Ấn Quang nhìn thấy những gì mà do họ gây ra, thì sám hối và biết" đoái công chuộc tội" là điều may mắn cho đạo pháp và dân tộc; tuy nhiên, họ vẫn chưa nhận thức được cái sai trái, chỉ sám hối khi bị đá đít, bèn quay sang chống đảng, không phải ăn năn, mà là bị mất quyền lợi và sau đó thì" chứng nào tật nấy".

Chính sách" vắt chanh bỏ vỏ" của đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ thay đổi, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, nên thành phần" Mặt Trận Dân Hại Khủng Bố Miền Nam" lần lượt bị đá văng ra khỏi bộ máy cầm quyền: nếu không phục viên, cũng hạ tầng công tác; là thứ hồn ma bóng uế trong cõi Vô Minh " xã hội chủ nghĩa". Cũng như tình trạng các cán bộ gốc miền Nam bị kỳ thị, loại trừ, bất đầu bất mãn, chửi đảng sau khi bị thất sủng; đo đó các" tăng ni" Phật Giáo Ấn Quang cũng khó tránh khỏi: số trọng dụng, trở thành tay chân trong Phật giáo quốc doanh, số còn lại im lặng thì an toàn và chỉ tu cho hết kiếp lầm lạc để đươc yên thân, dù việc giải thoát chưa chắc thành, do đã gây quá nhiều nghiệp báo với Phật giáo và dân tộc; một số ít khác chửi đảng và trở thành" nhà dân chủ", được tung ra hải ngoại, nên danh tiếng của những" La Hán thời đại", sau khi thôi không còn hợp tác với quỷ đỏ vô thần, trở thành" đắc quả" tranh đấu. Thời gian đó, một số chửi mạnh như Thích Thiện Minh (Đổ Xuân Hàn) bị đảng cho" tiêu diêu nơi miền Lê Mác" chớ miền cực lạc chưa chắc và những người chửi nhẹ hơn, như huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang, thì được sống, nhưng phải bị tù đày, quản chế, do biết" làm tự kiểm, sau nầy có khả năng đắc dụng cho đảng trong việc tạo bộ mặt" có tiến bộ về mặt nhân quyền và tự do tôn giáo" nên rất cần những cò mồi, mà thứ cò mồi từng" có công với cách mạng" được tin tưởng hơn các thành phần khác trong nước.

Phật tử và đồng bào hải ngoại vốn rộng lượng, khoan dung, đó là" bồ tát tâm" theo gương đức Phật dạy, nên họ quên đi những tội ác, nghiệp báo tày trời mà những tăng ni Phật giáo Ấn Quang đã" cộng nghiệp" với quỷ đỏ vô thần Việt Cộng gây ra cho dân tộc, đất nước, quên những sự phản bội đê hèn là vào mật khu hợp với Việt Cộng để đánh phá miền nam....do đó những tăng sĩ Ấn Quang cũ, nay thất thế, được người Việt hải ngoại ôm vào vòng tay, yểm trợ tinh thần, vận động chính trị quốc tế và nhất là tài chánh, với mục đích nuôi dưỡng phong trào đấu tranh dân chủ và đặt kỳ vọng quá nhiều vào vị lãnh đạo còn lại là huề thượng Thích Quảng Độ.

Sau khi giả từ thiền sư Thích Nhất Hạnh như là thái độ:" cải tà qui chánh", dù ai cũng biết trước 1975, Cư sĩ võ Văn Ái, người đóng góp nhiều công sức làm" sụp đổ miền Nam tự do" cũng được đồng bào, Phật Tử bao dung, không chấp làm chi những việc làm" đâm sau lưng quân dân miền nam" trong phong trào phản chiến của Thích Nhất Hạnh, khi biết Võ Văn Ái bỏ Làng Mai, sang đầu quân với huề thượng Thích Huyền Quang, Quảng Độ. Do đó, truyền thông hải ngoại dành nhiều thời giờ để ủng hộ phòng Thông Tin Phật Giáo Hải Ngoại tại Paris, do cư sĩ Võ văn Ái điều hành từ đó đến nay và theo dõi từ diễn biến đàn áp tôn giáo trong nước, từng nhịp thở của các vị huề thượng, tăng ni của giáo hội. Phòng Thông Tin Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do" cư sĩ" Võ Văn Ái điều hành đã đưa những tin tức của giáo hội trong nước do huề thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo, được hầu hết các cơ quan truyền thông ủng hộ phổ biến, làm tăng uy tín và cư sĩ Ái cũng sớm trở thành" nhân vật quan trọng" trong giáo hội, là người có thẩm quyền thông báo những tin tức, bình phẩm, lên án Việt Cộng....

