Friday, October 5, 2012

Liên thành họp báo 11 giờ Sáng Thứ Bảy 13-10-2012 về Võ Văn Ái, chùa Điều Ngự


 1 -- Nam Cali: Video UBTTTADCSVN: Thư Mời Họp Báo 11 giờ Sáng Thứ Bảy 13-10-2012
 
 
 

- Nguyên Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Ty CSQG/Thừa Thiên-Huế 1966-1969
- Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG  Thừa Thiên-Huế 1969-1975

V/V: -ÔNG ĐÔN HẬU KHÔNG LÀ CỘNG SẢN
-MẬU THÂN 1968, ÔNG ĐÔN HẬU BỊ VC BẮT RA HÀNỘI.
Kính Gởi:
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quãng Độ, xử lý thường vụ Viện Tăng Thống
Giáo Sư Võ Văn Ái

Thưa Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ,
Thưa Giáo Sư Võ Văn Ái,
Thích Đôn Hậu
Cách đây gần ba năm, vào cuối thu năm 2007, khi đặt bút viết những dòng chữ đầu tiên về các Biến Động Miền Trung từ 1966-1975, tôi đã tiên liệu rằng, rồi ra sẽ là một “biến động lớn” tại hải ngoại và quốc nội. Bởi vì, những gì tôi viết ra tuy là những sự việc đã thực sự xảy ra, những đầu mối để dẫn đến một thời điểm đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, nhưng trong đó, có những việc liên quan đến một số nhân vật, đã dùng chiếc áo tu hành, cố đem thần quyền khống chế thế quyền. Thế quyền đó chính là 2 chính thể Việt Nam Cộng Hòa, đã bị một số người bất lương, hùa theo cộng sản, cãi trang trong cái võ bọc tôn giáo, quyết tâm triệt hạ chính quyền Miền Nam, nhằm phục vụ tích cực cho đảng Cộng sản trong mưu đồ thôn tính toàn cõi đất nước Việt Nam. Vì vậy, đã có một số người không vừa lòng, vì tôi đụng chạm đến các lãnh tụ Phật Giáo, vì tôi đưa ra những sự việc không làm vừa lòng họ, một số khác chống đối vì họ muốn ém nhẹm sự việc.

Nếu tôi dựng chuyện vu khống các vị cho dù là thường dân hay các bậc tu sĩ, thì lương tâm và danh dự tôi là một bản án trừng phạt nặng nhất cho chính tôi, chứ không cần đợi cho ai chứng minh là tôi sai hay vu khống cả. Vì thế, không một thế lực nào trên đời này có thể cản trở tôi nói ra sự thật. Tôi đã từng xông vào chùa Trà Am, bắt sư Thích Như Ý, em Hòa Thượng Thích Trí Thủ, sau đó đến chổ nghĩa địa cất dấu, lôi ra 6 ký lô chất nỗ hợp chất C3 và 8 ngòi nỗ chậm, trước sự chưởi rũa của Ông Thích Như Ý rằng tôi là mật vụ Mỹ Thiệu, con dòng cháu giống đi làm du đảng đàn áp quý thầy, thâm ý của ông ta muốn làm nao núng áp đảo tinh thần tôi, nhưng ông Như Ý đã lầm, khi tôi đã cân nhắc hơn thiệt đúng sai, đúng là cộng sản, tôi đi đến cùng, triệt hạ thẳng tay, bất kể đó là chùa hay nhà thờ.

Núp bóng thế lực chùa hay nhà thờ để tạo sức mạnh hoạt động cộng sản, gây rối trị an, hoàn toàn không có giá trị gì với tôi cả. Sau 1975, Thích Như Ý hiên nguyên hình là tên Việt Cộng nằm vùng đặc trách Tôn Giáo Vận. Sự việc này không ai có thể chối cãi. Các anh em CSQG cùng với đến lục soát chùa Trà Am hiện nay còn sống tại Hoa Kỳ, dân chúng trong vùng gần chùa Trà Am còn đó. ĐLHT và ông Võ Văn Ái dễ dàng kiểm chứng sự kiện.

Những nhân vật mà tôi đề cập trong Biến Động Miền Trung đó là: Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Như Ý, Chánh Trực v.v những người đã được phật giáo đồ miền trung đặc biệt là Thừa Thiên-Huế kính trọng, tôn sùng, xem như là các bậc thánh linh trong đời sống, nay bỗng chốc bị lột trần ra là đảng viên Cộng Sản, là cán bộ Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo, lợi dụng tôn giáo để phỉnh gạt tín đồ để thi hành các công tác mà cơ quan tình báo Chiến lược Cộng Sản Bắc Việt giao phó.

Vì lẽ đó, “Biến Động Miền Trung” là một sự thật làm bàng hoàng, đau đớn, và gây xúc động cho nhiều người. Ngược lại, “Biến Động Miền Trung” cũng đã tạo một cơn chấn động bởi một số người không những không chịu chấp nhận sự thật, lại còn ráng bóp méo, cho rằng BĐMT ra đời là để bôi nhọ, đánh phá Phật Giáo, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Tôi sợ những dư luận rẻ tiền này không? Thưa không!

Bởi vì Biến Động Miền Trung không ai khác, chính là gây ra bởi phong trào gọi là Phật Giáo Tranh Đấu phản loạn, đầu têu bởi một số cá nhân hoạt động cộng sản, núp bóng trong hàng ngủ lãnh đạo Phật Giáo. Và tôi là người đem sự thật ra phanh phui, cho nên, nói đến Biến Động Miền Trung là nói đến sự thù ghét cá nhân tôi, Liên Thành, bởi những kẻ tin người giảng đạo hơn là tin đạo. Chúng viết bài viết sách lý luận mơ hồ nhảm nhí chữi bới hạ cấp như những kẻ đầu đường xó chợ, và tôi, Liên Thành, không hề đếm xỉa gì đến những tình cảm thương ghét chữi đổng hạ cấp này.

Quá trắng trợn, họ đưa ra những sự việc đầy cảm tính, ước đoán hết sức mơ hồ mông lung, để bênh vực và biện minh rằng ông Thích Đôn Hậu, thuộc hàng lãnh đạo Phật Giáo có tên tuổi, đã bị bọn Việt cộng bắt đi ra Bắc trong Tết Mậu Thân 1968. Đây là cuộc ra đi vì bị bắt buộc bởi một tiểu đội quân Cộng Sản Bắc Việt dí súng AK vào người ông ta, và rằng ông ta không bao giờ thỏa hiệp với chính quyền Cộng Sản Miền Bắc về cuộc ra đi này cả. Những lối nói khơi khơi không có sự kiện để chứng minh như thế, chẳng bao giờ có chút giá trị nào đối với hệ thống luật pháp của bất cứ quốc gia nào, kể cả tụi cộng sản.

Tấm ảnh chụp năm 1976, tại chùa Thiên Mụ. Thích Đôn Hậu, Chủ tịch Ủy ban hòa bình, thống nhất, dân chủ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam vui vẻ trò chuyện với Tổng bí thư Lê Duẩn (ngoài cùng bên phải) và đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ảnh VNExpress

Gần đây nhất, trên internet tôi tình cờ đọc được thông tư đề ngày 17-1-2010, số 07/VHĐ/VT của Hòa Thương Quảng Độ đăng chính thức trong website queme.netngày 18/1/2010, với tư cách là Xử lý Thường Vụ viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng viện Hóa Đạo, PGVNTN gởi đồng bào Phật Tử về một: “Hiện trạng vu khống, chụp mũ hàng giáo phẩm PGVNTN đang lưu hành trên mạng và các cơ quan truyền thông”.

Đọc xong thông tư của Đại Lão Hòa Thượng, tôi thấy bản thông tư này, từ ý tưởng, nội dung, đến cách hành văn, dường như rất quen thuộc của ông Võ văn Ái, khó mà giống của Hoà Thượng. Tuy nhiên, cho dù không phải là do ĐLHT Quảng Độ viết, mà là của GS Võ văn Ái, tôi nhận thấy rằng tôi phải chính thức trả lời ĐLHT và ông Võ văn Ái, vì thông tư đứng tên ĐLHT, và vì những vấn đề trong thông tư quá mơ hồ và sai sự thật.
Trả lại sự thật cho lịch sử là bổn phận của tất cả mọi công dân đã vì duyên nghiệp mà biết được những oan khiên sai trái của những âm mưu chính trị đen tối. Tôi, Liên Thành, vì chức vụ, bổn phận, và trách nhiệm mà biết được những điều đó, thì tôi không có quyền im lặng, vì, trách nhiệm đối với đất nước và lịch sử là bổn phận tối thượng. Đó là trách nhiệm thiêng liêng trên hết mọi lãnh vực, nó trên cả lãnh vực tôn giáo. Không ai có thể nhân danh lãnh đạo tôn giáo, nhân danh tôn giáo để che đậy sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam này.

Tôn giáo là tôn giáo, Phật Giáo là Phật Giáo, lãnh đạo Phật Giáo là lãnh đạo Phật Giáo, họ là những người đi rao giảng lời Phật, họ không là Phật, họ cũng chẳng là Phật Giáo.

Điều này quá rõ và quá đơn giản, nhưng vẫn còn có một số người cố bám víu trộn lẫn các phạm trù này lại, cho rằng quý vị đó là Phật Giáo, để đánh lận dư luận, mưu đồ lợi dụng sức mạnh tôn giáo để thực hiện những mưu toan chính trị không ngay thẳng.

Cuối cùng, với trách nhiệm là một Phật Tử, tôi phải đặt đức công bằng lên trên tất cả những tai tiếng của các lãnh đạo tôn giáo của đạo mình, mà ngay chính cá nhân tôi, trong chổ riêng tư, phần nào cũng muốn dấu bớt, vì xấu hổ.

Tôi sẳn sàng đối chất minh bạch với ĐLHT Thích Quảng Độ và cả ông Võ Văn Ái, trên tất cả các phương tiện truyền thông và công luận, nếu như ông Võ Văn Ái là người sáng tác ra bản thông tư này.

Trong thông tư, ĐLHT yêu cầu các chư Đức, Tăng, Ni, Phật tử đặc biệt là ở hải ngọai có nhiều phương tiện thông tin, “Tìm kiếm tài liệu, thu thập chứng liệu, và tìm phương cách giải, hoặc những bài viết, hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tâm vu cáo PGVNTN theo các chủ trương tiêu diệt những sinh lực dân tộc, mà Phật giáo là một, cho những viễn đồ phi dân tộc và phản tổ quốc”.

ĐLHT Thích Quảng Độ, hay GS Võ văn Ái đã đưa ra một số hiện trạng vu khống và chụp mũ 2 lãnh đạo Phật Giáo như sau:
1. Đệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết là Cộng Sản.
Thật tình, tôi rất ngạc nhiên khi đọc đoạn nầy. Bởi lẽ, dường như từ trước đến nay chưa bao giờ tại hải ngoại có một tài liệu nào, có bài báo nào, ngay cả trên hệ thống Internet, nói rằng Đệ Nhất Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là Cộng Sản! Nếu như tôi sai, xin ĐLHT và ông Võ Văn Ái cho tôi đọc qua các tài liệu đó.

Phần tôi, có lẽ tôi là người may mắn biết rõ và sống rất gần với Đệ Nhất Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, người mà anh chị em chúng tôi gọi là ông, nói theo tiếng địa phương xứ Huế, thì chúng tôi gọi là Ôn:
Ôn tôi, Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, và bà nội tôi, Phu Nhân Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, là hai anh em bạn dì ruột. Đức Đệ I Tăng Thống là anh, và Bà Nội tôi là em. Cả hai là con của hai bà Công Chúa chị em ruột, con gái vua Thiệu Trị.

Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết xuất gia từ năm 10 tuổi. Ngôi chùa ông tu đạo và sau nầy khi giữ chức Đệ I Tăng Thống là Chùa Tường Vân, chỉ cách chùa Từ Đàm không quá 3 Km.

