Monday, June 29, 2009
Saturday, June 27, 2009
Liên Thành Trả lời về Trinh Công Sơn 27-06-2009
Thứ Bảy, ngày 27 thang 6, 2009
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Những tên điếm khoác áo nhân đạo - Trần Thanh -
- Trần Thanh -
Trích Tin Paris
Trên đời này có một số bác sĩ lưu manh, "cứu nhân độ thế" bằng cách làm tiền bệnh nhân. Ví dụ như bệnh nhân mắc phải một chứng nan y nào đó, bác sĩ không bao giờ muốn cho bệnh nhân khỏi bệnh hẳn. Thoạt tiên, tên bác sĩ lưu manh cho bệnh nhân uống một liều thuốc mạnh, đủ để hiệu nghiệm tức thời, làm cho bệnh nhân tưởng mình đã khỏi bệnh. Nhưng sau đó, bệnh vẫn còn tiếp diễn và bệnh nhân cứ phải đi bác sĩ dài dài từ năm này qua năm nọ!
Nghề luật sư cũng có những thủ đoạn làm tiền hết sức tàn nhẫn. Có những trường hợp khi biết hai bên thân chủ đều giàu có thì bọn luật sư toa rập với nhau, cố ý kéo dài vụ kiện để ăn tiền. Một vụ kiện, nếu thực tình muốn dứt điểm, chỉ cần vài ba tháng, nhưng do "thiện chí" của các luật sư, đôi khi vụ kiện kéo dài thành vài ba năm! Chỉ chết những người ưa kiện tụng, thắng cũng chết mà thua cũng chết, chỉ tổ đi nuôi béo lũ luật sư. Ðó là lý do vì sao tục ngữ ta có câu "Vô phúc đáo tụng đình"!
Liên tưởng đến lãnh vực chính trị, chúng ta không khỏi giật mình khi biết rằng có một số tổ chức, đảng phái chủ trương "CHỐNG CỘNG" ÐỂ NUÔI CỘNG SẢN! Nghĩa là, họ không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ. Cộng sản phải còn tồn tại thì họ mới có "job" để làm việc và mới có cơ hội để làm giàu, vơ vét! Ðây là một thực tế hết sức phũ phàng! Ðó là lý do vì sao chúng ta thấy có vô số những tổ chức "từ thiện" ra đời. Những tổ chức này vừa "chống cộng", vừa quyên tiền để ăn chia tứ lục với bọn việt gian cộng sản! Nếu ai không tin thì cứ đi hỏi "bác" Hồ Ai Da xem bác có muốn chế độ cộng sản bị sụp đổ không thì biết liền! Một năm làm việc "từ thiện" bằng mười năm đi cày trong hãng, vậy thì tội gì mà không "hy sinh" để "giúp" những người nghèo!
- Ðọc đến đây, chắc có người nêu thắc mắc: - cụ thể là những tổ chức nào "chống cộng" để nuôi cộng sản?
Xin thưa, đó chính là kiểu "chống cộng" của băng đảng Bùi Tín, Việt Tân, băng đảng Nguyễn Ðan Quế, Khối 8406, băng đảng phật giáo Ấn Quang do Thích Quảng Ðộ cầm đầu ..v..v..
GS. Trần Khuê, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại VN: Ông Seth D. Winnick và BS. Nguyễn Đan Quế.:
Bọn lưu manh chính trị này chủ trương rằng:
- Chống cộng chỉ để nhằm CẢI THIỆN nhân/dân quyền. Nghĩa là, cái chế độ cộng sản vốn dĩ về căn bản nó đã tốt. Bây giờ chỉ cần CANH TÂN, điều chỉnh, sửa sai chút đỉnh là nó sẽ trở nên hoàn thiện! Ðó là chưa kể tên Bùi Tín đã nhiều lần ca ngợi rằng bác Hồ vốn dĩ là người yêu nước theo kiểu của bác và đảng Cộng Sản là có "công" với đất nước vì đã từng đánh đuổi giặc Pháp và giặc Mỹ!
Khi bị nhiều người phản đối, tố cáo thì bọn điếm chính trị này tiếp tục lươn lẹo:
- Chống cộng để "giải thể" chế độ cộng sản. Nếu ta hỏi "giải thể" như thế nào thì bọn chúng sẽ giải thích rằng sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử, bầu lại quốc hội mới, có mời quốc tế giám sát, sau đó quốc hội sẽ soạn thảo hiến pháp mới, đảng Cộng Sản vẫn tiếp tục được sinh hoạt và ra ứng cử như những đảng phái chính trị khác ..v..v.. Ðây là kiểu lý luận lưu manh, bịp bợm mà tổ chức Cao Trào Nhân Bản của Nguyễn Ðan Quế đã từng lên tiếng nhiều lần ...
Chúng ta thừa biết bọn việt gian cộng sản có trăm phương nghìn kế để lừa bịp và qua mặt toàn dân cũng như quốc tế, vì bọn chúng đang nắm những phương tiện trong tay. Năm 1945, khi mới nắm chính quyền, lực chưa đủ mạnh mà bọn chúng đã gian xảo lừa bịp được toàn dân và thế giới, huống chi bây giờ, sau 60 năm cầm quyền, bọn chúng đã biến thành đại ma đầu hết rồi! Chúng ta thấy biết bao nhiêu phái đoàn quốc tế đã tới Việt Nam để điều tra về tham nhũng, điều tra về những vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền, cuối cùng họ đã kết luận như thế nào? Vụ án tham nhũng của thằng chó đẻ, thứ trưởng bộ giao thông vận tải Nguyễn Việt Tiến đã được phái đoàn quốc tế kết luận là "không tìm thấy dấu hiệu tham nhũng"! Những sự ăn cắp của bọn chúng đã xảy ra hết sức trắng trợn đến nỗi ngay một người dân đen cũng nhìn thấy, vậy mà phái đoàn điều tra quốc tế "không thấy"! Ví dụ như những trụ bê tông làm bằng CỐT TRE, đã bị vỡ toang, lòi cả tre ra ngoài! Phải chăng những cặp mắt của những nhà thanh tra quốc tế đã bị mấy cái màng trinh của những đứa con gái che phủ hết rồi nên họ "không thấy"?
Ðảng việt gian cộng sản là bọn tội đồ của dân tộc. Ðã là việt gian tức là phản quốc, phản bội dân tộc, bọn chúng phải bị tiêu diệt, phải bị đem ra tòa xét xử và vĩnh viễn bị loại trừ khỏi chính trường chớ không phải vẫn được sinh hoạt bình thường như những tổ chức chính trị khác. Mục tiêu đấu tranh của chúng ta là trị bệnh tận gốc, nghĩa là phải "đào tận gốc, trốc tận rễ" toàn bộ bọn việt gian cộng sản phản dân hại nước. Những kẻ "đấu tranh" bịp như những tổ chức nêu trên chỉ là những kẻ điếm đàng, lưu manh, lường gạt, tựa như những tên bác sĩ trị bệnh mà không bao giờ muốn cho bệnh nhân hoàn toàn khỏi bệnh.
Thích Trí Quang Thích Ðôn Hậu
Chúng ta hãy nhìn vào cái tổ chức gọi là "Phật giáo Ấn Quang". Bọn này đã có một quá trình đi theo giặc từ năm 1945, đã góp một phần lớn vào việc làm cho miền Nam bị mất vào tay giặc. Những tên đầu sỏ là Thích Ðôn Hậu, Thích Trí Quang. Sau năm 1975, tên đầu trọc Thích Trí Quang bị thất sủng, chuyên ngồi dịch kinh sách và hiện nay những tác phẩm dịch thuật như "Kinh Thủy Sám" của hắn đang được lưu hành rộng rãi tại các chùa ở hải ngoại! Một kẻ có máu lạnh giết người như hắn, chuyên xúi dục những người khác tự thiêu vì "đạo pháp" mà lại chuyên dịch thuật kinh sách thì đúng là khôi hài, mỉa mai, tay trái giết người, tay phải làm lễ lạy Phật!