Do đó, ngay khi giáo chỉ số 9, vạch mặt bọn" tăng tiếm danh" và về nguồn, người Việt hải ngoại và Phật tử ủng hộ mạnh Võ Văn Ái và huề thượng Quảng Độ...tuy nhiên, sau đó thì có tuyên cáo, với các tăng ni tiếm danh đứng chung với ông bà Võ Văn Ái và vài tổ chức như băng đảng Việt Tân, trong cuộc biểu tình tại Geneve về tình hình nhân quyền và đàn áp tôn giáo tạo Việt Nam.....như vậy, khiến cho nhiều người thắc mắc về thái độ khó hiểu của cư sĩ Võ Văn Ái: lúc thì theo Nhất Hạnh, khi thì tố cáo Nhất Hạnh, lúc cùng nhau đoàn kết để" giải trừ pháp nạn" với các đồng đạo như huề thượng Thích Như Huệ, thượng tọa Thích Quảng Ba...ở Úc Châu trong giáo hội" Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, để đối đầu với cánh Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của huề thượng Thích Phước Huệ...sau đó lại tố cáo những" đồng đạo, vừa là đồng minh" hôm qua, là những kẻ Tiếm Danh, rồi khi cần lại đứng chung...chẳng lẽ trong lối tu học đạo Phật hay kinh điển gì đó... cũng có nguyên tắc:" không có tình đồng đạo, ma quái vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi mà thôi" ( xin giáo sư, cư sĩ, phát ngôn viên phòng thông tin phật Giáo ở Paris Võ Văn Ái giải thích chuyện nầy, có ghi trong quyển kinh, hay tạng kinh gì đó không? Chớ trong một số bài viết, Võ Văn Ái thường dùng điển tích trong các bộ kinh để làm mạnh thêm ý nghĩa..).

Những người có học mà u mê đi theo Việt Cộng làm CÔNG CỤ như là CU CỘNG từ 1930 đến nay, có nhiều người sáng mắt, tuy nhiên những người có học vị cao ở hải ngoại mà lại đi theo băng đảng" Canh-Cách", chủ trương:" đảng Cộng Sản là thành phần dân tộc và tên quốc tặc Hồ Chí Minh có công với đất nước" mà tự cho là chống Cộng, giải trừ chế độ độc tài, đấu tranh dân chủ đa nguyên...thật là khôi hài, đáng đứng chung trong " trí ngủ"; nhưng kẻ thay đổi lập trường như chong chóng, giống như chuyện" khi trồi, khi sụt, khi có, khi không"....nên cũng có thể gọi là" Trí Điếm" mới đúng theo bản chất phản trắc, tráo trở. Kẻ thù trước mắt không nguy hiểm bằng" kẻ thù sau lưng", chúng lợi dụng và khai thác lúc sơ ý, đâm sau lưng là khó tránh khỏi.

Thà rõ ràng, đứng bên phía theo hẳn bên kia như thiền sư Thích Nhất Hạnh còn dể đối phó; nhưng kẻ lúc bợ hứng Nhất Hạnh, khi" bôi mặt" tố cáo Nhất Hạnh đoạn theo Quảng Độ, đánh phá các" đồng đạo tiếm danh" má mới ngày nào" tình đồng đạo vĩ đại và cảm động, khắc khít như CHUÔNG với MÕ" và khi cần thì nới vòng tay NHỚN, ôm lại những người từng bị tố cáo, để thủ lợi tại diễn đàn Geneve mới đây tại Thụy Sĩ....qua những hành động nêu trên, thì con người của cư sĩ Võ Văn Ái thật là khó hiểu như câu:' tri nhân tri diện, bất tri tâm", càng khó tin hơn, dù là" cư sĩ Phật Giáo" lại là người có học cao, mà lại có những việc làm khó hiểu như thế, thì từ nay, làm sao bá tánh, Phật tử và đồng hương hải ngoại còn tin vào cái" Phòng Thông Tin Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại"? Nhất là người phát ngôn viên, đại diện lại là người có quá trình thay đổi quá nhiều chỉ trong một khoản thời gian chưa hết một kiếp người. Phát ngôn Viên Võ Văn Ái có thể cạnh tranh nghề với phát ngôn viên với Lê Dũng, hay trước đó có Phan Thúy Thanh, thuộc nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; đó là những kẻ lừng danh:" ăn đàng sóng, nói đàng gió".