Là Phật Tử ở Huế, ai cũng biết ông là một vị chân tu, không màng đến chuyện chánh trị, chánh em, không ham mê quyền lực, một đời tu hành thanh bạch. Tình cảm duy nhất đối với trần tục, có lẽ là tình thương của ông đối với người em gái gian truân thiếu may mắn, là Bà Nội tôi. Từ khi tôi còn nhỏ cho đến khi lớn khôn, tại ngôi nhà gần chùa Từ Đàm vùng Nam Giao, không tuần lễ nào tôi không thấy Ông đến thăm bà nội tôi một vài lần. Bà nội tôi đi pha trà, hai anh em ngồi nói chuyện bâng quơ, chúng tôi lẫn quẫn đâu đó, ông xoa đầu chúng tôi, cho ít hoa quả bánh trái, xong rồi ông lại về chùa. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại chạy lên chùa chơi với ông. Có lẽ vì gần gũi lẫn quẫn với ông như vậy, nên anh tôi, Liên Phú, cũng theo chân ông, trở thành một người xuất gia, sau đó ở cận kề với ông đến ngày ông mất, nay là Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Kim.
Đó là những ngày anh em chúng tôi còn thơ ấu.

Ngày Bà nội tôi mất, có lẽ ông là một trong những người buồn nhất. Ôn chủ lễ, tụng kinh niệm Phật, nét mặt u sầu không nói năng chi, đôi dòng lệ chảy dài trên má, trông thật thương tâm. Đó là đời tư của Ôn mà tôi biết.
Còn về đời công của ông, với tư cách là phó trưởng Ty CSĐB/BCH/CSQG Thừa Thiên Huế từ 1966, đến sau Mậu Thân 1968 và sau đó đảm nhiệm chức vụ trưởng ty CSQG/Thừa Thiên Huế cho đến đầu năm 1975, tính ra khoảng 9 năm, tôi có có thể xác nhận là trong suốt 9 năm nắm giữ ngành tình báo tại Thừa Thiên Huế, không có một sự kiện, một tin tức nào ghi nhận Đệ I Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là Cộng Sản, hay ngay cả đến việc vô tình hoạt động có lợi cho Cộng sản. Tài liệu trong văn khố của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, trước khi tôi nhậm chức, cũng ghi nhận sự trong sáng của Đệ Nhất Tăng Thống, không hề dính liếu đến cộng sản, mặc dù các biến cố chính trị quan trọng của đất nước có liên quan nhiều đến một số các vị lãnh đạo Phật Giáo cấp nhỏ hơn chung quanh ông, mà đã, hoặc chính là cộng sản, hoặc hoạt động có lợi cho cộng sản . Không có vị tu sĩ nào đã quyến rũ được Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết đi theo con đường cộng sản.

Sau Mậu Thân 1968, hồ sơ cá nhân trong văn Khố của BCH/CSQG/Thừa Thiên Huế ghi nhận về Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, Lê Hữu Bôi, Sinh Viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, ra Huế ăn Tết và dự định đi hỏi vợ. Ra Huế, SV Lê Hữu Bôi trú ngụ tại chùa Tường Vân với cậu mình là ngài Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết. SV Lê Hữu Bôi đã bị bọn Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, bắt và đem đi chôn sống. Hồ sơ của SV Lê Hữu Bôi tại Văn Khố có ghi rõ: Sinh Viên Lê Hữu Bôi là cháu gọi Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết là cậu ruột.

Ôn Tịnh Khiết nuôi dưỡng SV Lê Hữu Bôi từ nhỏ. Trong gia đình, SV Lê Hữu Bôi thuộc vai anh của ba tôi, cháu của bà nội tôi và cũng là cháu ôn Tịnh Khiết, và do đó, tôi gọi SV Lê Hữu Bôi là Bác.

Chúng giết SV Lê Hữu Bôi vì SV Lê Hữu Bôi là người quốc gia, không đồng hội đồng thuyền với chúng, không cộng tác với chúng trong phong trào sinh viên tranh đấu, Phật Giáo tranh đấu, và như thế chúng đổ cho SV Lê Hữu Bôi là làm việc cho CIA. Bất cứ ai người Miền Nam hoạt động trong chính quyền không nghe theo khuynh hướng cộng sản đều là CIA cả.

Còn Ôn Tịnh Khiết, vì lý do danh tiếng của ngài quá lớn, chúng e dè chưa dám giết. SV Lê Hữu Bôi là thành phần quốc gia yêu nước chân chính, được giáo dưỡng từ nhỏ bởi cậu mình là ngài Đệ Nhất Tăng Thống. Bấy nhiêu đó cũng cho thấy ngài Đệ Nhất Tăng Thống Ôn tôi là một vị chân tu không hề ưa thích cộng sản. Bằng không, nếu như Ôn tôi có hoạt động cộng sản với Trí Quang, có lẽ, Lê Hữu Bôi đã đi theo con đường bọn sinh viên tranh đấu hoạt động cộng sản rồi.

Tóm lại, tôi không vì tình cảm liên hệ gia đình với Đệ I Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh khiết mà bào chữa cho ông để nói những điều không đúng sự thật.

Tôi có thể xác nhận công khai, minh bạch, với danh dự của cá nhân tôi, và danh dự cũng như tư cách của một cựu CHT/ CSQG/ Thừa Thiên Huế:
Tôi chưa bao giờ nghe, cũng như trong 9 năm phục vụ tại BCH/CSQG Thừa Thiên Huế không ghi nhận một tin tức nào nói rằng: Đệ I Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết họat động cho Cộng Sản.

Số anh em trong BCH/CSQG TT/ Huế hiện đang ở hãi ngoại rất đông, đặc biệt Hoa Kỳ, và một số vị có thẩm quyền khác hiện còn sống, có thể là nhân chứng việc này.

Và tôi sẳn sàng đối chất cho ra lẽ với bất cứ cựu viên chức nào, cá nhân có tên tuổi nào, cáo buộc Đệ Nhất Tăng Thống là cộng sản.

Điều mà trong thông tư của Hòa Thượng Quảng Độ hay chính của ông Võ Văn Ái tại Paris nói rằng, có kẻ đã vu khống Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết là Cộng Sản, tôi không hiểu ĐLHT Quãng Độ và ông Võ Văn Ái lấy tin tức nầy ở đâu, có giá trị hay không? xin cho tôi biết chính xác tên tuổi của cá nhân kẻ đó là ai? Kẽ đó có phải là những viên chức liên quan đến tình báo nội an trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hay không? Tôi sẳn sàng đối chất trước công luận và báo chí với họ, dẫn chứng với nhân chứng sống hiện đang ở hãi ngoại. Còn những chuyện vụn vặt tầm phào vớ vẫn online, tên ma tuổi quỹ, xin ông Võ Văn Ái đừng dẫn chứng.

Tóm lại thông tư của Hòa Thương Quảng Độ, hay của GS Võ văn Ái phản đối việc vu khống Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết là Cộng Sản là một điều đúng và chính đáng, tuy nhiên, xin nhị vị cho công luận biết cụ thể, kẽ đó là ai? Có giá trị để bàn cãi hay không?
2- Phản đối của Hòa Thượng Quảng Độ hay của GS Võ văn Ái về “hiện trạng vu khống, chụp mũ Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu là cộng sản.” 

Kèm theo lời phản đối này, GS Ái còn nói ông ta có một số dự kiện và một hai cuốn băng thâu lời nói của Đệ III Tăng Thống Thích Đôn Hậu để biện minh rằng ông Đôn Hậu không thể là cộng sản, và sự ra đi của ông ta trong Tết Mậu Thân là bị Việt Cộng dí súng AK vào lưng bắt đi v.v…

Kính thưa Hòa Thượng Thích Quảng Độ, 
Thưa ông Võ văn Ái, 
Tôi, Liên Thành, nguyên CHT/BCH/CSQG/ Thừa Thiên Huế, có mặt tại Huế và theo dõi ông ta trong thời gian ông Đôn Hậu hoạt động và thoát ly theo cộng sản, chính là người đã nói trong các cuộc thuyết trình về Biến Động Miền Trung và viết trong cuốn sách cùng tên rằng: 
Ông Thích Đôn Hậu là Cộng Sản, và sự ra đi của ông Đôn Hậu và phái đoàn của ông ta ra Hà Nội trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế là một sự sắp đặt từ lâu của chính phủ Cộng Sản Hà Nội, và được đã sự đồng ý, thỏa thuận, của Ông Đôn Hậu. 

Luận điệu nói rằng ông Đôn Hậu ra Bắc vì bị một tiểu đội Việt Cộng dí súng AK vào người ông ta dẫn đi chỉ là lời phát biểu suông mơ hồ, không đúng đắn, che dấu sự thật một cách khó thuyết phục, của những người chỉ là những kẻ bàng quang ngoại cuộc, không hề có một chút liên hệ gì đến hệ thống tình báo nội an của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, để có thể có chút uy tín chống đỡ bảo vệ cho lời phát biểu của mình.

Để có thể chứng minh cùng ĐLHT và ông Võ Văn Ái , tôi sẽ lần luợt đưa ra từng sự việc mà cơ quan tình báo của lực lượng CSQG tại Thừa Thiên Huế đã thu thập. Chúng tôi đã bám sát theo dõi mọi hành động, mọi hoạt động của tên Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan từ cuối tháng 6/1966, cho đến ngày Hoàng Kim Loan bị lực lượng chúng tôi bắt giữ vào tháng 5 năm 1972. Tính đến ngày Hoàng Kim Loan bị chúng tôi bắt, y đã hoạt động trong lãnh vực Tôn Giáo Vận, Trí Thức Vận đến 22 năm tại Huế, và liên quan chặt chẽ với các ông: Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Thích Như Ý. Đó là danh sách những kẻ lợi dụng tôn giáo, tin đồ, hoạt động cho Cộng Sản.

Lần này trả lời cho ĐLHT và ông Võ Văn Ái, tôi chỉ giới hạn trường hợp của Ông Thích Đôn Hậu mà thôi. Những trường hợp những người kia, xin hẹn dịp khác.

Đầu tiên, có thể tóm tắt thân thế và sự nghiệp của Ông Đôn Hậu như sau:
Ông tên thật là Diệp Trương Thuần.
Sinh ngày 16-2-1905 tức ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ
Sinh quán tại làng Xuân An, Tổng An Điền, phủ Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị.
Thân Phụ: Diệp văn Kỷ, là một lương y. Thân Mẫu: Bà Nguyễn thị Cựu.
Xuất gia ngày 19 tháng 6 năm 1923 tức là năm Quý Hợi tại Chùa Tây Thiên, Huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên. Lúc ấy ông 18 tuổi.

Sư Phụ là ngài Tâm Tịnh.
-Năm 1945 nhận chức trù trì chùa Linh Mụ
- Năm 1963 đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diện và nền đệ nhất Cộng Hòa.
- Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, ông Đôn Hậu được cử làm Chánh đại diện miền Vạn Hạnh.
- Mậu Thân 1968, theo đề cử của Thành ủy Viên Thành ủy Việt Cộng Hoàng Kim Loan, ông Đôn Hậu được cử vào Chức Vụ Phó Chủ Tịch Lực Luợng Liên Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình tại Huế.
- Tháng 1/1968 tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thoát ly lên mật khu và sau đó ra Hà Nội.
- Tại Hà Nội Ông Đôn Hậu được đề cử Phó trưởng đoàn đại diện cho thành phần trí thức, tôn giáo, “quần chúng Miền Nam yêu nuớc” xuất ngoại truyên truyền cho cuộc chiến xâm lăng của Hà Nội tại miền Nam Việt Nam, tuyên truyền rằng chính phủ VNCH là một chính phủ đàn áp Phật Giáo, đàn áp nhân dân. 
- Tháng 6 năm 1968 Ủy viên Hội Đồng Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam của Việt Cộng.
- 1970 Ủy Viên thường trực Ban Chấp Hành Hội Phật Giáo Á Châu vì Hòa Bình, một tổ chức của Cộng sản.
- 1976 Đắc cử Đại biểu Quốc Hội Khóa VI nước cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
- Cũng trong năm 1976 giữ chức vụ Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Hai vị hẳn còn nhớ đám tang của Ông Đôn Hậu Đã được Hà Nội tổ chức long trọng như thế nào, những nhân vật cao cấp nào của chính phủ và đảng Cộng Sản Việt Nam tham dự đám tang này. Tôi xin nhắc lại vài nhân vật:
Nguyễn Quyết, phó chủ tịch Hội Đồng Nhà Nước, Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Trung Uơng, Vũ Thắng, Ủy Viên Trung Ương Đảng, kiêm bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên /Huế, Nguyễn Chính, phó trưởng ban Tôn Giáo Chính Phủ.