Cũng sau năm 1975, một nhân vật khác bỗng nổi đình nổi đám, đó là Thích Quảng Ðộ, vốn dĩ đã từng là một trong 13 tên ác tăng đã giết hại đồng bào và bán đứng miền Nam cho cộng sản. Sau năm 1975, Quảng Ðộ bị bọn giặc thất sủng. Bất mãn, ông quay sang chống đối. Sự chống đối của ông ta cũng tựa như sự chống đối của những tên giặc như Hoàng Văn Hoan,Trần Ðộ, Hoàng Minh Chính, nghĩa là chỉ vì không được chia chác quyền lợi mà xoay ra chống đối, chớ không phải vì dân vì nước. Sau nhiều màn đóng vai "đối lập" cuội, tưởng là uy tín của mình có thể bao trùm được hết cộng động người Việt tại hải ngoại, Quảng Ðộ và đám tay sai và bọn Việt Tân quyết định chơi đòn tháu cáy, tố xả láng lá bài "biểu tình tại gia - bất tuân dân sự" để lập thành tích dâng lên bác và đảng. Nhưng mưu sự tại .... việt gian, thành sự tại thiên, ván bài xì phé của lũ gian tà đã bị thất bại hết sức thê thảm, hai con bài Quảng Ðộ và Võ Văn Ái đã bị cháy một cách hết sức thảm hại! Nhân vật Võ Văn Ái bây giờ có đem cái mặt mốc ra để nói chuyện "đấu tranh" thì chắc chắn không còn ai nghe và tin tưởng nữa! Một sự phản bội hết sức trắng trợn, bọn chúng đã nói thẳng thừng là cộng đồng hải ngoại phải về quỳ lạy bọn việt gian cộng sản để "thống nhất ý kiến"!
Trước khi xảy ra biến cố "biểu tình tại gia", chúng ta thấy Quảng Ðộ đã có những biểu hiện làm việt gian rồi. Có lần ông ta đã đề cập đến giải pháp "hòa hợp hòa giải", nghĩa là có ba phe cùng sinh hoạt chính trị, cùng tham gia quản trị đất nước. Ðó là đảng Cộng Sản, đảng Quốc Gia và các đảng phái Trung Lập. Lúc ấy, chưa có ai lên tiếng chống đối, có lẽ vì còn hy vọng Quảng Ðộ là người thực sự vì dân vì nước! Thấy không có ai chống đối, Quảng Ðộ tưởng bở, mới đi tiếp nước cờ "biểu tình tại gia" và đã bị vỡ mặt! Giờ đây Quảng Ðộ chỉ còn nước độn thổ hoặc chui xuống gầm giường mà thôi chớ còn mặt mũi nào mà nhìn đồng bào phật tử trong và ngoài nước nữa! Bọn việt gian cộng sản cũng sẽ ném lá bài cháy này vào sọt rác! Nâng bi cộng sản như Thích Nhất Hạnh, cuối cùng cũng phải cay đắng bỏ của chạy lấy người, bị mất toi cả triệu đô la đầu tư vào mấy chục hecta đất ở Lâm Ðồng, xây dựng Làng Hồng, để rồi bị bọn cướp tịch thu trắng trợn, sạch láng!
- CẦN PHẢI CÓ THẬT NHIỀU VỤ NỔI DẬY NHƯ QUỲNH LƯU, NGHỆ AN 1956:
Tự chúng ta phải cứu lấy chúng ta, phải đồng loạt nổi dậy để lật đổ bọn cộng sản. Ðừng bao giờ ngồi chờ đợi, hy vọng vào bọn chó đẻ đấu tranh cuội. Bọn chúng luôn luôn tìm cách kéo dài thời gian, tạo cho chúng ta nhiều ảo tưởng, tựa như bó cỏ tươi treo trước đầu con ngựa:
- Yên chí đi, bọn cộng sản sắp chết tới nơi rồi! Sắp sửa có một phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam điều tra về nhân quyền, điều tra về tự do tôn giáo! Cứ đợi đấy, chúng ta không cần phải đấu tranh gì cả, Liên Hiệp Quốc sẽ can thiệp, cứu giúp chúng ta. Bọn cộng sản sẽ chết! Ðồng bào ở hải ngoại cứ yên tâm về Việt Nam du lịch. Sớm muộn gì bọn cộng sản sẽ chết!
- Yên chí đi, bọn cộng sản sắp chết tới nơi rồi! Sắp sửa có một phái đoàn thanh tra về tham những do Liên Hiệp Quốc gởi đến Việt Nam. Cứ đợi đấy, bọn cộng sản sắp chết tới nơi rồi!
- Xin báo cho đồng bào hay một tin vui lớn: Hạ viện, Thượng viện Mỹ SẮP SỬA thông qua một đạo luật đưa Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia cần quan tâm về tôn giáo! Bọn cộng sản sắp chết đến nơi rồi. Tổng thống Mỹ sẽ áp dụng lệnh cấm vận đối với Việt Nam! Ðồng bào nên tranh thủ đi du lịch Việt Nam càng nhiều càng tốt, kẻo mai mốt nước Mỹ áp dụng lệnh cấm vận thì làm sao mà về Việt Nam cưới .... vợ nhí được???
- Sắp tới, ông/bà dân biểu Mỹ, ông/bà thượng nghị sĩ Mỹ sắp sửa sang Việt Nam để điều tra về nhân quyền. Yên chí đi, phen này bọn cộng sản sẽ chết! Chúng ta không cần phải đấu tranh gì cả. Người Mỹ họ sẽ đấu tranh giùm chúng ta. Ðồng bào cứ việc đi du lịch Việt Nam thoải mái, sớm muộn gì chế độ của bọn cộng sản sẽ sụp đổ!
- Xin thưa với quý vị rằng, tất cả những "tin vui" nói trên đều là những trò bịp bợm. Thậm chí, cho dù có thực đi chăng nữa cũng chỉ là biện pháp ... gãi ghẻ, chẳng làm gì được bọn giặc hết! Người Mỹ gọi là "play game"! Ðã hơn 25 năm qua, biết bao nhiêu cá nhân và phái đoàn Mỹ cũng như thế giới đã đến Việt Nam để "điều tra", kết quả, người dân được hưởng lợi lộc gì, hay cuộc đời của họ vẫn tiếp tục được gắn liền với nhà tù và cái còng số 8?
Do đó, đã đến lúc chúng ta phải thức tỉnh và phải tự chúng ta nổ lực giải thoát chính mình. Có khi nào chúng ta lên tiếng kêu cứu như thế này:
- Này, các anh ơi, chúng tôi đang chết đói, chết khát đây. Tiện thể các anh đi xuống bếp, nhờ các anh UỐNG NƯỚC GIÙM VÀ ĂN CƠM GIÙM CHÚNG TÔI NHÉ!
Nếu chúng ta kêu cứu như thế thì sẽ có câu trả lời như sau:
- Mấy ông có điên hay không? Mấy ông khát nước thì mấy ông phải tự uống nước. Mấy ông đói bụng thì mấy ông phải tự ăn. Làm sao chúng tôi ăn giùm, uống giùm các ông được! Chúng tôi có thể đem thức ăn thức uống lại cho các ông nhưng CHÍNH CÁC ÔNG PHẢI TỰ ĂN VÀ TỰ UỐNG!!!