Từ những thay đổi lập trường" sớm đầu tối đánh, khi đứng chúng, lúc tố khổ nhau", nên cái Phòng Thông Tin Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thuộc văn phòng 2 Viện Hóa Đạo tại Paris do" cư sĩ" Võ Văn Ái mất dần lòng tin, giống như Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, sau nhiều phen nói láo, chiến khu dỏm, 10 ngàn kháng chiến quan ma, thu tiền, lừa đảo....giống như cái mặt hàng của Trung Cộng, mang hàng chữ" made in China" cũng không được giới tiêu thụ toàn cầu tin cậy về phẩm chất cũng như độ bền. Cho nên, dù cho cư sĩ Võ Văn Ái cố gắng dùng bình phong" Phòng Thông Tin Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại" tại Paris để đưa ra những thông báo, thông tin, kể cả những biện minh....cũng khó lấy lại lòng tin, khi nơi nầy có kẻ đại diện, lòng dạ như cõi" Vô Minh". Tuy nhiên cư sĩ Võ Văn Ái cũng có thể dùng" công cụ" nầy để thực hiện những gì theo ý muốn và có thể có cả" những tế lực đen" nằm bên trong?. Nhưng tin thì còn hỏi lại và cái tư cách, đạo đức của một Phật tử, con người bình thường, không chấp nhận một người" có quá nhiều mặt", khi nầy khi khác. Một người chỉ giựt hụi một lần thôi, lần sau kêu hụi, cũng ít người dám vô; huống chi cư sĩ Võ Văn Ái, nhiều lần" nhảy qua nhảy lại" và tiếp tay cho giặc Cộng gây nhiều nghiệp báo với thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cho nên, Phật tử và bá tánh hảy lấy câu:" đừng tin những gì cư sĩ Võ Văn Ái nói, hảy nhìn kỷ những gì Võ Văn Ái làm" để tránh bị lầm:" biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ". Từ đó, cái phòng thông tin Phật giáo ở Paris nơi có người phát ngôn viên" đa tâm", thì đây mới chính là VÔ THƯỜNG, do những việc làm mờ mờ ảo ảo như cõi VÔ MINH mà những người có cái tâm đạo, không thể VINH-MÔ để tìm nơi tu học đứng đắn.

Huề thượng Thích Quảng Độ là người xuất gia từ lâu, ăn cơm bá tánh, đáng lẽ phải lo tu hành để mau giải thoát với" thanh tâm trường an lạc" trong niềm" an đạo, lạc thiên", dùng sự hiểu biết Phật pháp để hoàng hóa chúng sanh, đưa thuyết đức Phật vào cứu khổ cứu nạn xã hội, giúp nước, an dân, nhất là trong thời kỳ đang đương đầu với bọn quỷ đỏ vô thần. Thích Quảng Độ nằm trong khối Phật Giáo Ấn Quang, được gởi di tu học ở Ấn Độ, cũng do tiền công quả, cúng dường của bá tánh, chớ nào phải" của chùa" đâu. Đáng lẽ những tu sĩ Phật Giáo như Trí Quang, Quảng Độ, Thiện Minh....phải giúp ích cái gì cho dân tộc như tinh thần truyền thống Phật giáo chống ngoại xâm, xây dựng đất nước từ thời nhà Lý, Trần với" đạo pháp song hành với sự tồn vong dân tộc", đây cũng là cái đạo đức tối thiểu của một người" ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn".