Gởi vòng hoa viếng, có các tên tuỗi lẫy lừng của Đảng như sau: Đỗ Mười, tổng bí thư BCH Trung Ương Đảng, Võ Chí Công, chủ tịch nhà nước, Phạm văn Đồng, cố vấn BCH Trung Ương Đảng, Lê Quang Đạo, chủ tịch quốc hội, Võ Văn Kiệt, chủ tịch Hội Đồng bộ Trưởng.

Và biết bao huy chương cao quý đã được đảng cộng sản Việt Nam trao tặng ông Đôn Hậu! Đám tang thật rình rang! Thiết nghĩ, chẳng cần nhắc lại thì ĐLHT và ông Võ Văn Ái cũng đã rõ. Câu hỏi được đặt ra cho công luận và lịch sử là, có ai đã từng được nhà nước cách mạng trao tặng huy chương cao quý tổ chức tang lễ trọng vọng mà không từng hoạt động cộng sản? Xin hai vị cho công luận biết?
Cũng là tăng thống như ông Đôn Hậu, nhưng Đức Đệ Tứ Tăng Thống, ĐLHT Thích Huyền Quang có được tặng huân chương nào không? Câu trả lời quá dễ dàng, bỡi vì ĐLHT Huyền Quang không hoạt động cho bọn chúng.

Nhưng quan trọng hơn cả là những hoạt động của ông Đôn Hậu qua sự chỉ đạo điều khiển của tên Trung Tá Điệp Viên Cộng Sản Bắc Việt Hoàng Kim Loan từ truớc 1963, những điều nầy ĐLHT và ông Võ Văn Ái chưa bao giờ biết, tôi xin tóm tắt để hai vị rõ:
Cuối tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn của ông Trí Quang và đồng bọn tại miền Trung, đặc biệt tại Huế bị thất bại, tất cả đám tay chân thân tín của các ông Trí Quang và Thích Đôn Hậu đều là cơ sở nội thành Việt Cộng, do tên Trung Tá VC Hoàng Kim Loan chỉ huy, bị lực lượng an ninh của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh Hành Quân Dẹp Loạn Miền Trung, cùng lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên Huế do tôi chỉ huy, ráo riết lùng bắt. Do vậy, cơ quan An ninh Khu ủy Trị Thiên, và cơ quan an ninh Tỉnh Thị Ủy Thừa Thiên-Huế đã chỉ thị cho tên Trung Tá điệp viên Hoàng Kim Loan khẩn cấp cứu đám cơ sở nằm vùng quan trọng đưa lên mật khu. Điển hình cho việc này là vụ giải thoát anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ Ngọc Phan, vụ giải thoát cho tên cán bộ nội thành VC Nguyễn Tròn, vụ giải thoát tên đồ tể Nguyễn Đắc Xuân.
1- Hai cán bộ nội thành Tôn Thất Dương Tiềm và Lê Cảnh Đạm do Hoàng Kim Loan phái đến nhà Trịnh Công Sơn tại đường Nguyễn Trường Tộ Huế, để đưa hai tên Tường và Phan bằng chiếc xe hơi màu trắng của Bà Tuần Chi, tức Đào thị Xuân Yến, lên chùa Linh Mụ qua Văn Thánh rồi từ đó đi bộ lên mật khu, tháng 6/1966. Nhân chứng của vụ theo dõi đường đào thoát của bọn này hiện còn sống tại Hoa Kỳ. Hồi ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất bản năm 2000 cũng có xác nhận chuyện này.

2- Vụ giải thoát tên Nguyễn Tròn, nguyên bồi bàn nhà hàng Quốc Tế tại đường Phan Bội Châu: Nguyễn Tròn là tên việt cộng nằm vùng đại nguy hiểm. Hắn là tay chân đắc lực của ông Trí Quang và Hoàng Kim Loan.
Nguyễn Tròn trốn tại chùa Kim Tiên của Thích Chánh Trực, Hoàng Kim Loan cho giao liên đến đưa Nguyễn Tròn lên mật khu cưối tháng 6/1966. Mậu thân 1968 y từ mật khu về thành phố Huế giết vô số dân lành.
3- Cũng như hai trường hợp trên, Hoàng Kim Loan đã đưa Nguyễn Đắc Xuân đang trốn tại chùa Tường Vân, lên mật khu vào tháng 7/1966. Chùa Tường Vân là nơi ôn Tịnh Khiết trù trì. Ôn Tịnh Khiết đã hoàn toàn không biết Thích Chánh Trực và Nguyễn Đắc Xuân là những tên cộng sản trá hình.

Do tình hình căng thẳng bởi sự lùng bắt ráo riết gắt gao của chúng tôi, nên Hoàng Kim Loan đã vấp phải lỗi lầm sơ đẵng về bảo mật và an ninh cá nhân, vì thế mà hành tung của y đã bị chúng tôi phát hiện từ cuối tháng 6/1966.
Sau một thời gian ngắn bám sát và theo dõi Hoàng Kim Loan, toán theo dõi lúc đó đã phát hiện và phúc trình cho tôi có đoạn nói rằng:
“Hoàng Kim Loan đã xâm nhập vào Chùa Linh Mụ một vài lần, nhưng tiếp xúc với ai trong chùa thì vẫn chưa phát hiện được”.

Một thời gian ngắn sau đó vào khoảng tháng 4/1967, chúng tôi đã tuyển mộ được một mật báo viên từ trong chùa, do đó chúng tôi phát hiện người mà Hoàng Kim Loan thường đột nhập vào chùa để tiếp xúc chính là ông Đôn Hậu. Ngoài ra cũng từ mật báo viên nầy chúng tôi phát giác Bà Tuần Chi tức Đào Thị Xuân Yến là cơ sở quan trọng của Hoàng Kim Loan, và bà ta cũng được cộng sản cài vào, trở thành tình nhân của ông Đôn Hậu.

Tôi phúc trình lên cấp cao hơn mọi sự việc, sau đó chúng tôi quyết định mở chiến dịch xâm nhập. Công việc đang tiến triễn tốt đẹp thì Mậu Thân 1968 xảy ra.

2:32 giờ đêm mồng một, rạng sáng ngày mồng hai Tết Mậu Thân, 10,000 quân Cộng Sản tấn công và chiếm Huế, trong số 10,000 quân nầy có 4700 quân chính quy, số còn lại là du kích, và đám cơ sở nội thành.

Số cơ sở nội thành nầy, đại đa số là thành phần tranh đấu năm 1966 của ông Trí Quang và Đôn Hậu, chúng thoát ly lên mật khu 1966 nay từ rừng xanh trở lại Huế và họ đã biến Cố Đô Huế thành một địa ngục có thật tại trần gian trong 26 ngày, hay là 624 giờ đau thương mà tính đến hôm nay, Mậu Thân là lịch sử thảm khốc nhất của Huế, đau đớn nhất Miền Nam, do bọn cộng sản chính quy và bọn tranh đấu nằm vùng gây ra
Sáu giờ sáng ngày mồng hai Tết Mậu Thân 1968, dân chúng Huế kinh hoàng khi nhìn lên kỳ đài Ngọ Môn, lá cờ vàng thân yêu không còn nữa, mà thay vào đó là lá cờ rất lạ, có 3 mảnh: hai bên màu xanh, giữa màu đỏ có ngôi sao vàng. Cờ này hoàn toàn không phải của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (vì cờ của MTGPMN chỉ có hai mảnh: nửa xanh nửa đỏ, giữa có sao vàng), cũng không phải cờ đỏ sao vàng của Cộng Sản Hà Nội. Đó là cờ của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình do Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ thị cho Trung Tướng Việt Cộng Trần Văn Quang Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên cũng là Tư Lệnh Chiến trường Trị Thiên, và Lê Chưởng Chính Ủy mặt trận Trị Thiên thành lập, phong ông Lê Văn Hảo làm chủ tịch, ông Đôn Hậu làm phó chủ tịch, trước khi bọn chúng tấn công Huế. Đây là một tổ chức chính trị thứ 2 sau tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Nhiệm vụ của tổ chức nầy là phát động một cuộc Tổng Nỗi Dậy của quần chúng Huế, khi lực lượng quân sự của VC tràn vào, nhằm thi hành một xảo thuật chính trị là đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế rằng: Cuộc chiến tranh miền Nam là do chính dân chúng Miền Nam và những thành phần trí thức, tôn giáo, vì bất mãn với Ngụy Quyền, Ngụy Quân và đế quốc Mỹ mà tự phát động cuộc Tổng Nỗi Dậy. Chính vì vậy, những người như ông Đôn Hậu, Lê văn Hảo, Đào thị Xuân Yến, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân v.v đã được chúng bảo vệ tối đa để sử dụng làm những viên gạch lót đường cho chiêu bài “Người Dân Miền Nam Tổng Nỗi Dậy” này.

Cuộc Tổng nỗi dậy trong Mậu Thân 1968 tại Huế được giao cho Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình đảm trách, và sử dụng một lực lượng quân sự gần 10,000 quân, gồm quân chính quy, du kích, và đông đảo nhất là đám nằm vùng mà bọn chúng phong là Quần Chúng Cách Mạng.

Vì chiến thuật, chiến lược, và mánh lới chính trị đó, nên trong suốt 26 ngày chiếm Huế, lá cờ duy nhất đã treo trên kỳ đài Ngọ Môn chỉ là cờ của Lực Lượng Liên Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Binh mà thôi, nói một cách nôm na, đó chính là: cờ của ông Đôn Hậu và Lê văn Hảo.

Vậy, Lực Lượng Liên Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình tại Huế là do cộng sản đạo diễn, nhưng những diễn viên địa phương gồm những ai?

Sau đây là các diễn viên chính:
1- Chủ Tịch : Giáo sư Lê văn Hảo 
Lê văn Hảo là Giáo sư Nhân chủng Học của trường Đại Học Huế.
2- Phó chủ Tịch: Hòa Thượng Thích Đôn Hậu
Ông Thích Đôn Hậu là Chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh. trù trì chùa Linh Mụ.
3- Tổng Thư Ký: Giáo sư Trung học Hoàng Phủ Ngọc Tường.
4- Phụ trách trí thức, học sinh, sinh viên: Nguyễn Đắc Xuân 

Tuy thực chất chỉ là những con cờ của Đảng Cộng Sản, nhưng hẳn công luận phải đồng ý rằng, những con cờ đó, những người Miền Nam đó, đã từng say mê và hoạt động điên dại hết lòng hết sức cho cộng sản. Và nếu không phải là người thực thụ của chúng, bọn cộng sản có thể tin tưởng để vào những chức vụ này không?
Hãy nhìn các hoạt động điên cuồng man rợ của các tên đồ tể nằm vùng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh v.v trong một hệ thống kết nối chặt chẽ với các ông Đôn Hậu, bà Tuần Chi, Lê văn Hảo, thì sẽ có câu trả lời là các ông Đôn Hậu, Lê văn Hảo, Tuần Chi có làm cộng sản hay không, có chịu trách nhiệm vụ Mậu Thân Huế hay không!

Điều đau lòng nhất không phải chỉ lực lượng cán binh Bắc Việt giết đồng bào Huế, mà còn là người Huế nằm vùng giết người Huế, giết rất dã man, chẳng hạn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn thị Đoan Trinh, Nguyễn Đắc Xuân.