Như vậy là rõ rồi. Chúng ta đang khao khát được uống nước TỰ DO và ăn cơm TỰ DO. Tự chúng ta phải vùng lên để lật đổ chế độ cộng sản chớ không có dân tộc Mỹ, Anh, Pháp hay Nhật Bản nào có thể làm điều này giùm chúng ta. Họ có thể yểm trợ chúng ta nhưng chính chúng ta phải thực hiện cuộc cách mạng!
Những tên điếm lưu manh chính trị như đã nêu trên,cũng nguy hiểm không thua gì bọn giặc. Sở dĩ đã 34 năm trôi qua mà chế độ việt gian cộng sản vẫn chưa bị sụp đổ vì bọn này đã tích cực cản đường, đánh lạc hướng cuộc đấu tranh của chúng ta. Bọn chúng cũng phải bị tiêu diệt như bọn giặc, cũng ví như khi chúng ta đã giết được bọn cướp, đòi lại được căn nhà thì mọi thứ chuột bọ, gián mối ở trong nhà cũng phải bị tiêu diệt.
Trần Thanh
Ngày 26 tháng 6 năm 2009
việt gian Cộng Sản Nguyễn Việt Tiến là cựu thứ trưởng thường trực Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, bị bắt ngày 4 tháng 4 năm 2006 lúc đang đương chức vì dính líu đến Vụ PMU 18
Nguyễn Việt Tiến sinh năm 1950 người thôn Trường Sơn, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Ông bắt đầu tham gia công tác trong ngành giao thông từ năm 1972 với công việc tại Phòng quản lý đường xá Cục quản lý đường bộ. 11 năm sau ông lên làm cán bộ việt gian Cộng Sản Vụ tổ chức cán bộ Bộ Giao thông vận tải. Năm 1984-1985, ông học quản lý kinh tế tại Liên Xô. Về nước, ông làm Phó phòng tổng hợp Vụ Tổ chức cán bộ việt gian Cộng Sản . Năm 1990-1992, sau khi kinh qua chức quyền giám đốc Trung tâm thống kê của Bộ, ông Tiến giữ ghế Vụ phó Vụ kế hoạch.
Trong năm 1993, ông làm Phó tổng giám đốc Khu quản lý đường bộ II. Từ 1994 đến tháng 4/1998, ông được nâng lên là Tổng giám đốc Ban quản lý các dự án 18 (PMU 18). Sau đó, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tả Cộng Sản .
Ngày 4/4/2006, ông Tiến bị bắt tạm giam. Cơ quan điều tra khởi tố với 3 tội danh. Ngày 3/10/2007 sau 18 tháng tạm giam, Viện kiểm sát đồng ý cho tại ngoạiDanh sách GHPGVNTN Hải ngoại
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada (ký tên):
1. T.T. Thích Bổn Đạt, Chủ Tịch HĐĐH
2. T.T. Thích Thiện Quang, Phó CT. Nội Vụ kiêm Tổng vụ trưởng Giáo Dục
3. T.T. Thích Trường Minh, thành viên
4. T.T. Thích Trường Phước, Phó CT.Ngoại Vụ
5. T.T. Thích Nhật Trí, Tổng Thư Ký HĐĐH
6. Sư Cô Thích Nữ Từ Diệu, Tổng Thủ Quỹ HĐĐH
7. T.T. Thích Nguyên Lạc, Chủ tịch Hội Đồng Giám Sát
8. T.T. Thích Trí Thành, Tổng vụ trưởng Tăng Sự
9. T.T. Thích Viên Diệu, Tổng vụ trưởng Cư Sĩ
10. T.T. Thích Tâm Hòa, Tổng vụ trưởng Hoằng Pháp
11. T.T. Thích Nhật Quán, Tổng vụ trưởng Văn Hóa
12. Đ.Đ. Thích Tâm Đăng, Tổng vụ trưởngThanh Niên
13. Đ.Đ. Thích Nguyên Mãn, Tổng vụ trưởng Tài Chánh
14. Đ.Đ. Thích Đạo Hạnh, Tổng vụ trưởng Nghi Lễ
15. Sư Cô Thích Nữ Bảo Quang, Tổng vụ trưởng Xã Hội
16. Đ.Đ. Thích Tâm Minh, Tổng vụ phó Hoằng Pháp
17. Đ.Đ. Thích Đạo Quang, Tổng vụ phó Nghi Lễ
18. Đ.Đ. Thích Pháp Lạc, thành viên
19. Đ.Đ. Thích Phước Tuệ, thành viên
20. Đ.Đ. Thích Thông Giới, thành viên
21. Sư Cô Thích Nữ Như Đức, thành viên
22. Sư Cô Thích Nữ Huệ Thuận, thành viên
23. Sư Cô Thích Nữ Phước Hiền, thành viên
24. Sư Cô Thích Nữ Tịnh Niệm, thành viên
25. Sư Cô Thích Nữ Khánh Từ, thành viên
26. Sư Cô Thích Nữ Hỷ Lạc, thành viên
27. Sư Cô Thích Nữ Hỷ An, thành viên
28. Sư Cô Thích Nữ Hỷ Ý, thành viên
29. Sư Cô Thích Nữ Phổ Tánh, thành viên.
Minh Tâm
Diệu Trạm
Tánh Thiệt
Như Điển
Diệu Tâm
Bổn Đạt Bảo Lạc NhưHuệ
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan (ký tên):
1. Hòa thượng Thích Như Huệ, Hội Chủ Giáo Hội, thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống
2. Hòa thượng Thích Bảo Lạc, Phó Hội Chủ Điều Hành, kiêm Tổng vụ trưởng TV Tăng Sự
3. Thượng tọa Thích Tịnh Minh, Phó Hội Chủ Nội Vụ, kiêm Tổng vụ phó TV Tăng Sự
4. Thượng tọa Thích Quảng Ba, Phó Hội Chủ Ngoại Vụ, kiêm Tổng vụ trưởng TV Hoằng Pháp
5. Thượng tọa Thích Trường Sanh, Phó Hội Chủ ĐTTTL, kiêm TVT.TV Văn Hóa Giáo Dục
6. Thượng tọa Thích Nhật Tân, Tổng Thư Ký
7. Đại đức Thích Nguyên Tạng, Phó Tổng Thư Ký, kiêm Tổng vụ phó TV Hoằng Pháp
8. Đại đức Thích Giác Tín, Phó TổngThư Ký
9. Ni sư Thích Nữ Tâm Lạc, Chánh Thủ Quỹ, kiêm Tổng vụ phó TV Tài Chánh
10. Thượng tọa Thích Bổn Điền, Thành viên Tăng Ni, Viện chủ Chùa Huyền Quang
11. Thượng tọa Thích Nguyên Trực, Tổng vụ phó TV Tăng Sự
12. Ni trưởng Thích Nữ Phước Trí, Vụ trưởng Vụ Ni Bộ
13. Ni trưởng Thích Nữ Chơn Đạo, Phó Vụ trưởng Vụ Ni Bộ, kiêm Tổng vụ phó TV Từ Thiện Xã Hội
14. Thượng tọa Thích Tịnh Đạo (Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Trên Thế Giới), Tổng vụ trưởng TV Cư Sĩ, kiêm Tổng
vụ phó TV Hoằng Pháp
15. Thượng tọa Thích Tâm Phương, Tổng vụ trưởng TV Từ Thiện Xã Hội
16. Thượng tọa Thích Thiện Hiền, Tổng vụ trưởng TV Tài Chánh
17. Thượng tọa Thích Tâm Minh, Tổng vụ trưởng TV Nghi Lễ
18. Thượng tọa Thích Quảng Nghiêm, Tổng vụ phó TV Từ Thiện Xã Hội
19. Thượng tọa Thích Như Định, Tổng vụ phó TV Nghi Lễ
20. Đại đức Thích Viên Trí, Tổng vụ phó TV Hoằng Pháp, kiêm Tổng vụ phó TV Nghi Lễ
21. Đại đức Thích Đạo Thông, Tổng vụ phó TV Văn Hóa Giáo Dục
22. Đại đức Thích Hạnh Hiếu, Tổng vụ phó TV Văn Hóa Giáo Dục
23. Đại đức Thích Đạo Hiển, Tổng vụ phó
TV Thanh Niên – Gia Đình Phật Tử
24. Đại đức Thích Hạnh Tri, Tổng vụ phó TV Cư Sĩ
25. Sư cô Thích Nữ Thành Liên, Tổng vụ phó TV Từ Thiện Xã Hội