Tuy nhiên nhiều tăng chúng của khối Ấn Quang, được hưởng quá nhiều ân huệ, lợi lộc, quyền hành nhờ khối Phật tử yểm trợ vật chất, tinh thần....nên thời đó, một số tay hoạt đầu chính trị, muốn có được cái ghế trong quốc hội hạ lẫn thượng viện, thường hay" vuốt ve" các thầy, nhờ thầy bảo tín đồ dồn phiếu dùm, và sau khi đắc cử, cũng phải biết điều với thầy; đúng là" Phật tử tạo uy quyền cho sư"; mặc dù sống huy hoàng giữa thời ly loạn, muốn ở trong nước thì đi đâu cũng có người đưa rước như nhân vật quan trọng, là" lãnh đạo tinh thần", đến chính quyền, được mấy ông lớn vị nể và nếu thích viện lý do" phật sự" cũng xuất ngoại ngao du, du học...thế mà một số tăng ni như Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ.... đã đâm sau lưng chiến sĩ, phản bội đồng bào, Phật tử, nhiều lần bí mật đến Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh, dùng chùa Từ Vân để" hội ý" với bọn khủng bố Việt Cộng vô thần. Sau đó bị phát giác nên Thích Hộ Giác từ chức Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Như vậy mầm mống" ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng Sản" đã có từ trước 1975.

Sau khi miền Nam lọt vào tay giặc Cộng, ban đầu những người" có công với giặc" như thành phần thứ ba, Mặt Trận Dân Hại Khủng Bố Miền Nam, tăng ni khối Ấn Quang....tỏ ra" hồ hởi phấn khởi" ăn mừng" đại thắng mùa xuân" với Việt Cộng, nhưng từ sau 1976, bị vắt chanh bỏ vỏ, bất mãn chửi đảng Cộng Sản, chớ được trọng dụng, thành phần nầy không có bao nhiêu. Mốt số Tăng sĩ Ấn Quang phe cánh, được biên chế sang" giáo hội nhà nước" như Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu....số còn lại bất mãn, đâm ra chửi, chống đảng như đám du kích bị mất quyền lợi, phục viên hay cho hạ tầng công tác ( phần lớn cho đi khai thác nông trường, lâm trường, hải sản..) tiếp tục làm tôi tớ cho đảng, sống trong rừng, nông thôn như ngày xưa còn làm du kích, đúng là" mèo lại hoàn mèo".

Do đó, huề thượng Thích Quảng Độ không phải là nhà ĐẤU TRANH đúng nghĩa và có lòng đối với đất nước, dân tộc, đạo pháp... vì trước đó huề thượng là một trong những tăng sĩ đã cấu kết với lũ ĐÁNH TRÂU để chống lại chính quyền miền Nam, nơi mà kẻ tu hành được hưởng nhiều lợi lộc, thế mà vẫn" ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản", làm miền Nam suy yếu với khối Ấn Quang" núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ". Nhưng sau khi bị vắt chanh bỏ vỏ, nên ĐÂU TRÁNH khỏi bị khai trừ, mất quyền lợi, quyền hành mà trở thành nhà TRANH ĐẤU; đó là sự thật mà nhiều người nhìn thấy, trong đó có giới Phật Tử; họ là những người có tâm bồ tát, sẵn sàng bỏ qua tất cả những sai lầm, dù là" phản bội dân tộc" tiếp tay cho giặc Cộng, tạo nên nghiệp báo quá lớn. Cho nên khi nghe tin huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang" cải tà qui chánh" chống đảng, bất tuân bạo lực, thì đồng bảo hải ngoại tin tưởng, kỳ nầy không còn" thay dạ đổi lòng" như trước 1975, ăn cơm bá tánh để lánh vô rừng hợp với bọn khủng bố Việt Cộng.