Ngoài ra trong những ngày đầu chiếm Huế những người trong tổ chức Liên Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình này cũng đã được Bộ Tư Lênh Quân Khu Trị Thiên, thừa lệnh Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản, bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền mới toanh của Thừa Thiên Huế mà Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh vừa thành lập, và đây danh sách chính quyền cách mạng tại Huế:
1. Chủ tịch ủy ban Nhân Dân Thừa Thiên-Huế:
Giáo Sư Lê Văn Hảo.
2. Phó chủ tịch Ủy ban Nhân Dân Thừa Thiên-Huế
Bà Đào Thị Xuân Yến tức bà Tuần Chi, nguyên Hiệu Trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh Huế, người cực kỳ thân cận với ông Đôn Hậu vì nhiều lý do
3. Chủ tịch Tòa án Nhân Dân tại trường Gia Hội.
Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường.

4. Trưởng Ban An Ninh và bảo vệ Khu Phố: 
Nguyễn Đắc Xuân.

Thế nhưng, những ước tính và kế hơạch phát động quần chúng Tổng Nỗi Dậy tại Huế của Hồ Chí Minh và bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã thất bại hoàn toàn: bọn Việt Cộng đến đâu, dân chúng Huế kinh sợ bỏ chạy đến đó, chạy bán sống bán chết để về với quân đội quốc gia VNCH.

Còn nhớ trong ngày mồng hai, mồng ba Tết, tại Quận I và Quận II thị Xã Huế chính đích thân Nguyễn Đắc Xuân và toán An Ninh Bảo Vệ Khu Phố của y đã đi từng nhà một kêu gọi “dân chúng treo cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình của Ôn lên!” (Ôn Đôn Hậu), nhà nào không có thì lấy cờ Phật Giáo treo lên!”

Câu nói này của Nguyễn Đắc Xuân dân Huế đều biết, có chối cũng bằng thừa!

Nhưng dân chúng chẳng ai hương ứng cả. Cờ của dân chúng Huế là cờ vàng 3 sọc đỏ. Còn “Cờ của Ôn”, tức là cờ 3 mảnh : 2 mãnh màu xanh 1 mãnh màu đỏ giữa có ngôi sao vàng, của LMDTDCHB là điều lịch sử không thể phủ nhận! Ôn không thể chối đó không phải là cờ của Ôn!

Nguyễn Đắc Xuân cũng đã xác nhận chuyện “mọi người treo cờ của Ôn lên, hay lấy cờ Phất Giáo treo lên!”, trong cuốn hồi ký của chính y.

Thế thì, thưa quý vị, qua nguyên văn lời ra lệnh của Nguyễn Đắc Xuân, “Cờ của Ôn”, quý vị thử nghĩ, ông Đôn Hậu có hoạt động cộng sản, có dính liếu vào vụ Mậu Thân không? 

Và Nguyễn Đắc Xuân cũng đã xác nhận trong nhiều bài viết từ sau năm 1975 rằng ông Đôn Hậu hoạt động cộng sản đồng hội đồng thuyền đồng nhóm với y.

Kế hoạch “Tổng Nỗi Dậy” bị thất bại, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam cho lệnh thi hành “Biện Pháp Bạo Lực Cách Mạng”, hay “Biện Pháp Đỏ” để răn đe dân chúng Huế.

Kết quả của “Biện Pháp Đỏ”, dưới danh nghĩa Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình, là 5327 thường dân vô tội bị thảm sát bằng cách cột thành chùm, đập đầu chôn sống, và 1200 người bị dẫn đi mất tich.

Sau 26 ngày chiếm Huế, lực lượng quân sự lẫn chính trị của Việt Cộng thảm bại, rút lui trước sự phản công ồ ạt của Quân Lực VNCH và Đồng Minh, nhưng bọn cộng sản Việt Nam và lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, con đẻ của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, con nuôi của các ông Đôn Hậu, Lê văn Hảo, đã để lại cho thành phố Huế, cho đồng bào một nghĩa trang lớn với những tang tóc đau thương, oan nghiệt ngút tận trời xanh. Huế sau Mậu Thân là một dãi khăn tang trắng từ thành phố lên đến Ba Đồn, nơi mồ chôn tập thể của 5327 thường dân vô tội bị sát hại bởi bản chất sát máu và lòng hận thù của những người Cộng Sản, và của những tên nằm vùng người Huế trong lực luợng liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình như:
Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, và còn cả hằng trăm, hàng ngàn những cơ sở nội thành VC khác, mà đại đa số chúng là những kẻ chủ chốt trong vụ tranh đấu năm 1966 của Ông Trí Quang, Đôn Hậu, thoát ly lên Mậu khu khi cuộc tranh đấu thất bại, nay theo quân Việt Cộng trở lại Huế, trút mối hận xưa lên đầu người dân vô tội.

Trong những ngày binh lửa tại Huế và rồi một thời gian sau đó, đồng bào Phật Tử rất lo âu không hiểu “Ôn” Đôn Hậu Ở đâu? Ôn Đôn Hậu ở đâu?

Phật giáo đồ Huế đang tìm kiếm, hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết “Ôn ở mô?”, thì bỗng nhiên, thật ngơ ngác bàng hoàng khi nghe lời kêu gọi của “Ôn” trên đài phát thanh Hà Nội gởi Phật Giáo đồ và đông bào Huế nội dung là: 
“Hãy đoàn kết dứng dậy chống lại chính phủ miền Nam, chống lại Ngụy quyền, Ngụy quân và Đế quốc Mỹ”.

Chính là ôn chớ không ai khác! Giọng nói chính là của ôn Linh Mụ chớ không ai khác!

Dân chúng Huế xôn xao, kẻ thì nói Ôn bị Việt Công bắt đi, người thì nói “Ôn là Việt Cộng!”

Đến tháng 5 năm 1972 khi chúng tôi bắt được tên Trung Tá VC Hoàng Kim Loan thì các giả thuyết “Ôn Đôn Hậu bị Việt Cộng bắt đi ra Bắc”, hay “Ôn tình nguyện ra đi”, đã được xác quyết.

Lời khai của Hoàng Kim Loan về chuyện này đã được thẩm tra đi thẩm tra lại rất kỹ. Trưởng Trung Tâm Thẩm vấn, Trung úy Hồ Lang, phó Trung Tâm Thẩm Vấn, Trung Úy Nguyễn Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, phó đặc biệt, và tôi thay phiên nhau cũng như phối hợp điều tra. Sau đó, vì sự việc quá quan trọng và quá lớn, tôi yêu cầu phía tình báo Hoa Kỳ CIA giúp kiễm chứng thêm bằng máy đo sự thật. Hồ sơ dày cộm này, bao gồm cả kết quả của máy đo sự thật, được chuyển y về Trung Ương, đích thân Thiếu Tá Trương Công Ân bay vào Sài Gòn, trình Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh CSQG, Đặc Ủy Trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, kiên Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Tình Báo Quốc Gia hồ sơ nội vụ. Thiếu Tá Trương Công Ân hiện đang sống tại Bolsa, California.

Các nhân chứng nêu trên, đã đích thân lấy khẩu cung Hoàng Kim Loan, bằng những kỹ thuật thẩm vấn điêu luyện nhà nghề, cũng như phối kiểm các bằng chứng, các sự kiện liên quan mà chúng tôi theo dõi đã lâu trong vụ án nằm vùng quá lớn này, hiện đang sống tại Hoa Kỳ, tiểu bang Kansas và California, nếu ĐLHT Quãng Độ và ông Võ Văn Ái muốn đối chất, tôi sẽ cung cấp số phone của họ, để 3 mặt một lời, để công khai minh bạch hóa một sự thật đã bị cố tình che dấu.

Tôi xin nêu tóm tắt lý lịch của tên Trung Tá điệp viên Cộng Sản để hai vị có thể đánh giá lời khai của y có mức độ khả tín và quan trọng thế nào. Thêm nữa, việc nhân vật Hoàng Kim Loan có thật hay không, xin hai vị liên lạc với tôi để phối kiểm với nhiều nhân viên tình báo VNCH có thẩm quyền khác, đã từng thẩm vấn Hoàng Kim Loan, thuộc vùng I, ngoài tôi. Bởi vì, vụ Hoàng Kim Loan là một vụ án nằm vùng lớn nhất tại Huế, có thể nói vụ án nằm lớn vùng nguy hiểm nhất tại Miền Nam, nên ngoài BCH/CSQG/TT- HUẾ và tôi ra, còn có nhiều giới chức thẩm quyền khác, không thuộc ty CSQG TT/Huế thẩm vấn y.

Tiểu sử Hoàng Kim Loan:
Hoàng Kim Loan sinh 1920 tại xã Phong An, Quận Phong Điền Tỉnh Thừa Thiên.
Tham gia phong trào Việt Minh tại Xã Phong An, Phong Điền Thừa Thiên.
Tháng 10 năm 1944: được kết nạp vào đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 6/1945: được đảng phân công vào thành phố Huế, hoạt động trong phong trào học sinh Huế. Đã cùng với Tố Hữu tham gia tổ chức cuộc biểu tình trước cửa Ngọ Môn yêu cầu Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị.
1946: Cán bộ cao cấp thuộc Tổng Cục Quân Báo. Trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Địa bàn họat động thành phố Huế. Trách nhiệm: xây dựng cơ sở bí mật.

Đình chiến 1954, với chức vụ Thành ủy viên Thành Ủy Huế. Trưởng cơ quan Điệp Báo thành phố Huế, phụ trách Trí Vận và Tôn Giáo Vận. Đương sự được chỉ thị bí mật ở lại Huế để họat động.
1959 được phong quân hàm Trung Tá.
1963-1966 hoạt động chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiên Siêu, Chánh Trực trong công tác phát động quần chúng nỗi dậy đấu tranh lật đổ Đệ I Cộng Hòa, và vụ phản loạn năm 1966, với chiêu thức Bàn Thờ Phật Xuống Đường tại Huế.
Mậu Thân 1968, phụ trách Tổng khởi nghĩa tại Huế. Phụ trách thành lập Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình, đồng thời cũng phụ trách tổ chức chính quyền Cách Mạng tại Huế.
1969 Giữ chức Thường Vụ Thành ủy Huế
1969 giữ chức vụ trưởng cơ quan Điệp Báo Quân Khu Trị Thiên Huế.
Tháng 5/1972 bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế bắt sống tại Vỹ Dạ, Thừa Thiên-Huế.

Theo Hoàng Kim Loan khai, thì Ông Thích Đôn Hậu là cơ sở tôn giáo vận của y từ trước 1963. Trong vụ lật đổ Đệ I Cộng Hòa và vụ phản loạn vào tháng 6/1966 của Ông Trí Quang tại miền trung đặc biệt là tại Huế, thì y được lệnh của Tổng Cục Tình báo chỉ thị phối hợp làm việc chặt chẽ với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực thực hiện hai công tác này.

Ngoài ra, để kiểm chứng lời báo cáo của mật báo viên của ty CSQG TT/Huế cài tại chùa Linh Mụ, chúng tôi có thẩm tra Hoàng Kim Loan về quan hệ tình ái giữa ông Đôn Hậu và bà Tuần Chi, Hoàng Kim Loan xác nhận là có. Và chúng tôi cũng điều tra ngược lại, hỏi Hoàng Kim Loan rằng phải chăng đây là chiêu “mỹ nhân kế” có tính toán, mà các anh sử dụng để điều khiển và khống chế đối tượng? Hoàng Kim Loan cũng không ngần ngại chấp nhận đó là một trong những chiến thuật của cộng sản.

Việc thoát ly ra Bắc của Ông Đôn Hậu trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế là tự nguyện hay bị bắt buộc?