26. Sư cô Thích Nữ Nguyên Khai, Tổng vụ phó TV Cư Sĩ
27. Sư cô Thích Nữ Trí Lưu (Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Trên Thế Giới), Trụ trì Chùa Linh Sơn
28. Đạo hữu Như Tạng Lâm Như Tạng, Tổng vụ phó TV Văn Hóa Giáo Dục
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu (ký tên):
1. Hòa thượng Thích Minh Tâm, Chủ tịch Điều hành, thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống
2. Hòa thượng Thích Tánh Thiệt, Phó Chủ tịch,
3. Hòa thượng Thích Như Điển, Tổng thư ký,
4. Ni sư Thích Nữ Diệu-Phước, Thủ quỹ,
5. Thượng tọa Thích Minh Giác, Tổng vụ Trưởng TV. Tăng Sự,
6. Thượng tọa Thích Tâm Huệ, Phụ tá Tổng vụ Giáo dục,
7. Thượng tọa Giác Thanh, Tổng vụ Trưởng TV. Cư sĩ,
8. Sư bà Thích Nữ Diệu-Tâm, Tổng vụ Trưởng TV Từ thiện Xã hội kiêm Vụ trưởng vụ Ni bộ,
9. Thượng tọa Thích Quảng Hiền, Vụ Trưởng vụ Nghi lễ,
10. Thượng tọa Thích Nguyên Lộc, Vụ Trưởng vụ Khánh Tiết,
11. Thượng tọa Thích An Chí, Tổng vụ Trưởng TV. Thanh niên - GĐPT,
12. Thượng tọa Thích Đồng Văn, Phụ tá Tổng vụ Giáo dục,
13. Thượng tọa Thích Thông Trí, Phụ tá Tổng vụ Hoằng pháp,
14. Thượng tọa Thích Phước Huệ, Phụ tá Tổng vụ Tăng sự,
15. Thượng tọa Thích Quảng Đạo, Phụ tá Tổng vụ Tăng Sự,
16. Thượng tọa Thích Hạnh Thông, Phụ tá Tổng vụ Cư sĩ
17. Ni sư Thích Nữ Như-Viên, Phụ tá vụ Ni bộ Bắc tông,
18. Ni sư Thích Nữ Diệu-Trạm, Phụ tá vụ Ni bộ Bắc tông,
19. Đại đức Thích Hạnh Tấn, Phụ tá Tổng vụ Thanh niên - GĐPT,
20. Đại đức Thích Viên Duy, Phụ tá Tổng vụ Hoằng pháp,
21. Đại đức Thích Tịnh Phước, Phụ tá Tổng vụ Từ thiện Xã hội,
22. Ni sư Thích Nữ Minh-Hiếu, Phụ tá Tổng vụ Từ thiện Xã hội..
Thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ trong Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ (ký tên):
1. HT. Thích Thuyền Ấn, nguyên thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống;
2. HT. Thích Thắng Hoan, nguyên thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống, Chánh Văn Phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHN-HK;
3. HT. Thích Trí Chơn, nguyên thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống, Phó chủ tịch Ngoại vụ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK;
4. HT. Thích Chơn Thành, nguyên thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống, thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHN-HK;
5. HT. Thích Hạnh Đạo, Cố vấn Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK;
6. HT. Thích Nguyên Lai, thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm, Cố vấn HĐĐH;
7. HT. Thích Phước Thuận, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Giám Sát GHPGVNTNHN-HK;
8. HT. Thích Tín Nghĩa, thành viên HĐGP, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ
9. HT. Thích Nguyên An, thành viên HĐGP,Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự
10. HT. Thích Nguyên Trí, thành viên HĐGP, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tài chánh
11. HT. Thích Pháp Tánh, nguyên thành viên Hội Đồng Giám Sát
12. HT. Thích Minh Tuyên, nguyên Vụ trưởng Vụ Cư sĩ
13. HT. Thích Minh Hồi, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Cư sĩ
14. HT. Thích Tâm Vân, nguyên Phó Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ
15. TT. Thích Nguyên Siêu, thành viên HĐGP, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn Hóa
16. TT. Thích Vân Đàm, thành viên HĐGP, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo Dục
17. TT. Thích Minh Dung, Phó Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK
18. TT. Thích Đồng Trí, Tổng Thư ký Tổng vụ Tăng sự
19. Sư Bà Thích nữ Như Nguyện, nguyên Tổng thư ký Tổng vụ Ni Bộ
20. Cư sĩ Trí Không - Trần Quang Thuận, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Nghiên Cứu & Kế Hoạch
21. Cư sĩ Quảng Thành - Bùi Ngọc Đường, Phụ tá Tổng vụ trưởng Tổng vụ Nghiên Cứu & Kế Hoạch
22. Cư sĩ Quảng Phước - Huỳnh Tấn Lê, Phụ tá Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ
23. Cư sĩ Tâm Huy - Huỳnh Kim Quang, Phó Tổng thư ký Hội Đồng Điều Hành
24. Cư sĩ Tâm Quang - Vĩnh Hảo, Phụ tá Tổng vụ trưởng Tổng vụ Nghiên Cứu & Kế Hoạch
25. Cư sĩ Quảng Thông - Huỳnh Minh, Phụ tá Tổng vụ trưởng Tổng vụ Kinh Tế Tài Chánh.
Friday, June 26, 2009
HT Thích Minh Chiếu, trụ trì Chùa Việt Nam, Seattle, WA
, HT Thích Minh Chiếu, trụ trì Chùa Việt Nam, Seattle, WA
là cựu Trung tá QL/VNCH phục vụ tại một đơn vị ở Biên Hòa,
khóa 12 Võ Bị Đà Lạt, có vợ con ở California và mới đi tu sau nầy
HT Thích Minh Chiếu,có dấu trắng trên áo
,
1651 S. King St, WA 98144. Tel: (206) 323-2269
chử ký của HT Thích Minh Chiếu
Tuesday, June 23, 2009
Radio SBS Phần 1-2 Mậu Thân 40 năm sau - Tội Ác Cộng Sản
Radio SBS Phần 3-4 Mậu Thân 40 năm sau - Tội Ác Cộng Sản
Elje Vannema--the Viet Cong Massacre at HUE
Ghi Chú : Trong đoạn phát thanh của SBS có phần Khánh Ly hát trên nhứng xác người, một tác phẩm ca mừng chiến thắng của bọn tàn ác việt gian Cộng Sản và Phật Giáo Ấn Quang . Đến năm 2009 Khánh ly và những ca sĩ hải ngoại hám danh, tham lợi đi về Việt Nam ca cho Cộng Sản gọi là trình diễn, họ vẫn sống trên xác chết của người dân vô tội vì họa Cộng Sản. Khánh ly đi Việt Nam ca hát, Khánh ly vẫn tiếp tục ca tụng việt gian Cộng Sản Trinh Công Sơn. Chúng tôi không cắt xén vì muốn để lại bằng chứng tội ác đồng lõa của Khánh Ly với tội ác Cộng Sản sẽ đi vào lịch sử tội ác thảm sát Mậu Thân 1968.