Hào khí Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dâng cao, khi trong nước, Việt Cộng tung ra nhiều đợt bắt bớ, tù đày, quản chế nhị vị huề thượng lãnh đạo...nhưng có điều đáng lưu ý là: nếu nguy hiểm, thì đảng Cộng Sản đã sát hại như trường hợp Thích Thiện Minh (Đổ Xuân Hàn) từ lâu. Từ hơn 3 thập niên ĐẤU TRANH với lũ ĐÁNH TRÂU mà tình hình TRANH ĐẤU vẫn không đi đến đâu, hao công sức, tiền bạc, làm hao mòn lòng tin. Măt khác tăng sĩ Phật Giáo không được đào tạo để làm công việc" đánh đổ bạo quyền" và vai trò hổ trợ là có thể thích hợp, nhưng phải thành tâm, thiện ý, lập trường rõ ràng, chứ" một dạ hai lòng, khi trồi khi sụt" là không bao giờ làm được việc giải trừ quốc nạn. Tuy nhiên, do có nhiều Tang Tạm Thời đại, băng đảng" CANH-CÁCH" tàn dư Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nhịp nhàng hứng lấy những đòn" đưa cao đánh khẽ" của Việt Cộng qua các cơ quan truyền thông, nhằm tạo cho các tu sĩ như Quảng Độ, Huyền Quang một uy thế như" thánh tăng", trở thành thần tượng đấu tranh, để sau nầy có khả năng lái cuộc đấu tranh sang" đầu hàng Cộng Sản" được các vị lãnh đạo tinh thần của khối Ấn Quang cũ, là lũ NGÁO BỊP, tiếp tục di căn NGHIỆP BÁO" pháp nạn" lần nữa, ra hải ngoại, để đảng Cộng Sản tiếp thu, gom hết tiền, tài năng lần nữa.

Những kẻ gây nghiệp báo lầm tưởng là sau khi thành thần tượng, thì muốn làm gì cũng thành công, như Thích Trí Quang đã thành công trong cuộc bạo loạn miền Trung 1966, nói ai cũng nghe, kể cả tướng tá Phật tử và sau đó đưa đến thảm sát tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Sự tính toán trong việc" dùng đạo khuynh đảo đời" lần nầy qua cái gọi là:" biểu tình tại gia và bất tuân dân sự" trở thành vũ khí như cái Boomerang, dội ngược lại, là do đa số Phật tử, đồng bào đã quá nhiều kinh nghiệm với Việt Cộng, nhất là không tin vào bất cứ tăng ni nào gốc Ấn Quang, là" trung tâm nghiệp báo của dân Việt Nam", nhìn chung toàn là" thứ giặc thầy chùa" thứ" tăng sĩ ăn hại" chớ có giúp ích gì cho dân tộc, trái lại còn hại cả đời, đạo, làm hệ lụy đến uy danh đức Phật. Cái đau chưa lành là Thích Tuệ Sĩ, Trí Siêu qua vụ án Già Lam, với bản án tử hình, sau nầy người ta nghi ngờ đó là màng" khổ nhục kế" để đảng Cộng Sản tung ta những con rắn độc vào cộng đồng tỵ nạn hải ngoại; đương nhiên là được những cao tăng như huề thượng Huyền Quang, Quảng Độ ủng hộ và ở hải ngoại có" cư sĩ nhất diện đa tâm" Võ Văn Ái cùng với Ỷ Lan đánh bóng tối đa. Sau nầy, lòi ra trong nhóm" tứ quái Già Hồ", làm cho lòng tin vào những tăng sĩ, nhất là khối Ấn Quang càng xuống dốc thảm hại. Do đó, sư kiện tăng sĩ từ khối Ấn Quang là huề thượng Thích Quảng Độ xuất chiêu qua:

- Biểu tình tại gia, là tương kế tựu kế, để ngăn chận người dân ra đường biểu tình, chỉ ở nhà thôi, là đảng Cộng Sản đỡ được gánh lo lớn, không sợ dân biểu tình kéo nhào xuống vì cho Trung Cộng khai thác quặng Bô Xít, dâng đảo, đất, làm tay sai cho Bắc Kinh... đang gây bất mãn lớn trong dân chúng. Biến cố điển hình là nếu người dân Nga mà" biểu tình tại gia" vào tháng 8 năm 1991, thì làm gì cái nôi Cộng Sản quốc tế nầy sụp đổ?

- Bất Tuân Dân sự là giúp cho đảng và các công ty quốc doanh, ngoại quốc khỏi sa thải nhân công trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng toàn cầu và nhờ đó mà công an nhận dạng ra những kẻ hưởng ứng bất tuân dân sự là bọn" phản động", khỏi mất công theo dõi, điều tra. Đúng là" tương kế tựu kế" nhịp nhàng với chính sách đảng cướp Việt Cộng trong:" thanh tâm trường cai trị".