Ông Thích Đôn Hậu có phải là Cộng Sản hay không?
Theo Hoàng Kim Loan khai, việc thoát ly của ông Đôn Hậu ra Bắc không là một chuyện tình cờ hay ép buộc gì cả, vì trước Tết Mậu Thân, Hoàng Kim Loan đã trình bày rất kỹ lý do sự cần thiết của ông Đôn Hậu cho sách lược tuyên truyền quốc tế của cộng sản, và vì vậy, là một vũ khí chính trị lợi hại của Đảng. Do tầm quan trọng của ông Đôn Hậu đối với sách lược chống Mỹ Thiệu của Đảng, nên ông Đôn Hậu đã đồng ý ra Bắc cùng với một số cơ sở trí vận, tôn giáo vận tại Huế, cùng đi, dĩ nhiên có bà Tuần Chi. Với số nhân sự thập loại thành phần, giới nào cũng có, gốc gác Miền Nam này, chính phủ Cộng Sản Hà Nội đã thành lập một “phái đoàn đại diện cho dân chúng Miền Nam” xuất ngoại truyên truyền với thế giới rằng cho cuộc chiến của “nhân dân Miền Nam” là cuộc chiến mà Nhân Dân Miền Nam tự nỗi dậy,chống bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy đàn áp tôn giáo, đàn áp trí thức đối lập, đàn áp sinh viên học sinh, đàn áp dân chúng. Rằng chính quyền Miền Nam là một chính quyền phi nghĩa, kiểu Diệm mà không Diệm!

Hành động như vậy, toàn bộ nhóm nằm vùng Miền Nam gốc Huế thi hành nhiệm vụ quốc tế này, kể cả ông Đôn Hậu, đã bất chấp đức công bằng, chà đap lên sự kiện là cả hai chính quyền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều do đa số dân bầu ra, ngoại trừ một thiểu số chống đối như họ,dĩ nhiên, bỡi vì, chính họ là cộng sản nằm vùng! Cho dù là các người này không thích chính quyền Miền Nam, nhưng họ phải chấp nhận rằng 2 chính quyền VNCN là chính quyền hợp pháp được đa số dân chúng tin nhiệm và giao phó trách nhiệm điều hành quốc gia. Dân chúng không giao quyền điều hành quốc gia cho ông Đôn Hậu, Trí Quang. Họ đã phản loạn đi rêu rao với quốc tế là chính quyền Miền Nam là chính quyền phi nghĩa. Họ đã chà đạp lên những lá phiếu của đa số dân chúng.

Như vậy, chiếu theo luật pháp các nước dân chủ, những người này, những kẻ gọi là phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, mà thực chất là cộng sản lãnh đạo giật dây từ xa, cả ông Đôn Hậu Trí Quang, đã chà đạp lên kết quả 2 cuộc bầu cử, đã vi phạm luật pháp quốc gia, đã phản loạn theo địch.

Những thành phần đại diện trí thức, tôn giáo phản loạn được tuyển chọn rời Huế ra bắc gồm có:
1- Lê Văn Hảo
Giáo sư nhân Chủng Học thuộc viện Đại Học Huế.
Chủ Tịch lực Lượng Liên Minh Dân Chủ hòa Bình.
Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế (chính quyền do VC thành lập trong thời gian Tết Mậu Thân tại Huế)
2- Ông Thích Đôn Hậu
Chánh Đại Diện Phật Giao Ấn Quang Miền Vạn Hạnh (Miền Trung)
Ông Đôn Hậu là Phó chủ Tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình (trong thời gian Mậu Thân tại Huế.)
3- Bà Đào thị Xuân Yến tức bà Tuần Chi.
Bà Đào thị Xuân Yến nguyên Hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế.
Bà Đào Thị Xuân Yến là phó chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế.
4- Giáo sư trung học Tôn Thất Dương Tiềm.
5- Giáo sư Nguyễn Thúc Tuân.
Đây là một cuộc ra đi có tính toán, sắp đặt của chính phủ Cộng Sản Hà Nội, và đồng thời cũng có sự hưởng ứng đồng tình của ông Đôn Hậu, chứ không như một số phật giáo đồ và ĐLHT Thích Quãng Độ cũng như GS Võ văn Ái nghĩ. Sau này, nếu có sự việc ông Đôn Hậu đòi về Miền Nam, thì cũng quá dễ hiểu, bởi vì: ông đã nếm mùi cộng sản và ông chống đối việc cộng sản quyết tâm hòa nhập GHPGVNTN vào với GH quốc doanh. Nếu cộng sản cho ông hoạt động độc lập, không bắt ép GHPGVNTN, vào với Đảng, có lẽ, ông đã không chống Đảng.

Ông đã Ngộ thế nào là thiên đường cộng sản, kính thưa ĐLHT, thưa ông Võ Văn Ái!
Câu chuyện Ông Thích Đôn Hậu đã bị một toán Việt Cộng dí súng Ak vào lưng dẫn đi là một câu chuyện hoang đường, tự biên tự diễn, tự giả đoán để bảo tồn danh tiếng của một thần tượng. Không ai trong nhóm đưa ra lý thuyết này có mặt trong ngày hôm ông Đôn Hậu ra đi, họ chỉ nghe đương sự kể lại. Họ cũng không là giới chức có thẩm quyền có liên hệ, để có thể biết chắc chắn và phát biểu một cách tương đối nghe được
Còn chúng tôi, BCH lực lượng CSQG TT/Huế đã bám sát Hoàng Kim Loan từ lâu, và khi cài được mật báo viên vào trong chùa Linh Mụ, thì với tin đồn “ Ôn bị Việt Cộng bắt đi” chúng tôi chỉ phì cười. Ôn đi ra Bắc để chiêm ngưỡng Bác Hồ chứ đi đâu! Ôn hoạt động chung với Hoàng Kim Loan mà sao nói là Đảng bắt buộc Ôn đi? Oan cho Đảng quá!

Và lời khai của khi bị điều tra của Hoàng Kim Loan chỉ là một việc xác nhận cuối cùng của những kẽ trong cuộc đồng hội đồng thuyền với ông Đôn Hậu.

Tóm lại, nhóm đưa ra giả thuyết ông Đôn Hậu bị Việt Cộng bắt đi không thể nào thuyết phục được những người có sự suy nghĩ khoa học, hữu lý, độc lập, rạch ròi và công bằng, và dĩ nhiên, sẽ không bao giờ thuyết phục đươc lịch sử. Bởi vì, phía bao che cho ông Đôn Hậu chẳng đưa ra được một bằng chứng, một sự kiện, để chứng minh một cách hữu lý. Tất cả chỉ là một lời tuyên bố suông, kiểu của các can phạm thường sử dụng để chối tội, như sau:
Ông Đôn Hậu đã nói rằng ông ta bị Việt Cộng bắt đi!
Ông Lê văn Hảo cũng tuyên bố như vậy!

Rồi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân cũng tuyên bố kiểu như vậy là không tham gia vụ giết người tập thể Tết Mậu Thân.

Thưa quý vị, có một câu nói rất dân gian là: Có ai chịu cha ăn cướp?
Có ai có chút máu mặt trong giới lãnh đạo tôn giáo Miền Nam từng hoạt động cộng sản dám nhận mình là cộng sản? 
Trí Quang có nhận mình làm cộng sản hay không?
Câu trả lời là bằng chứng tìm thấy, chứ không phải là những lời tuyên bố suông “Tôi không làm cộng sản, tôi bị cộng sản bắt”!

Các ngài đã bán mình cho cộng sản, Nhưng đâu dễ chối tội như vậy?

Quý vị dễ dàng chứng minh ông Đôn Hậu đã bị Việt Cộng bắt như vậy sao? Người dân Miền Nam có sự suy luận rạch ròi của họ.

Không phải cứ làm lãnh đạo tôn giáo tối cao là không thể làm cộng sản! 

Kính thưa ĐLHT Thích Quang Độ, Thưa ông Võ văn Ái, trên đây là lời khai của Hoàng Kim Loan, người chúng tôi bắt được, sau đây là lời “không đánh mà khai”của các đương sự khác, đó là bà Đào Thi Xuân Yến tức bà Tuần Chi, Nguyễn Đắc Xuân, Đỗ Trung Hiếu. Những người này LL CSQG không bắt được, có nghĩa là LL CSQG 100% không thể nào dựng chuyện được, nhưng họ đã “không đánh mà khai” sau 1975 như sau:
Thứ nhất, lời “không đánh mà khai” của bà Tuần Chi.

Không hiểu hai vị đã có đọc cuốn hồi ký của bà Đào thị Xuân Yến tức Bà Tuần Chi kể lại chuyện ra đi của Ông Thích Đôn Hậu cùng bà ta và phái đoàn trí thức miền Nam ra bắc?, trên đoạn đường thơ mộng của núi rừng trường sơn ngút ngàn hay chưa? Tôi chắc là Hòa thượng chưa đọc, cũng như một số người dân Miền Nam chưa đọc, nhưng có lẽ ông Võ Văn Ái đã đọc. Đó là cuốn hồi ký: Cành Hoa Trắng, do bà Tuần Chi viết.

Sở dĩ bà ta lấy tên cuốn hồi ký là Cành Hoa Trắng vì trong khi di chuyển trên đường núi rừng Trường Sơn để đến với Bác và Đảng, bà ta đã đánh rơi chiếc ví dựng tiền của mình. Một nữ cán bộ cộng sản đã nhặt được và giao trả lại cho bà, cảm kích vì hành động trong trắng của người nữ cán bộ bác Hồ, bà Tuần Chi liền ví tấm lòng nữ cán bộ bác Hồ đó là cành hoa trắng, nên đã dùng hình ảnh này làm tựa đề cho cuốn sách, cũng là có ý đề cao các bộ cộng sản có tấm lòng trong trắng như thế.

Trong hồi ký Cành Hoa Trắng đó, bà Đào thị Xuân Yến nói rằng:
Ôn được ra Bắc chữa bệnh, vì thời gian ở Huế, Đế quốc Mỹ đã rãi chất độc khai quang trên rừng, nước sông Huơng bị nhiễm chất độc đó. Ôn Đã uống nuớc sông Hương, bị nhiễm độc nên hộc máu, vì thế Ôn ra Bắc để chữa bệnh.”

Có ai ở xứ Huế, có bác sĩ nào ở Huế thời ấy biết gì về căn bệnh uống nước sông Hương mà hộc máu không?

Ngoài ngài Đôn Hậu ra, có người dân thường lam lũ nào uống nước sông Hương mà bị hộc máu phải ra Bắc chữa bệnh không?

Rồi tôi tự hỏi, không biết bà Tuần Chi có bị bịnh hộc máu đó không nhỉ? Mà cũng đi với ông Đôn Hậu?
Có lẽ các bệnh viện của Miền Nam không đủ trình độ chữa bệnh cho ngài Ôn Linh Mụ, nên Ôn phải vượt Trường Sơn ra Bắc chữa bệnh, tiện thể, Ôn diện kiến bác Hồ kính yêu, giúp Bác tuyên truyền tội ác đàn áp tôn giáo, bách hại Phật Giáo, đàn áp nhân dân của “Mỹ- Diệm- Thiệu” cho nhân dân thế giới biết?

Quả là lời phát biểu của một vị Hiệu Trưởng trường trung học! Mới thấy, những kẽ mê theo cộng sản, cái gì cũng có thể nói, để kết tội Mỹ Ngụy, mà không kể đúng sai hay là bá láp, cho dù là người có học, đã từng là hiệu trưởng một trường nữ trung học nỗi tiếng của Miền Nam.

Nhưng điều đáng nói ở đây, cho dù là viện cớ nước sông Hương có độc, bà ta đã thành thật nói rằng “Ôn được ra Bắc chữa bệnh”.

Thiết nghĩ, lới phát biểu của chính bà Tuần Chi, tình nhân ông Đôn Hậu, đã quá đủ để trả lời ĐLHT Thích Quảng Độ và ông Võ Văn Ái câu hỏi: ông Đôn Hậu có phải là cộng sản?