Monday, June 22, 2009
Trung Tướng TQLC Lewis W. Walt- Tội Ác Cộng Sản Miền Trung 1966-1967
Tố Cáo Tội Ác Cộng Sản Miền Trung
tạp chí Reader’s Digest số tháng 11-1968
February 16, 1913(1913-02-16) – March 26, 1989 (aged 76)
Lewis William Walt (February 16, 1913 – March 26, 1989), also known as Lew Walt, was a United States Marine Corps officer who served in World War II, the Korean War, and the Vietnam War. His decorations included two Navy Crosses and two Distinguished Service Medals. He retired with the rank of four-star general.
Bài trình bày dưới đây đã được Hubbell viết và đăng trên tạp chí Reader’s Digest số tháng 11-1968 cùng với lời giới thiệu của Trung Tướng TQLC Lewis W. Walt, Quân Đoàn 1, Nam Việt Nam (1966-1967)
Trung Tướng Walt viết :
”bài tường thuật nầy đã diển tả một cách trung thực bản cht thực sự của kẻ thù tại Nam Việt Nam . Tôi đã chứng kiến cảnh một em bé trai hai tay bị chặt đứt. Tôi đã nhìn những chiếc đầu người bị bêu trên đầu cọc và những thân hình bụng bị mổ toang ra . Trong 2 năm phục vụ tại Nam Việt Nam, cùng sát ca’nh chiến đấu và làm việc với lực lượng của miền Nam, tôi học hỏi được rằng các sự khủng bố của cộng sản trong bài nầy không phải là các biến cố tai nạn chiến tranh lẻ tẻ mà là do một chương trình tàn sát có chủ định sẵn, và đó là lý do khiến chúng tôi đã đáp ứng lại lời kêu gọi trợ giúp của Nam Việt Nam mà chúng tôi tin những nổ lực cứu giúp quốc gia nầy của chu’ng tôi rất đáng giá, cần thiết, và chủ yếu”.
Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, một trong các đứa con của hai người, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày, họ tìm đến Trung Tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị Việt Cộng bắt cóc, rồi thì đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó chạy vội ra, ôm lấy nó vào lòng. Cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ có đeo một cái bảng có ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó. Nếu ông ta hay bất kỳ người nào trong làng cả gan đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới sẻ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho các đứa con còn lại của ông ta.
Tại một xã khác không cách xa Đà Nẳng là bao, Việt Cọng cũng đưa ra lời cảnh cáo tương tự. Tất cả những người dân được tập trung lại trước nhà viên Xã trưởng, kể cả người vợ của ông ta đang bụng mang dạ chửa và bốn đứa con để chứng kiến cảnh khủng bố dả man của bọn chúng . Lưởi ông Xã trưởng bị cắt , và hạ bộ cũa ông ta cũng bị thiê’n rời ra, đem nhe’t vào trong mồm trầy trụa máu rồi khâu lại.Trong khi ông ta chết, bọn VC xoay ra hành hạ bà vợ bằng cách dùng dao rạch bụng bà ta ra. Đứa trẻ 9 tuổi bị chúng dùng một que nhọn xuyên qua từ tai bên nầy sang tai bên kia. Hai đứa kia cũng bị giết chết một cách tương tự. Chỉ còn đứa bé gái 5 tuổi được bọn chúng cho thoát chết, rồi nó chỉ còn biết cầm tay người mẹ đã chết mà gào khóc.
Trung Tướng Walt đã đến trụ sở một quận lỵ, một ngày sau khi quận này bị VC và bộ đội miền Bắc tràn ngập. Một số binh sĩ VNCH không bị chết trên chiến trường đã bị bắt. Chúng trói những binh sĩ này lại rồi bắn vào mồm hay vào sau gáy họ. Vợ con của họ và trẻ em mới 2 hay 3 tuổi, bị bọn chúng đưa đi diểu hành trên đường phố trần truồng trước khi bị chúng đưa ra hành quyết. Có người cổ họng bị cắt đứt, có người bị chặt đầu hay bị mổ bụng, xác họ được đem bêu trên các hàng rào kèm theo với những tấm bảng cảnh cáo dân làng, nếu tiếp tục ủng hộ chính quyền Sàigon, cũng sẽ bị chung một số phận tương tự. Những hành động khủng bố như vậy không phải là những hành động lẻ tẻ mà là do một chính sách có chủ định sẵn cũa chúng.
Trong khi đó, có những người thơ ngây và chống đối Hoa Kỳ trên khắp thê’ giới, vì bị mê hoặc bởi những luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản , nên đã đánh trống khua chiêng, rêu rao chống lại cái họ gọi là tính chất vô luân của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Nam Việt Nam như oanh tạc bằng không quân hay xử dụng tới bom Napalm (thực ra rất hạn chế cho những truờng hợp thật cần thiết mà thôi) gây ra nhiều thiệt hại cho dân chúng, ngày cũng như đêm, trong nhiều năm chinh chiến. Cộng Sản đã chỉ nêu nhiều hành động mà chúng cho là tàn bạo, dã man của miền Nam Việt Nam nhưng đã quên rằng chính chúng đã phạm vào những tội ác kinh tởm ghê gớm . Tính tới cuối năm 1967, chúng đã phạm vào khoảng 100,000 trường hợp khủng bố, chống lại người dân miền Nam Việt Nam qua những chuổi dài hành động bạo tàn vô tận như tra tấn, sát hại chẳng khác gì dươ’i thời đại của Đức Quốc Xã .
Những hành động khủng bố được bắt đầu từ khi lãnh tụ độc tài Hồ Chí Minh củng cố được quyền lực tại miền Bắc, trước ngày lịch sử 1954 chiến thắng Pháp tại Điện Biên Phủ , Hồ đã cho thi hành một chiến dịch tàn bạo đối với chính nhân dân của ỵ
Hầu hết tại các làng mạc miền Bắc, những đoàn cán bộ võ trang điều động dân chúng tới để chứng kiến những vụ tự thú của các địa chủ mà chúng cho là cường hào ác bá. Rồi thì tới lượt các nhà trí thức, các giáo viên, nói tóm lại tất cả những ai co’ thể là nguồn chống đối mai sau này, cũng được chúng gom lại để làm bản tự thú về những tư tưỡng lầm lẩn trong quá khứ.
Tiếp theo là những tòa án nhân dân được thiết lập để xét xử họ. Có nhiều trường hợp các nạn nhân đã bị hành quyết, bị chặt đầu hay bị hành hạ, trói tay, trói chân thẩy xuống các hố tập thể và vùi đất, đá lên cho tới chết.
Hồ lại còn tái diễn những hành động khủng bố này từng định kỳ một. Có khoảng từ 50,000 và 100,000 người được coi như đã bị giết chết một cách tàn nhẫn trong các cuộc tắm máu như vừa kể trên. Trong thập niên 1950, Hồ cũng đã dẹp tan những cuộc nổi dậy tại Bắc Việt Nam, đặc biệt nhất là vụ nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An tháng 11 năm 1956, và ngay cả tại Nam Ðàn là nơi sinh quán của họ Hồ. Vì dân chúng nổi lên chống lại sưu cao thuế nặng, nên Hồ phải đưa quân đội tới đàn áp. Khoảng 6,000 nông dân, không vỏ trang, đã bị tàn sát.