Năm 2000 tại miền Tây, ngày kỷ niệm Đức thầy Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo, qui tụ hàng chục ngàn tín đồ, khiến Việt Cộng hoảng sợ, nên Mặt Trận Tổ Quốc địa phương, với tên phản đồ Huỳnh Văn Tôn, tức là Mười Tôn, đã phát động chiến dịch khủng bố những ai đến chùa, thánh địa...mà khuyến khích" làm lễ tại gia" và cho phép tự do tôn giáo theo định hướng xã hội chủ nghĩa là:" thờ Đức Thầy tại gia". Cho nên sách lược" biểu tình tại gia" là điều lập lại chính sách của Mặt Trận Tổ Quốc cách đây gần 10 năm, chớ đâu có gì là" sáng tạo, sáng kiến" đâu...ngay cả Gandhi, chủ trương đấu tranh bất bạo động, mà vẫn huy động dân Ấn" xuống đường", chớ" biểu tình tại gia" là không, không, không...bao giờ có" biểu tình". Ý nghĩa" giựt con mắt" như thế mà có một số người mê man, binh vực, trong đó có cả giáo sư, kiêm cư sĩ Võ Văn Ái... chuyện" biểu tình tại gia" là dễ hiểu như vậy, đứa học trò tiểu học, người ít học cũng hiểu như bài toán cộng 2+2=4...nhưng giáo sư Võ Văn Ái mà không hiểu, thì đây là chuyện" khó hiểu", đề nghị giáo sư nên trở về cái tâm đạo, như tinh thần Luận ngữ:" cách vật trí tri, thành ý chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", chớ cái thói:" cải bướng, cải bướng, đại cải bướng" là không có chỗ đứng trong xã hội, học đường và nhất là ngày nay dân trí người Việt không mù mờ như cõi" vô minh" thời 1945 hay thời cần đi trao dồi" bình dân học vụ" nữa.

Con bài Thích Quảng Độ quả vô cùng thâm độc, chỉ một mình Quảng Độ thôi, cũng có rất nhiều tác dụng, rất có lợi cho đảng cướp Việt Cộng trong việc duy trì quyền lực thống trị đất nước.

- Dùng Quảng Độ như là khổ nhục kế: giả vờ lên án trong nước, đồng thời tung vào các cơ quan truyền thông hai hàng, của dư đảng" Việt Tân" hải ngoại, khiến người ta hiểu lầm là: huề thượng Quảng Độ đúng là" nhà đấu tranh" nên mới bị Việt Cộng lên án và Băng đảng Việt Tân, một số cơ quan truyền thông ủng hộ, cư sĩ Võ Văn Ái thổi phòng qua phòng thông tin Phật Giáo.... đúng là" nhà đấu tranh, lãnh đạo thứ thiệt" nên nhắm mắt ủng hộ, gởi tiền về, họ được những kẻ thời cơ, đón gió, có thể có cả Việt Cộng nằm vùng.... ôm vào vòng tay, cùng nhau đoàn kết sau lưng huề thượng Quảng Độ. Cho nên, những ai phân tích sự sai lầm, nguy hiểm, mị dân, làm lợi cho Việt Cộng về vụ" biểu tình tại gia, bất tuân dân sự" của một người được coi là" thánh tăng" như Thích Trí Quang thời trước 1975, thì bị chụp mũ là" Việt Cộng, Công An" mà không cần phân biệt phải trái, hể đụng tới Quảng Độ là coi như: đụng tới Đức Phật, Phật giáo, làm hại công cuộc đấu tranh lật đổ bạo quyền....có thể nói là huề thượng Quảng Độ đã trở thành" giáo chủ Phật Giáo" thời đại, không khác gì giáo chủ Khomeini ở Iran thời" cách mạng Hồi giáo 1979".