Thứ 2, lời “không đánh mà khai” của Nguyễn Đắc Xuân:
Xuân cũng là đệ tử của ôn Trí Quang Đôn Hậu, mới đây vào tháng 10/ năm 2009, trên nhiều báo, đặc biệt là báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam như sau:
Xuất thân trong các cuộc vận động của Phật giáo (1963-1966), thời đi theo kháng chiến (1966-1975), tôi có nhiều dịp chuyển thư từ, hình ảnh của Hòa thượng Thích Đôn Hậu và bà con Phật tử tập kết ngoài miền Bắc vào cho các chùa và đồng bào theo Đạo Phật ở Huế.

Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, tôi được Thành ủy Huế mời đóng góp bài cho cuốn sách Bác Hồ trong lòng dân Huế. Trong tay tôi đã có sẵn bài “Ba lần được gặp cụ Hồ” của Hòa thượng Thích Đôn Hậu, mà tôi đã ghi được ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, tôi xin bà Tâm Hải Đào Thị Xuân Yến (tức bà Nguyễn Đình Chi) đệ tử của Hòa thượng Thích Đôn Hậu bổ sung thêm bài Vinh dự lớn lao. Bà Tâm Hải bảo tôi: Sư bà Thích Nữ Diệu Không rất quý trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên xin gặp Bà và đề nghị Bà viết cho một bài. Tôi đến xin gặp Sư bà ngay nhưng lúc ấy Sư bà không có ở Huế.

Xin quý vị cho ý kiến về lời tự tình của Nguyễn Đắc Xuân về Ôn Linh Mụ làm gì ngoài nớ, về việc Ôn “3 lần được gặp cụ Hồ”.

Thứ 3, lời “ không đánh mà khai” của Đỗ Trung Hiếu
Đỗ Trung Hiếu là ủy viên quan trong trong Ủy Ban Tôn Giáo Chính Phủ, xuất thân trong phong trào Phật Giáo Tranh Đấu tại Khánh Hòa, 1962-1963, thành viên Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, sau 1975, hiện nguyên hình là đảng viên cộng sản, phụ trách Tôn Giáo Vân. Năm 1990, Ngộ, nên bỏ Đảng và chống Đảng, lời “khai” như sau:
Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, chánh thư ký Viện Tăng thống GHPGVNTN, thoát ly vào chiến khu trong dịp Tết Mău Thân (1968), tham gia Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt-Nam với tư cách phó chủ tịch và chủ tịch là Luật sư Trịnh Đình Thảo. Sau giải phóng hòa thượng gởi kiến nghị đến tổng bí thư Ðảng Lê-Duẫn, chủ tịch Nước Tôn-Ðức-Thắng, chủ tịch Quốc hội Trường-Chinh và thủ tướng Phạm-Văn-Ðồng về việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng nói rõ : Khi đất nước bị xâm lược tôi làm nghĩa vụ công dân, nay đất nước độc lập, tôi trở lại chu toàn việc Ðạo, và trước hết là vận động cho công cuộc thống nhất Phật giáo Việt-NamVề nguyên tắc các nhà lãnh đạo Ðảng Cộng sản và Nhà nước Việt-Nam đồng ý. Nhưng đi vào cụ thể thì không chấp nhận quan điểm thống nhất Phật giáo của hòa thượng Ðôn-Hậu.

Xin được giải thích thêm về luật sư Trịnh Đình Thảo: Y là chủ tịch lực lượng LMDTDCHB tại trung ương Hà Nội, phó chủ tịch là ông Đôn Hậu. Tại địa phương Huế, Lê văn Hảo giữ chức chủ tịch, ông Đôn Hậu kiêm luôn phó chủ tịch tại Huế.

Với những thông tin trên từ cựu đảng viên quan trọng phụ trách tôn giáo vận trung ương Đỗ Trung Hiếu, xin nhường lời lại cho công luận đánh giá, thử xem ngài Đôn Hậu có phải cộng sản? và tại sao ngài sau này lại không ưa Đảng?

Với 3 nhân vật tiêu biểu, cả ba đều hoạt động cộng sản, nhất là bà Tuần Chi, người mà không ai có thể biện minh không là cộng sản nằm vùng, bà ta đã cùng chung bước đường Trường Sơn với ngài Đôn Hậu. Ngoài Hoàng Kim Loan ra, các kẻ này đã giấy trắng mực đen xác nhận ông Đôn Hậu tự ý thoát ly theo cộng sản, thì ĐLHT Quảng Độ và ông Võ Văn Ái cũng như công luận đánh giá sao cho công bình đây? Công luận nghe họ, hay nghe lời một bà vớ vẫn không chân dung nào đó trong rừng, hay nghe lời “tâm sự” chối tội suông của ông Đôn Hậu sau khi sự việc đã rồi?

Thưa, không dễ chối tội kiểu như vậy thưa ngài Đôn Hậu! Ngài có thể tâm sự nói thế này thế nọ với những người không biết gì hết hầu cận quanh ngài, nhưng tôi chắc ngài không thể chạy tội trước BCH LLCSQG TT/HUẾ, cũng như các tên Nguyễn Đắc Xuân, Đỗ Trung Hiếu, bà Tuần Chi. Họ đã lạy ông tôi ở bụi này hết rồi.

Tóm lại tôi đã đưa ra khá đầy đủ về thân thế, những liên hệ và hoạt động của Ông Đôn Hậu với Cộng Sản, nhất là liên hệ chặt chẽ của ông ta với tên trung tá điệp viên cộng sản Hoàng Kim Loan tài ba ma mãnh, kiến trúc sư của mọi biến loạn tại Huế trước 1972 cùng tên tuổi của những nhân chứng còn sống biết chuyện ông Đôn Hậu làm cộng sản, ĐLHT Thích Quảng Độ và ông Võ Văn Ái cần tôi chứng mình gì thêm không?
Kết luận như đinh đóng cột của BCH CSQG/TT-HUẾ và cá nhân tôi từ trước 1975, cho đến bây giờ vẫn là: ông Đôn Hậu là cộng sản. Chuyện đơn giản như 2 cộng 2 là bốn.

Rõ như ban ngày, chỉ có những người không thể chấp nhận việc thần tượng bị xóa xổ, mới cố gắng lừa dối công luận và lừa dối chính mình. Họ cho rằng ông Đôn Hậu không là cộng sản bởi vì ông Đôn Hậu không thể là cộng sản, đơn giản là như vậy, và cố gắng chối bỏ những sự kiện quá rành rành cho thấy ông ta là cộng sản
Nhưng công luận có quyền của công luận:
Ông Thích Đôn Hậu hoạt động cho Cộng Sản trong nhiệm vụ mà Cục Tình Báo Chiến lược VC giao phó, qua tên Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan, nhiệm vụ được giao cho là Tôn Giáo Vận. Thực chất của Tôn Giáo Vận là gì? đó là: Lợi dụng màu áo tu hành, lợi dụng chức vụ, lợi dụng lòng tôn kính của phật tử để hoạt động theo chỉ thị của đảng cộng sản mà thôi.

Và vì thế, sự ra đi của Ông đôn Hậu trong Mậu Thân 1968 không là ép buộc, và ông Đôn Hâu đồng ý đi ra Bắc để lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng hơn: là xuất ngoại với tư cách là đại diện cho quần chúng Miền Nam truyên truyền chính nghĩa cho cuộc xâm lăng của Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và từ đó xin viện trợ, chiến tranh phí cho Cộng Sản Hà nội, đồng thời tạo lý do cho bọn nhà báo phản chiến thiên cộng phương tây tấn công lên án chính quyền VNCH là chính quyền phi nghĩa, là chính quyền đàn áp tôn giáo. Còn ai có thể có uy tín hơn, ép phê hơn, là một nhà sư có tiếng của Miền Nam tố cáo chính phủ Miền Nam đàn áp tôn giáo? Dư luận lên cao có lợi cho cộng sản đến độ đưa đến việc bọn phản chiến được bầu vào quốc hội mùa thu năm 1974, bọn này cắt viện trợ cho Miền Nam và Cambodge, khai tử Miền Nam.

Tất cả điều này đều nằm trong chiến lược và chiến thuật của cộng sản, và ông Đôn Hậu cùng đồng bọn ra đi theo đường Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng giao phó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng vậy!

Gần đây, khi đi thuyết trình nhiều nơi về cuốn Biến Động Miền Trung, từ các tiểu bang tại Hoa kỳ, sang đến Úc châu, và Âu Châu, thỉnh thoảng tôi cũng nghe một vài thính giả, độc giả, mà đa số họ là Phật tử người Huế nói rằng:
“Mậu Thân 1968 Ôn Đôn Hậu đã bị một tiểu đội Việt Cộng vào chùa dí súng bắt Ôn đi, chứ không phải Ôn đi theo Việt Cộng mô!”.

Tôi hỏi lại, quý vi có thể chứng minh điều mà quý vị nói không?

Họ chỉ nói rằng tôi nghe người ta nói như vậy. Và cứ như thế, câu truyện truyền đi. Nhưng có một bà, đó là bà Tuần Chi, người kề cận nhất với Ôn, lại nói ngược: Ôn được ra Bắc chữa bệnh!

Sao mà lại có chuyện trống đánh xuôi, kèn thổi ngược như thế?

Ai cũng có thể thêu dệt ra huyền thoại Ôn nói thế này Ôn nói thế kia như thế!

Và Ôn cũng có thể thâu băng để lại tâm sự rằng Ôn đã bị Việt Cộng bắt như thế!

Thưa ĐLHT Thích Quảng Độ và ông Võ văn Ái! Sau khi Ôn đã nếm mùi cộng sản được 8 năm ngoài Hà Nội, thấy rằng, Đảng còn đày đọa Phật Giáo hơn cả Diệm Thiệu, những người mà một số vị lãnh đạo Phật Giáo và chính Ôn căm thù còn hơn cộng sản! rồi sau đó thấy rằng cộng sản còn tàn ác hơn cả Diệm Thiệu, cộng sản là tai họa cho quốc gia, mà chính Ôn cũng đã đóng góp trong việc giúp cho cộng sản xâm lăng đất nước, thì Ôn bắt đầu trở cờ chối tội.

Nhưng đã trễ cho Ôn rồi, cho tôi hỏi Ôn, cũng xin hỏi ĐLHT, hỏi ông Võ Văn Ái, quý vị nghĩ sao về phát biểu của bà Tuần Chi, người đã cùng ông chia xẽ đoạn đường Trường Sơn thơ mộng:
Ôn đã được ra Bắc chữa bệnh!

Tôi không thể ngờ rằng ĐLHT Thích Quảng Độ và ông Võ Văn Ái lại dễ tin đến như vậy, hay là hai vị cho rằng công luận chỉ là những đứa trẻ con, các vị nói sao người ta tin vậy?

Tôi xin nhắc lại câu nói thường tình cửa miệng: Không ai chịu cha ăn cướp!

Và Ôn cũng không thể chối cãi với các mật báo viên của ty CSQG/TT-Huế là Ôn không gặp gỡ Hoàng Kim Loan như cơm bữa.

Và cuối cùng, Ôn Linh Mụ khó có thể đối chất với Trung Úy Đoàn Lang, Trung Úy Phan Thế Thông, Thiếu Tá Trương Công Ân, và với TT CSQG Liên Thành, tất cả hiện đang ngụ tại Hoa Kỳ, nếu như Ôn còn sống
Trở lại chuyện ông Võ Văn Ái nói rằng ông có hai cuốn băng thâu lời nói của ông Đôn Hậu về vụ ra Bắc của ông ta. Hai cuốn băng nầy là đủ bằng chứng chứng minh sự ra đi của ông Đôn Hậu trong Mậu Thân 1968 là bị bắt buộc?!

Tuyệt vời! Thiên hạ cứ noi gương ngài Đôn Hậu, cứ việc làm cộng sản, sau đó thâu băng để lại rằng mình không làm cộng sản, là xong!

Ông Lê Văn Hảo cũng đã noi gương ngài Đôn Hậu, nói rằng bị cộng sản bắt. Sao cộng sản không bắt ông Lê văn Tí, Lê văn Tèo nào đó, mà lại bắt ông Lê Văn Hảo làm chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố? Ty CSQG TT/Huế không hề ghi nhận được cá nhân nào tại Huế không làm cộng sản mà được cộng sản phong cho chức nọ chức kia cả.