Sau khi đã củng cố được Miền Bắc rồi, Trung Ương đảng Bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam họp tại Hà nội ngày 13 tháng Ba năm 1959 đưa ra quyết định phải có hành động chống lại Miền Nam Việt Nam, hợp lực với những cán binh nằm vùng đã ở lại Miền Nam sau khi Phàp thất trận năm 1954. Nhiệm vụ loại bỏ các nhà lãnh đạo tại Miền Nam, thanh toán tất cả những ai có thân nhân phục vụ, trong quân lực VNCH, ca’c nhân viên dân chính, cảnh sát, hoặc tất cả những ai không chịu đóng thuế cho chúng.
Một du kích quân VC bị bắt đã cho biết các hoạt động của nhóm 8 người của y tại các làng mạc miền Nam như sau : Lần đầu tiên chúng tôi vào làng này, chúng tôi đã hạ sát 4 người đàn ông mà huyện uỷ của chúng tôi nói họ là những phần tử phản động rất nguy hiểm đối với chúng tôi.Môt người đã theo Pháp, tham gia vào trận chiến chống lại chúng tôi và rồi bây giờ lại ủng hộ chính quyền miền Nam. Một người khác đã có cảm tình với quân đội chính phủ và 2 người khác là địa chủ và họ đã bị chặt đầu.
Trung Tướng Walt cũng cho biết về chính sách cách mạng của Việt Cộng khi chúng vào hai ngôi làng khác. Trong một trường hợp, một em bé gái 15 tuổi đã cung cấp tin tức của Việt Cộng cho toán TQLC của Tướng Walt, em đó sau này bị VC bắt cóc đem vào rừng, hành hạ, tra tấn trước khi chặt đầu em, như để cảnh cáo cho những người khác trong làng. Những kẻ sát nhân kia không ai khác là người anh ruột của em bé gái nạn nhân, cùng với 2 đồng chí của ỵ
In July 1960, Colonel Walt began a one-year assignment as Marine Corps Representative on the Joint Advanced Study Group of the Joint Chiefs of Staff. Upon completing this assignment, he was promoted to brigadier general and reported for duty at Camp Lejeune as Assistant Division Commander, 2nd Marine Division. In September 1962, General Walt returned to Marine Corps Schools, Quantico, serving as Director of the Marine Corps Landing Force Development Center there until May 1965.
Vietnam War
That same month, he was promoted to major general, and in June 1965 assumed command of III Marine Amphibious Force and 3rd Marine Division in Vietnam. He was also Chief of Naval Forces, Vietnam and Senior Advisor, I Corps and I Corps Coordinator, Republic of Vietnam.
Ten months later, General Walt was nominated for lieutenant general by President Lyndon B. Johnson, and his promotion was approved by the Senate on March 7, 1966. He continued in Vietnam as Commanding General, III Marine Amphibious Force, and Senior Advisor, I Corps and I Corps Coordinator, Republic of Vietnam. During this period, General Walt was awarded his first Distinguished Service Medal. In addition, the Vietnamese government awarded General Walt the Vietnamese National Order, 3rd Class; the Vietnamese National Order, 4th Class; the Gallantry Cross with Palm; the Chuong My Medal, and the Vietnamese Armed Forces Meritorious Unit Citation of Gallantry Cross with Palm. He was also awarded the senior Ulchi Medal by the Government of South Korea.
As a testament to his vital role in Vietnam, Life magazine featured General Walt in a May 1967 cover story. The article noted the success of an innovative program initiated by General Walt in August 1965 called Combined Action Company (CAC). This program sent squads of Marine volunteers into the countryside to assist local part-time militia men known as Popular Forces. As Life noted, "His CAC units all had the same orders: help protect the villages, get to know the people, find the local Communist infrastructure and put it out of business." General Walt stressed the importance of using CAC to win the confidence of average, ordinary Vietnamese citizens. The magazine observed, "If these people could be located and won over, Walt argued, the Communists would be hit where it hurts." Because of his CAC program, the number of "secure" villages under General Walt's protection rose between 1965 and 1967 from 87 to 197, while the number of Vietnamese living in "secure" areas in general rose from 413,000 to 1.1 million.[2]
VỤ THẢM SÁT TÂN LẬP 21 tháng 4 năm 1975,
Thảm sát ở làng Tân Lập, Xuân Lộc
Tôi xin viết bài này, bắt đầu từ một tiến trình thu gọn những biến cố đau thương trải qua trong đờị..
1.Một vụ xử tử trước mắt trẻ thơ.
Tôi là một thằng nhóc nhà quệ Hay nói rõ hơn, tôi sinh ra nơi đồng nội rạ rơm trong cuộc chiến tranh Việt Pháp. Lúc tôi khoảng 7 hay 8 tuổi, tôi nhớ mang máng là vậy, ba tôi và những người trong một làng xa thành phố Phan Thiết về hướng Tây Bắc, được người ta mời đi lên một vùng rất xa để tham dự một cuộc "meeting" gì đó. Khi đến nơi, tôi thấy một đám đông vây quanh một ngôi mả vôị Một người bị bịt mặt, hai tay bị trói quặt ra phía sau, cột vào một thân cây tự lúc nào.
Bỗng tôi nghe một tiếng nổ. Người bịt mặt quẹo đầu xuống. Tôi há hóc mồm trong cảm giác kinh hoàng. Và sau đó người ta đã làm văn nghệ, hát hò. Ba tôi âm thầm đắt tôi về nhà, đường đi cả chục cây số, ban đêm, vì sợ cà nông từ phố bắn lên. Tôi còn quá nhỏ để hiểu chiến tranh và sự tàn nhẫn của con người, song đủ trí khôn để biết người ta đã giết người trong chiến tranh.
2.Người hành hạ người như thú vật
Tôi, thằng nhóc trong đoạn văn trên, khoảng 25 năm sau, trở thành tên tù tàn binh trong một trại tù VC gọi là trại tù tàn binh Kà Tót. Một buổi chiều hiu hắt nắng tháng 5 năm 1975, tôi và bạn bè bị gom vào sân trại giữa rừng núi âm u lách len những tia nắng quáị
Hai hàng dọc!
Thẳng! Cởi hết quần áo ra!
Tập trung tất cả thuốc men, thức ăn, mùng mền, võng, giầy dép!
Chỉ mặt xà lỏn hay xì líp!
Nhanh lên!
Ê! Anh kia! Làm cái gì đó! Vào hàng ngay!
Tôi bắn vỡ sọ bây giờ!
Sau lệnh bắt mọi người đưa hai tay lên trời để cán bộ khám xét, và đồ đạc mang theo để đọc dài dưới chân, người ta đã gom tất cả thức ăn vào nhà bếp. Nào đường, nào gạo, nào nước mắm, xì dầụ... Người ta đã gom tất cả thuốc men cuả anh em đem theo lên phòng thuốc. Nào Tifomycine, nào Fansida, nào Chloroquinẹ.. Người ta đã gom tất cà mùng mền, chiếu võng, giầy dép vào kho trại lợp lá hoang sợ..
Khi lệnh cho mặc quần áo trở lại để về lán trại, mọi người trở thành vô sản. Đi chân đất. Vôrừng lao động cắt tranh, chặt cây, cuốc đất cũng bằng đôi chân trần trong lúc giầy dép họ tịch thu chất đống.