Dùng Quảng Độ làm xáo trộn cả hải ngoại, cho những thành phần" phản động" đánh nhau và ngư ông đắc lợi là Việt Cộng, nên một số sĩ quan cao cấp, nhà văn, nhà báo, trí ngũ, giáo sư....tha hồ núp đàng sau bình phong" huề thượng Quảng Độ" để chụp mũ, gây phân hóa không ít, mà lơ là để cho bọn Việt Cộng hoạt động. Nội cái vụ" hàm râu" của huề thượng Thích Quảng Độ thôi, cũng trở thành đề tài tranh cải trên diễn đàn. Trong đó có cả cư sĩ Võ Văn Ái, dùng cả cái thành trì" phòng thông tin Phật Giáo" ở Paris, trong mục" thông tin" do phát ngôn viên....nói về bộ râu" Quảng Độ" dẫn chứng cả một lô luận lý rút ra từ sở học" ngày xưa học tập, ngày nay rởm đời". Chắc là cư sĩ gốc phản chiến ngày xưa, thuộc khối Ấn Quang, chưa hề hưởng chính sách" khoan dùi" của Việt Cộng trong các trại tù cải tạo sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nên không biết là trong hầu hết các trại tù, đều có những người tù hớt tóc miễn phí để miễn lao động, hay là tù tự dùng nhưng thanh sắt lượm được:" cố công mài sắt, mài thành dao cạo râu", nên huề thượng Quảng Độ muốn cạo râu cũng dễ thôi, nhưng lại để râu để chứng minh bị đàn áp, đó là" huề thượng Thích Để Râu" thôi, tất cả đều sinh ra bởi cái tâm.

- Dùng con bài Quảng Độ như là" con tin sống" để gây áp lực với Hoa Kỳ, các nước Liên Âu, là cò mồi nhân quyền, khi bắt bớ, khi quản chế, khi có phái đoàn sang....cứ thế mà tạo cho bộ mặt Thanh Minh Thiền Viện thêm rộn ràng và người Việt hải ngoại cứ gởi tiền về ủng hộ.

- Huề thượng Quảng Độ là thứ cò mồi: đấu tranh bằng lời, bằng bạch thư, giáo chỉ....mà kết quả không bao nhiêu so với công sức, tiền của ủng hộ của đồng bào hải ngoại; trước 1975, khối Ấn Quang đấu tranh quyết liệt, dữ dội, vang lừng khắp thế giới; điều nầy chứng tỏ là huề thượng Quảng Độ chỉ đấu tranh có chừng mực, theo chính sách của đảng, hay là" khôn nhà dại chợ"?

Do đó, con bài Quảng Độ rất có lợi cho đảng, nên ở hải ngoại, băng đảng Việt Tân đánh bóng tối đa, vói bàn tay tới giải Nobel nữa. ( nghe đâu, phản tỉnh dỏm Dương Thu Hương cũng đang dự tranh giải Nobel?), ngoài ra còn có văn phòng thông tin Phật Giáo ở Paris do cư sĩ Võ Văn Ái hết lòng đánh bóng từ nhiều thập nên qua. Ngáo Bịp khối Ấn Quang vẫn tiếp tục gây thêm nghiệp báo từ trước 1975 và nay sang hải ngoại qua con bài huề thượng Thích Quảng Độ, do đó, Quảng Độ không phải là nhà đấu tranh đích thực, nhưng là nhà đấu tranh cò mồi, nối tiếp sự nghiệp mượn đạo phá nước, là truyền thống của khối Ấn Quang. Do đó, qua bao kinh nghiệm xương máu, không nên tin bất cứ tăng ni nào thuộc khối Ấn Quang, và huề thượng Quảng Độ là lần cuối cùng vậy.