Tôi cũng xin trích ra đây, một đoạn trong hồi ký của Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, nói về cảm nghĩ của ông khi gặp lại ông Đôn Hậu, Đệ tứ Tăng Thống cũng không thể chắc rằng ông Đôn Hậu ra đi là bị bắt buộc, hãy đọc một đoạn như sau của ĐLHT Huyền Quang:
“Tại cuộc họp nói trên, Viện Hóa Đạo khám phá ra chuyện bất ngờ. Nguyên do chư Tăng có thể khác ý kiến nhau về việc đời, nhưng việc đạo thì hợp nhất dưới ánh hào quang chư Phật. Lần đầu tiên tiếp xúc lại với Hòa Thượng Thích Đôn Hậu xa cách 8 năm trời kể từ năm Mậu Thân, chúng tôi có phần nghi ngờ không biết lập trường ngài cư xử với GHPGVNTN nay ra sao. Hòa Thượng còn nói tiếng nói của Phật Giáo hay nói thay cho chính quyền?”

Sau đó Đệ Tứ Tăng Thống đã vui mừng vì, về việc đạo, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đối với GHPGVN cũng như xưa. Còn việc đời, Đệ Tứ Tăng Thống không dám nói gì cả.

Đúng như thế!Việc đạo, ông Đôn Hậu chung với Đệ Tứ Tăng Thống, việc đời, ông Đôn Hậu là một người hoàn toàn khác. Ông tu hành nhưng đi theo cộng sản, đến khi chạm trán với bộ mặt thật của cộng sản, ông mới thấy rằng cộng sản là ác quỷ, ông mới thấy cộng sản đàn áp ông và giáo hội của ông gấp 30 lần bọn Mỹ- Diệm- Thiệu, theo như ông nhận xét. Khi mất, ông không muốn cộng sản làm tang lễ cho ông, và ông giao ấn tín của GHPGVNTN lại cho Đệ Tứ Tăng Thống.

Điệp viên cộng sản Phạm Xuân Ẩn cũng thế, trước khi chết, ông ta có ước muốn không muốn chôn chung với những tên cộng sản.

Lần nữa, tôi không tranh cãi về con người của ông Đôn Hậu sau 1975. Và tôi tin rằng sau đó, ông đã thấy mình lầm lẫn, không còn muốn theo chúng nữa. Ai cũng thấy vậy.

Tuy nhiên, cũng mong ĐLHT và ông Võ Văn Ái công bố cuốn băng của ngài Đôn Hậu cho công luận tường
Ngoài ra, không hiểu Giáo sư Võ văn Ái có thâu được câu nói cùa Ông Đôn Hậu với Dân Biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng trước Tết Mậu Thân, khi ông Dân Biểu từ Saigòn ra Huế “thăm dân cho biết sự tình” và ghé chùa Linh Mụ để thăm vị lãnh đạo tinh thần của Phât giáo đồ miền trung. Ông Đôn Hậu đã phát biểu cảm nghĩ của Ông ta đối với Quân lực VNCH như sau:
“Lính Việt Nam Cộng Hòa đi đến đâu thì phá phách đến đó, trong khi quân đội Giải Phóng đi đến đâu thì không làm rơi rụng một ngọn lá khoai”.

Với câu nói này của ông Đôn Hậu, xin mời tất cả những ai đã công hiến tuổi thanh xuân của đời mình cho lý tưởng quốc gia, cầm súng chống quân thù, đem tính mạng của mình để đem lại những giờ yên ổn cho những người như ông Đôn Hậu có giờ tụng kinh niệm Phật, có giờ hoạt động chung với Hoàng Kim Loan, lên tiếng!
Cần liên lạc với Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, xin liên lạc với tôi.

Rồi sau câu nói của Ông Đôn Hậu với Dân Biểu Nguyễn lý Tưởng, chỉ một hai ngày sau, thì 10,000 quân Giải Phóng tràn vào Huế, giết hại 5327 thường dân vô tội, bắt đi mất tích 1200 người.

Trong lúc Quân Lực VNCH đem tính mạng của mình phản công chiếm lại Huế, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào Thừa Thiên- Huế, Quảng Trị trong đó có cả thân nhân ruột thịt của ông Đôn Hậu tại quận Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị, mà số tổn thất của quân đội VNCH trên 1000 người, ông Đôn Hậu và những người bênh vực ông Đôn Hậu nghĩ sao? Ông Võ Văn Ái và ĐLHT nghĩ sao? Ông Đôn Hậu đã có cầu nguyện cho những linh hồn này được siêu thoát không? Hay là ông vẫn căm thù bọn lính Ngụy đi đến đâu thì phá làng phá xóm đến đó?

Phần tôi, với suy nghĩ và tình cảm đơn sơ của một người lính, mà chẳng cần phải làm ngành tình báo, làm TT CSQG, tôi có thể nói rằng, chỉ có làm cộng sản mới có thể phát biểu như vậy! 

Ngoài ra cũng trong thời gian đi thuyết trình tại một vài nơi ở Hoa Kỳ tôi có nhân được một bức email của bà Tôn Nữ Ngự Bình phổ biến, nội dung bức thư gồm có 9 điểm để biện minh cho ông Đôn Hậu như sau:
Thượng tọa Thích Đôn Hậu không phải là cộng sản, bằng chứng là sau khi Việt Cộng chiến trọn Miền Nam, Ông Đôn Hậu đã trở lại sinh sống tại Chùa Linh Mụ Huế, và quyết liệt chống lại Cộng Sản. Như vậy những đều tôi nói về Ông Đôn Hậu là sai, không đúng sự thật.

Tôi có trả lời vời bà Tôn Nữ Ngự Bình rằng:
Tôi và Bà đề cập đến ông Đôn Hậu trong hai quảng thời gian khác nhau, và cũng trong hai hoàn cảnh khác nhau của ông ta.Tôi có thể nói một cách đơn giản thế này: Trước tháng tư năm 1975, ông hoạt động đắc lực cho cộng sản, với đầy đủ chứng cớ. Sau 1975, ông đã thấy rõ bộ mặt đểu giả tàn ác của cộng sản thì ông từ bỏ nó. Chuyện đơn giản là như vậy. Tôi nói về ông Đôn Hậu qua 2 giai đoạn, trước 1975 và sau 1975, còn bà Ngự Bình chỉ dùng giai đoạn sau 1975 để nói về toàn cảnh con người ông Đôn Hậu. Nói như bà Ngự Bình là không đầy đủ, cho nên kết luận của bà về ông Đôn Hâu là thiếu sót, ngô nghê, và vô lý.

Dương Thu Hương, Bùi Tín, Trần Độ, Nguyễn văn Trân, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Anh Kim và rất nhiều nhiều người cộng sản khác cũng hành động như ông Đôn Hậu. Cũng chống lại Đảng Cộng Sản. Có người sẽ tha thứ cho việc làm cộng sản của họ, và cũng có người sẽ không bao giờ tha thứ cho họ được, bỡi vì cộng sản là thảm họa của nhân loại, thảm họa của Việt Nam. Tội ác cộng sản quá lớn! Ai tham gia tạo ra nó đều phải ít nhiều nhận lãnh trách nhiệm.

Phần tôi đề cập, là ông Đôn Hậu của thời điểm trước 1975. Tôi nêu ra những sự việc mà ông ta đã làm, những người mà ông ta cộng tác chung, như Hoàng Kim Loan và bọn cộng sản giả danh trong phong trào Phật Giáo Tranh Đấu.

Trong hoàn cảnh ông ta đang được bọn Việt Cộng nuông chiều để sử dụng ông, ông ta đã xã thân hết lòng phục vụ cho bọn cộng sản. Tôi viết với bằng chứng rõ rảng minh bạch rằng ông ta đã làm gì, hoạt động chung với ai, nhân chứng còn đó, chứ tôi không dùng cảm tính để phán đoán. Nghành tình báo của bất cứ quốc gia nào, hoạt động đều có Protocol của nó, điểm chung đó là căn cứ trên sự kiện mà đưa ra kết luận. Chúng tôi không ấm ớ đoán già đoán non như một số dư luận thường tình thường thấy ở kẻ chợ.

Phần Bà Tôn Nữ Ngự Bình đề cập đến Ông Đôn Hậu sau năm 1975 đã chống đối cộng sản một cách quyết liệt, và từ đó kết luận rằng ông ta không là cộng sản, và sự ra đi của ông ta trong Mậu Thân 1968 là bị bắt buộc. Điều này chẳng khác nào bà nói chuyện trứng đẻ ra vịt. Và nói như thế, các ông bà như Dương Thu Hương, Bùi Tín, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Trân, Hoàng Minh Chính và tép riêu cỡ như Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Vàng Sao đều không là cộng sản? vì sau 1975, họ đều chống lại cộng sản đấy thôi?

Việc ông Đôn Hậu tỉnh ngộ không có nghĩa và không thể chứng minh rằng ông trước đây không là cộng sản, trước đây ông ta không trực tiếp làm hại nền cộng hòa của Miền Nam.

Có lẽ, tôi không cần phải trả lời thêm những lý luận kiểu như bà Tôn Nữ, vì người đọc sẽ bực mình, vì thiếu tôn trọng kiến thức tổng quát của họ.

Mộng của ông Đôn Hậu, phải chăng là mộng sau khi thôn tính miền Nam xong, bọn chúng để cho ông làm Đệ Nhất Tăng Thống toàn cõi từ nam ra bắc, và để cho ông lập Giáo Hội theo cách riêng của ông. Nhưng ông đã lầm, mọi sự đều phải có sự chỉ đạo của Đàng, người của Đảng phải lãnh đạo giáo hội. Đó là chân lý cộng sản. Và Phật Giáo quốc doanh do chúng thành lập mới là Giáo Hội Phật Giáo chủ đạo. Vì vậy, bọn cộng sản đã đàn áp PGVNTN thẳng tay.

Nói theo danh từ nhà Phật, “Ôn đã ngộ” và quay đầu lại chống bọn chúng. Nhưng đã muộn, ông có thể nhận được sự tha thứ của một số người rộng lòng kính yêu quý thầy, cho dù quý thầy có làm cộng sản, nhưng ông khó mà nhận được sự tha thứ của lịch sử, bởi vì cộng sản đã đem đến thảm họa cho đất nước, và ông đã góp tay trong đó. Ông không thể dùng chuyện chính quyền VNCH, cái mà ông gọi là Mỹ- Diệm -Thiệu, đàn áp Phật Giáo để rước cộng sản vào Miền Nam, để mơ rằng, chúng sẽ cho ông và Giáo Hội riêng của ông có nhiều quyền hành hơn. Là một Phật Tử, tôi biết rằng Phật không bao giờ đòi hỏi quyền hành giáo hội thế tục. Ông tự lập nhóm để đòi quyền chống lại chính phủ VNCH và đã bị gậy ông đập lưng ông
Những hành động hợp tác với Cộng Sản của Ông Đôn Hậu trước năm 1975 đều đóng góp vào việc làm tan tành nền Cộng Hòa đưa đến thảm họa cộng sản cho đất nước, dân tộc và nguy cơ mất nước sau ngày 30/4/1975.

Ông Đôn Hậu ngộ, quay lại chỉ trích cộng sản, quả thật là như vậy. Nhưng mọi chuyện đã muộn! ông phải chịu trách nhiệm những gì mình đã làm. Giá như ông biết cộng sản là tội ác, là thảm họa cho nhân loại từ cuối thập niên 1950 như hầu hết những người dân bình thường Miền Nam không tu hành gì cả đều biết, thì đỡ khổ cho đất nước biết bao! Chiếc áo tu hành của ông đã làm cho bao nhiêu tín đồ nghe ông mà đi theo cộng sản? bao nhiêu người nghe theo ông và Trí Quang phá hoại chính quyền VNCH? Bao nhiêu người, chúng tôi không có con số, nhưng chắc chắn là không ít.