Bệnh hoạn không có một viên thuốc. Trong lúc thuốc của anh em họ lấy đi đâu mất. Thức ăn trại cung cấp là cơm gạo mục, khoai mì và măng rừng nấu với muốị Trong lúc thức ăn anh em họ đem cho cán bộ ăn riêng. Tốại ngủ trơ thân cho muỗi đốt. Trong lúc mùng mền của anh em họ chất một núi trong kho không cho sử dụng. Sốt rét, vì muỗi Kà Tót là loại sốt rét ác tính kinh người, giết người nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn đạn AK, nên sốt rét đã thay mặt đảng, kẻ chiến thắng, hành hạ tù tàn binh không tấc sắt...
Những người cộng sản đã coi chúng tôi, những người Việt Nam đồng loại, những người tù, những người lính thua trận... không bằng một con vật. Chết! Lệnh đem xác ra vùi ở một xó rừng! Đói, kietầ sức, bệnh hoạn, sốt rét... đã giết không biết bao nhiêu anh em mà VC không cần bắn một viên đạn! Tôi đã sống sót, không bị bỏ thây trong rừng Kà Tót. Không hiểu tại sao!
3.Phải chi anh đừng về trình diện...
Đại úy Nguyễn Văn Trò thuộc tiểu khu Bình Thuận đã từng bị VC treo giá vì những chiến công của anh trước 1975. Anh không bị VC bắt tại quê nhà, Anh đã biết sợ.
Anh trốn vào Sài Gòn trước khi Phan Thiết lọt vào tay VC ngày 19/4/1975. Anh ở Sài Gòn cho mãi đến cái ngày tướng VC Trần Văn Trà vào ngồi chỗ cái ghế ông Thiệu trong dinh Độc Lập cũ, ngày ngày nghe đài Sài Gòn VC phát lời "khuyến dụ" 10 điều 7 điểm của MTGPMN, của tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, về chính sách khoan hồng của "cách mạng". Anh nhớ nhà, nhớ vợ con, nhớ và theo lời tướng Trần Văn Trà để lên xe đò về quệ Anh đã về chỗ chết mà anh không biết.
Anh về Phan Thiết để hôm sau trình diện. Xuống xe về gặp vợ con không đầy mấy tiếng đồng hồ, xe jeep của quân quản VC chở bộ độiVC đến bốc anh. Hôm sau, xác anh bị vứt trên một bờ suối cạn ở Phú Bình, phía Tây Bắc, cách thành phố Phan Thiết khoảng 8 cây số. Anh đã bị hành quyết bằng búa vỡ sọ. Cộng sản cũng không tốn một viên đạn. Mấy ngày sau gia đình tìm được xác anh, mang về thành phố tẩm liệm. Tiếng khóc tức tưởi của thân nhân lại bị VC dập tắt:
" Cấm khóc! Hắn là tên có nợ máu với nhân dân! Không được khóc! Nghe chưa!"
Nỗi kinh hoàng kia nối tiếp nỗi kinh hoàng nọ. Tiếng khóc của Mẹ anh, của vợ anh, bên quan tài Trò im bặt:
" Ai cho phép thờ tấm hình thằng đại úy ngụy trên bàn thờ? Hắn là tên phản quốc, hắn có nợ máu với nhân dân! Dẹp!"
Tấm hình mang ba bông mai của Trò phải đem xuống. Và người quả phụ bất hạnh phải đem hình chồng vào dấu trong phòng ngủ của nàng. Người đàn bà khốn khổ đó là bạn học cùng lớp với kẻ viết lại mấy dòng nàỵ
4.Bàn tay máu của Tiểu Đoàn 307 VC: vụ thảm sát tại làng Tân Lập, Xuân Lộc, Long Khánh
Đây là phần chính của bài viết nhân vụ tà quyền Hà Nội làm ồn ào chuyện gọi là "thảm sát ở làng Thạnh Phong, Kiến Hòạ"
Sáng ngày 22/4/1975, sau khi Sư Đoàn 18BB của tướng Lê Minh Đảo được lệnh bỏ ngỏ Long Khánh, các đơn vị Nghĩa Quân và Địa Phương Quân Việt Nam Cộng Hòa quanh Xuân Lộc tức tốc rời bỏ vị trí trước áp lực cuả ít nhất là 3 sư đoàn Bắc quân chuẩn bị tràn vàọ Trong cuộc rút quân vội vàng đó, các đơn vị Nghĩa Quân và Địa Phương Quân thuộc xã Tân Lập, Xuân Lộc đã bỏ sót lại một số dây mìn Claymore tại các vị trí án ngữ.
Gần trưa 22/4, cánh quân của Tiểu Đoàn 307 tràn qua Tân Lập và một đơn vị của sư đoàn này đã vướng mìn. Số thương vong không biết cụ thể. Không biết do chủ trương trước để trả thù những thiệt hại nặng nề khi chạm súng với Sư Đoàn 18BB+ các đơn vị Tiểu Khu Long Khánh, hay vì vụ vướng mìn ở xã Tân Lập, Bắc quân đã tàn sát hơn một nửa dân số của xã Tân Lập, bất kể già trẻ, đàn ông hay đàn bà...
Bắc quân đã hành động ra saỏ Họ đã bắt tất cả những người còn lại trong xã Tân Lập, bất kể lớn bé, hai tay đưa lên trời, quỳ xuống và nằm sấp mặt xuống đất hàng dọc dài trên đường đất. Và sau đó họ đã dùng AK bắn vỡ sọ từng lớp người, họ tàn sát hầu như tất cả mọi người trong tay họ. Máu thịt, xương da tung tóe, máu đỏ tràn xuống rảnh như mưa tuôn trong một ngày trời không mưạ Sau khi tàn sát xong những người bị bắt sống, Bắc quân lùng sục thôn kế tiếp. Họ đã bất chấp sự van xin của đồng bào trong cơn kinh hoàng, run rẩỵ Họ bắn AK và tung lựu đạn xuống các hầm tránh đạn đầy nhóc đàn bà, trẻ em , người già... trong đợt tàn sát ngay sau đó.
Điều trớ trêu là xã Tân Lập giáp ranh bìa rừng, đa số làm nghề rẩy và có rất nhiều gia đình có liên hệ, tiếp tế cho VC, kể cả nhiều gia đình theo du kích VC. Nhiều người trong số này cũng bị tàn sát trong cơn điên máu thù của Bắc quân. Theo những người còn sống sót và những đồng bào ở xã lân cận, cộng sản đã tàn sát hơn một nửa dân số xã Tân Lập vào ngày 22/4/1975, tức gần khoảng 600 người lớn bé.
Vì số người bị bắn chết quá nhiều, xương thịt vỡ nát chồng lấp nhau, cộng sản đã lấy xe ủi đất của các công ty làm rừng cao su đào hố và ủi xác đồng bào vào những mồ chôn tập thể. Mãi về sau này, mồ chôn vĩ đại đó vẫn còn ở Tân Lập.
Cũng cần viết ra thêm một trường hợp nữa: Trung uý Phạm Văn Kính/ PCK Trưởng Tân Lập thoát được vô Sài Gòn. Sau cả tháng nằm nghe đài Sài Gòn VC phát lời chiêu dụ 10 điều 7 điểm của tướng VC Trần Văn Trà, giống trường hợp Đại Úy Trò ở trên, anh về xã nhà trình diện để sống gần gia đình sau chiến tranh. Anh mơ hoà bình. Anh đã bị VC bắt và đập đầu tại Tân Lập.Làm sao cộng sản có thể phủi tay được khi vụ tàn sát này được đưa ra ánh sáng. 26 năm trôi quạ Bao nhiêu oan ức, bao nhiêu oan hồn vẫn còn chôn kín trong khối kinh hoàng dưới bóng cờ đỏ.