Uy tín của huề thượng Quảng Độ sau vụ" biểu tình tại gia" và" bất tuân dân sự", công thêm quá khứ" mượn đạo tạo đảng" của tăng sĩ khối Ấn Quang, là giọt nước cuối cùng chảy ra ngoài từ lổ hỏng" lòng tin" của Phật tử và nhất là người Việt hải ngoại. Có thể nói qua nhiều vụ: Thích Trí Quang trước 1975, Tuệ Sĩ và Trí Siêu sau nầy và nay là huề thượng Thích Quảng Độ....làm cho lòng tin không còn nữa, dần dần những người" lương thức" nhìn thấy mà bỏ đi, chỉ trừ những người" đồng hội đồng thuyền" vần còn" kiên trì bám cái phao đang chìm". Uy tín của huề thượng Quảng Độ, văn phòng 2 Viện Hóa Đạo và văn phòng thôn tin Phật giáo Việt nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Paris qua vụ đi khắp 5 tiểu bang ở Úc Châu để ra mắt" tập thư tù" của huề thượng Quảng Độ, là trắc nghiệm lòng tin, dù được cả hai đài phát thanh sắc tộc toàn quốc SBS phổ biến thôn báo, cổ động nhiều lần, phỏng vấn thượng tọa Thích Phước Nhơn.... được biết phái đoàn hùng hậu gồm: phó tăng thống Thích Hộ Giác, tổng thư ký Thích Viên Lý, pháp sư Thích Giác Đức, cư sĩ Võ Văn Ái, cô Ỷ Lan....khi đến Queensland, Victoria, Adelaide...không chùa nào chứa, dù tại Úc Châu có nhiều chùa ( chính các đồng đạo của họ mà còn tẩy chay, huống chi người ngoài đạo, Phật Tử..), nên ra mắt thơ tại hội trường, chỉ có ở Tây Úc và N.S.W là tại chùa Phổ Quang và Phổ Minh của thượng tọa Thích Phước Nhơn, là người trong ban tổ chức. Theo cuộc phỏng vấn trên đài SBS ở Melbourne, do Quốc Việt thực hiện, số người tham dự khoản 200, nhưng dân số tiểu bang người Việt là gần 70, 000 người ( hình như 200 người, tính luôn ban tổ chức, phái đoàn?). Như vậy, đủ thấy uy tín của cái giáo hội ngày nào được ủng hộ mạnh, với thần tượng" nhà đấu tranh Quảng Độ" nay sụp đổ thảm hại.

Sự cựa quậy của cư sĩ Võ Văn Ái không thể cứu vớt cái phao Quảng Độ đang chìm trong dân chúng, phật tử, giống như cái đầu rắn bị bất động, thì cái đuôi vẫy một lúc rồi nằm im trong cái" phản xạ có điều kiện". Dù cho cư sĩ dùng cả phòng tuyến cuối cùng là" Phòng Thông Tin Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" tại Paris để lợi dụng ra những" bản tin", thông cáo....có đang trên cơ quan nhà" QUÊ MẸ" hay được một số cơ quan truyền thông khác phổ biến, được coi là" bản tin", nhưng bây giờ thì đã" QUÊ MẸ rồi!" Giáo sư kiêm "Nhất Diện Đa Tâm Cư Sĩ ơi!". Khi rút vào thành trì, dùng thứ vũ khí cuối cùng là" bản tin" từ văn phòng thông tin...là coi như" tận nhân lực" nhưng giờ nầy thì không còn cơ hội để" tri thiên mạng " khi lòng tin vào tăng sĩ và những người thuộc khối Ấn Quang là không còn nữa...ngáo bịp gây nghiệp báo đấy!.

Đạo phật vẫn luôn" cứ khổ cứu nạn" nhưng cũng mang tin thần" cứu khổn phò nguy" trong tinh túy" đại hùng, đại lực, đại từ bi", thể hiện qua chuyện Tây Du Ký, với nhân vật Tôn Ngộ Không:"diệt tà, trừ quỷ". Những câu chuyện mù quáng của một kẻ" người phàm mắt thịt" Tang Tạm, nhưng lại là" tư lịnh" trong chuyến thỉnh kinh, khi nhìn thấy đệ tử Tôn Ngộ Không đánh bọn ma quái giả dạng thành người, hay có lúc giả làm Phật, được Tam Tạng quỳ lạy, tôn kính...và Tam Tạng hiểu lầm, nên niệm chú Kim Cô, làm hại để tử, người giúp mình đi thỉnh kinh. Nhưng sau nầy, khi nhìn ra, thì nhiều lần xuýt bị ma quái xơi tái, làm hỏng cả công trình lớn. Bài học nầy là thí dụ điễn hình để thức tỉnh những Tam Tạng Thời đại, vẫn mờ trí như cõi vô minh, nhìn tăng thường thành thánh tăng để vội vàng chụp mũ những người vạch ra sự gian trá của đám tăng ni hay những người từng đứng dưới tàng lộng Ấn Quang, gây nên nghiệp báo./.

TRƯƠNG MINH HÒA

18.07.2009

  • GHI CHÚ: (*)



  • GHI CHÚ: (*)


No comments:

Post a Comment