Lãnh thổ mất, Hải Đảo mất, biển mất, nhân quyền mất và cuối cùng là đất nước sẽ bị mất vào tay Tàu Cộng. Lỗi tại ai, chúng ta đã biết, nhưng trong số những người lãnh đạo tôn giáo thấy được lỗi lầm của những kẻ mượn chiếc áo cà sa để hoạt động cộng sản, làm điêu đứng tiền đồ dân tộc như Hoà Thượng Thích Tâm Châu, chẳng hạn, chắc chắn trong đó không có ông Đôn Hậu trong đó. Việc ông Đôn Hậu làm là chối tội, nói là bị cộng sản bắt!

Trước khi chấm dứt bức thư chính thức xác quyết trường hợp của Ông Đôn Hậu với nhị vị, xin có vài câu hỏi đến ĐLHT Quãng Độ và ông Võ Văn Ái như sau:
1- Bằng những dự kiện tôi, và có kèm nhân chứng sống tôi vừa trình bày trên, theo nhị vị, Ông Đôn Hậu có hoạt động cho Cộng Sản hay không?

2- Sự ra đi của Ông Đôn Hậu trong Mậu Thân 1968 là tự nguyện hay bị VC bắt đi?

Nếu Hòa Thượng và GS Võ Văn Ái cho rằng Ông Đôn Hậu không họat động cho Cộng Sản, và sự ra đi của Ông ta trong Mậu Thân 1968 là bị Việt Cộng bắt đi, thì cá nhân tôi rất mong được ĐLHT và giáo sư đưa ra những bằng chứng cụ thể bằng sự kiện rõ ràng, chứ không bằng lời chối tội suông một chiều của ông Đôn Hậu.

3- Trong suốt 26 ngày Việt Cộng chiến Huế và thi hành “Bạo Lực Cách Mạng” hay “Bạo Lực Đỏ” tàn sát dồng bào Huế, Hòa Thượng và ông Võ Văn Ái có mặt tại Huế hay không? có nằm trong ngành tình báo, có quen ai trong ngành tình báo để biết ngọn nguồn hang ổ nằm vùng rộng lớn tại Huế hay không? Để kết luận ông Đôn Hậu ra đi là bi bắt buộc?

Cho dù câu trả lời, có mặt hay không có mặt, hai vị có biết rằng khi tấn công và chiếm Huế Cộng sản đã sử dụng 10,000 ngàn quân phục vụ dưới ngọn cờ duy nhất được treo tại kỳ đài Ngọ Môn trong suốt 26 ngày tàn sát sinh linh vô tội là cờ của Lực Lương Liên Minh, Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình, tức là cờ của ông Đôn Hậu, ông Lê Văn Hảo?

Và nữa, đại đa số những tay sát nhân tàn bạo giết hại đồng bào Huế như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Nguyễn thị Đoan Trinh, và nhiều, nhiều…nhiều nữa, tất cả bọn họ đều nằm trong lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của Ông Lê văn Hảo và Ông Đôn Hậu! 

Nhóm tội ác này đã giết quá nhiều dân Huế, vậy theo lẽ công bình, Chủ Soái và Phó Chủ Soái của đám sát nhân nầy, hai ông Lê văn Hảo và Đôn Hậu, về cả ba phương diện, pháp lý, đạo đức, và lương tâm, hai người nầy có chịu một phần trách nhiện về cái chết của 5327 thường dân vô tội bị thảm sát, và 1200 ngừoi bị mất tích hay không? Hay chỉ đơn giản đổ thừa hết cho cộng sản? Cho sự thiếu sót trách nhiệm của chính quyền VNCH?

Nếu như Đại Lão Hòa Thượng và Giáo Sư trả lời “Không”. 
Tôi nghĩ, tôi và công luận chẳng còn gì để hỏi Hòa Thượng và Giáo sư nữa.
Còn nếu Hòa Thượng và Giáo sư trả lời là: Có. 
Vậy thì Hòa Thượng và giáo sư nghĩ rằng, nên làm gì để trả lại Công Bằng và Công lý cho nạn nhân vô tội đã bị người của Ông Lê văn Hảo và Thích Đôn Hậu trong lực lượng Liên Minh Dân Chũ Dân Tộc Hòa Bình sát hại?

Kết Luận: Tóm lại, với tư cách là một nhân viên công quyền thực thi việc điều tra các tội phạm trong đó có việc điều tra các tội phạm hoạt động cộng sản, tôi khẳng định rằng, ông Đôn Hậu đã hoạt động cộng sản, do đó, việc ra đi của ông là tự ý thoát ly.
Thứ nhất, cũng là bằng chứng quan trọng nhất, qua theo dõi Hoàng Kim Loan, chúng tôi đã cài người vào chùa Linh Mụ và biết chính xác ông Thích Đôn Hậu cùng hoạt động chung với tên sĩ quan tình bào nguy hiểm này, và lần ra các đầu mối của 2 đương sự. Lời khai của Hoàng Kim Loan đã xác nhận ông Thích Đôn Hậu hoạt động cộng sản. Các nhân chứng của việc điều tra này hiện đang sống tại Hoa Kỳ.

Thứ hai, không lâu sau ngày 30/4/ năm 1975, ông Thích Đôn Hậu đã tự nhìn nhận là có hoạt động cộng sản, bài viết “Ba Lần Được Gặp Bác Hồ” đăng trong “tác phẩm” Bác Hồ Trong Lòng Dân Huế là một chứng minh, việc ông làm Đại Biểu Quốc Hội cộng sản cũng là một chứng minh, việc đám tang ông được các nhân vật chóp bu của Đảng Cộng Sản đến tham dự và gởi vòng hoa viếng là một chứng minh nữa.

Thứ ba, các nhân vật Miền Nam hoạt động cộng sản như Đào Thị Xuân Yến, Đỗ Trung Hiếu, và đồ tể Nguyễn Đắc Xuân, qua nhiều bài viết, đã xác nhận ông Thích Đôn Hậu là cộng sản cùng với họ.

Do đó, Cảnh Sát Quốc Gia chúng tôi kết luận dựa trên những quy định của ngành điều tra, đó là dựa trên các sự kiện cụ thể, chứng cớ nội phạm và ngoại phạm, nhân chứng, rồi đối chiếu từng sự kiện, như tất cả các bộ phận cảnh sát của tất cả các nước dân chủ trên thế giới, mà VNCH là một thành viên. Bằng tất cả các bằng chứng và nhân chứng như vậy, lời “tâm sự” không làm cộng sản, bị cộng sản bắt của ông Đôn Hậu cũng như các đồn đãi này kia cho rằng đương sự bị bắt được xem như hoàn toàn không có giá trị.

Đó là xong phần trả lời cho ĐLHT của tôi, bây giờ, xin được bàn đến nội dung thông tư của VP II/VHĐ được đăng trên 
queme.net. Xin trích:

1/Gần đây tác nhân chính yếu trong chính tình Việt Nam là Hoa Kỳ vừa giải mật một số hồ sơ phơi bày diễn tiến chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hoà thông qua sự thi hành của giới chính trị gia bản địa. Qua đó chưa thấy tài liệu nào cho biết GHPGVNTN hay hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN dính líu đến Cộng sản.

Có vẻ như GS Võ Văn Ái rất kính nễ tình báo Hoa Kỳ, chuyện gì thuộc về lịch sử Việt Nam cũng phải nhờ Hoa Kỳ phê chuẩn và chứng giám!

Xin giáo sư cẩn thận, vì nhiều lúc Tình báo Hoa Kỳ nói vậy mà không phải như vậy. “Có” là “Không”, mà “Không” là “Có”. Có, có, không không, Có hay không, tất cả chỉ vì quyền lợi chính trị, ngoại giao, kinh tế của nước Mỹ họ mà thôi. Tỷ như Tình báo Hoa Kỳ đã từng nói Sadam Husen “Có” vũ khí giết người hằng lọat, họ oanh tạc, dội bom, đổ quân, chiếm Irac, vậy mà đến nay vẫn chưa tìm thấy vũ khí này ở đâu cả! Vậy CIA có luôn luôn đúng không? Ai cũng hiểu rằng vì chiến lược muốn đặt bàn đạp tại Trung Đông, Hoa Kỳ cần có cái cớ như thế. Và chuyện CIA không chính thức xác nhận ông Trí Quang không làm cộng sản cũng nằm trong chiến lược dùng phong trào Phật Giáo Tranh Đấu để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vì ông quá “cứng đầu” không nghe Mỹ, giữ vững thể diện quốc gia và khí tiết của một vị nguyên thủ, và điều quan trọng nhất là ông không chấp nhận việc đổ quân Mỹ vào Miền Nam, tạo cớ cho cộng sản xâm lược. Hậu quả nhãn tiền ai cũng đã thấy.

Các cơ quan tình báo VNCH, và nhất là BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế có bằng chứng rõ ràng Thích Trí Quang là Cộng Sản, đảng viên Cộng Sản từ 1949 do Tố Hữu kết nạp tại mật Khu Lương Miêu, Dương Hòa Thừa Thiên, chẳng lẽ CIA không biết Trí Quang là Cộng Sản hay sao? Vì họ làm cố vấn cho Tình báo Việt Nam mà? Họ thừa biết, Nhưng khi cần tạo ra thần tượng Trí Quang để phát động phong trào quần chúng đấu tranh nỗi dậy lật đỗ đệ I Cộng Hòa, để thay đổi chiến lược chống cộng, thì họ phải nói “không”, có nghĩa là họ phải nói Trí Quang không phải Công sản. Nếu họ xác nhận Trí Quang là Cộng Sản, thì làm sao gọi là đồng minh thân thiết với VNCH? Và chẳng lẽ, họ tự vả vào mặt họ?

Nhưng sau khi giết được Tổng Thống Ngô Đình Diệm qua phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, qua bàn tay của Dương Văn Minh, một người cấu kết chặt chẽ với Trí Quang, và được Trí Quang đồng ý đưa lên ngôi vị Thủ Tướng ngay sau đó, thì Trí Quang càng ngày càng kiêu binh, phá sập hết thảy 6 “triều đại” chính phủ sau đó trong 3 năm, từ cuối 1963 đến đầu năm 1966. Tất cả đều bằng chiêu bài Phật Giáo Tranh Đấu, chống lại các chính phủ  Diệm mà không Diệm” bách hại Phật Giáo.

Hẳn ĐLHT và ông Võ Văn Ái không thể phủ nhận việc Henry Cabot Lodge nói rằng, Trí Quang đã đến gặp ông ta, nói rằng “hãy phế bỏ tướng Nguyễn Cao Kỳ xuống, rồi Trí Quang sẽ tự tay đưa ông Kỳ lên”? Việc Trí Quang làm “quốc phụ”hoành hành từ cuối 1963 đến đầu năm 1966 đã làm đất nước điên đảo, đứng trên bờ vực thẳm bị cộng sản lăm le thôn tính, thì buộc lòng Mỹ phải phế bỏ con cờ Trí Quang, Bỏ con cờ thì bỏ, nhưng CIA có cho vàng không dám nói Trí Quang là cộng sản. Tại sao ư? trẻ con cũng biết. Trí Quang vâng lệnh Hà Nội, phá nát Miền Nam, đi ngược lại nhu cầu và quyền lợi của Hoa Kỳ tại Việt Nam, thì chúng ta thấy ngay, Hoa Kỳ đã giúp phương tiện tối đa cho Chính Phủ VHCH dẹp lọan Trí Quang, tức là dẹp vụ Bàn Thờ Phật Xuống Đường tại Huế và các tỉnh Miền Trung.

Gần đây nhất khi thấy trí Quang không còn một tí giá trị nào để lợi dụng nữa thì CIA lại chơi đòn độc, CIA giải mật hồ sơ cuộc chiến Việt Nam vào tháng 2 năm 2009. CIA đã ghi rõ trong hồ sơ giải mật rằng:
CIA tại Sài gòn đã đưa cho Thích Trí Quang 2 triệu đồng để làm công tác huấn luyện và

No comments:

Post a Comment