Hải Triều
Bảo Định
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, một vụ thảm sát không kém phần dã man do chính bọn Cộng sản xâm lăng Bắc Việt (cũng người Việt) đã thực hiện với chính người Việt (thường dân vô tội Miền Nam Việt Nam mà chúng xem là ngụy dân) với con số trên 183 nạn nhân mà tất cả là đàn bà, trẻ con và người già cả.
Sau khi biết chắc chắn đơn vị cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, Tiểu 2/43, Sư đoàn 18 Bộ Binh đã triệt thoái khỏi trận địa Xuân Lộc, rời căn cứ hõa lực Núi Thị, đang di chuyển trong rừng cao su, gần Ấp Núi Đô, hướng về Long Giao để theo LTL.2 đi Bà Rịa, các đơn vị của Sư đoàn 341 quân Cộng sản xâm lăng Bắc Việt, thuộc Quân đoàn IV của Tướng Hoàng Cầm, được lệnh tiến vào tiếp thu các làng xã từ đèo Mẹ Bồng Con, dọc theo QL.1 đến Ngã Ba Cua Heo, cửa ngỏ đi vào Thị xã Xuân Lộc từ hướng Tây.
Dù biết Xuân Lộc đã bị bỏ ngỏ, nhưng Cộng quân vẫn e dè, thận trọng trong lúc tiến quân. Đơn vị tiến vào xã Tân Lập, một xã nằm ngay sát phía nam đường xe lửa, cách căn cứ Núi Thị của Tiêu đoàn 2/43 lối 3 cây số về hướng Tây-Nam, cách Thị xã Xuân Lộc lối 5.5 cây số về hướng Tây, tọa độ 392-082, đã vướng phải mìn claymore do các chiến sĩ Nghĩa quân gài. Mìn nổ đã làm cho một số cán binh cộng sản chết và bị thương. Phản ứng lại trước kẻ thù vô hình - vì tất cả các đơn vị của QLVNCH, kể cả Nghĩa quân đã được lệnh triệt thoái khỏi Xuân Lộc từ lúc 7 giờ tối ngày hôm trước, chỉ còn lại Tiểu đoàn 2/43 thì cũng đã rời Núi Thị hồi 5 giờ sáng - bọn cộng sản xâm lược nổ súng đồng loạt vào xã. Những tràn đạn tiểu liên AK47, B40, B41 bắn xối xả vào dân làng. Trớ trêu thay, những người dân này bị kích động, bị xúi dục hay bị dọa nạt bởi những kẻ nằm vùng đang ra đứng trước nhà để “hoan hô bộ đội giãi phóng”. Nhưng đáp lại là những tràn đạn dã man, giết người. Chúng ồ ạt tiến chiếm mà không gặp bất cứ một sức kháng cự nào. Tên chỉ huy ra lệnh lùa dân làng tập trung tại một bãi đất trống. Chúng bắt để tay trên đầu, nằm úp mặt xưống mặt đất rồi cho lệnh bộ đội “cụ Hồ” hay “bộ đội giãi phóng” của nó “giãi phóng” tất cả những ai chúng bắt được về bên kia thế giới. Những người còn chưa kịp chết vì đạn thì nó cho dùng lưởi lê đâm chém cho đến chết mới thôi. Những tên du kích, những tên nằm vùng đi theo “bộ đội giãi phóng” phải năn nỉ tên chỉ huy mãi cuộc bắn giết mới tạm ngưng. Vi trong số đồng bào bị giết hại đó có thân nhân của chúng. Con số tử vong đếm được trên 183 nạn nhân. Tất cả được lùa xuống hố và chôn tập thể. Hiện nay mồ chôn tập thể đó vẫn còn tồn tại tại xã Tân Lập, Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh.
Vụ thảm sát Mỹ Lai dù ban đầu được bao che, nhưng cuối cùng, chỉ 1 năm sau đã được đưa ra ánh sang. Những quân nhân liên quan đều bị đưa ra tòa và bị trừng phạt. Báo chí Mỹ và thế giới làm rùm ben câu chuyện này. Đó là điều tự nhiên. Kẻ làm ác phải đền tội. Chúng ta không thể bao che tội ác. Nhưng trước đó mấy tháng, đã xảy ra một vụ thảm sát rất rùng rợn và rất dã man, đã làm cho hàng ngàn thường dân vô tội bị chết thảm bằng súng AK47, B40, B41, lựu đạn, dao găm, mả tấu, bị búa đánh vào đầu, thậm chí bị chôn sống trong những hố chôn tập thể. Đó là vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế. Vụ thảm sát này do bọn Việt cộng và bọn Cộng sản xâm lược Bắc Việt chủ trương. Trong những ngày chiếm đóng cố đô, chúng đã lùa đi hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội về phía nam hoặc lên rừng để rồi giết sạch bằng nhiều phương thức từ hiện đại (súng) đến những phương tiện dã man thô sơ như búa, dao găm và mả tấu. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ phản chiến đã nói lên được một phần nào cảnh thây người nằm la liệt rải rác khắp đó đây tại Huế trong cái Tết đau thương đó:
“Xác người nằm bơ vơ
dưới mái hiên chùa
trong giáo đường thành phố
trên thềm nhà hoang vu…”
(Bài ca dành cho những xác người - Trịnh Công Sơn)
“Chiều đi lên đồi cao
hát trên những xác người.
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn…
bên khu vườn, một người mẹ ôm xác đứa con.
“Chiều đi ra Bãi Dâu
hát trên những xác người.
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá…
những hố hầm, đã chôn vùi thân xác anh em…”
(Hát trên những xác người – Trịnh Công Sơn)
Nhưng tên chỉ huy trực tiếp là Đại tá Việt cộng Lê Minh cùng những tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Tường và em là Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân và nhiều tên khác vẫn còn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, mặc dù bọn chúng đã sát hại hơn 5 ngàn thường dân vô tội, tức con số nạn nhân nhiều gấp 30 lần vụ thảm sát Mỹ Lai; và tàn bạo, dã man gấp ngàn lần. Không những thế, chúng còn hãnh diện là có công lớn với “cách mạng”! Vậy mà báo chí phương Tây và những kẻ phản chiến đã không làm lớn chuyện này, nếu không muốn nói là họ đã cố tình bỏ qua.
ngay sau khi toàn bộ lực lương của Sư đoàn 18 BB và các đơn vị tham dự trận Xuân Lộc vừa triệt thoái. Báo chí phương Tây đã đề cập nhiều về trận chiến tàn khốc này, nhưng rất anh dũng của QLVNCH. Nhưng không một ai nói đến vụ thảm sát dã man đã xảy ra tại một xã chỉ cách Xuân Lộc hơn 5 cây số. Lần đầu tiên cách đây vài năm, Jay Veith, tác giả tập tài liệu “Fighting Is An Art” viết về những trận đánh của Sư đoàn 18 BB từ Định Quán bắt đầu từ trung tuần tháng 3 năm 1975 đến trận cuối cùng 12 ngày đêm từ 8 tháng 4 đến 21 tháng 4 năm 1975, có hỏi tôi về câu chuyện này. Nhà văn Hãi Triều bên Canada cũng có đề cập về vụ này. Cách đây không lâu, một người bạn của tôi hiện ở Xuân Lộc đã cho tôi biết đại khái như trên, không dám nói nhiều. Nhưng ký giả Mỹ Frank Snepp, ngồi tại Sài gòn, tác giả cuốn Decent Interval khi viết về trận Xuân Lộc đã cố tình nói sai sự thật, rồi Luật sư Hoàng Cơ Thụy, tác giả cuốn Việt Sử Khảo Luận ở bên Tây cứ tưởng là thật, đã đưa vào cuốn sử của ông, và Luật sư Nguyễn Văn Chức định cư tại Mỹ, không biết “mô tê ất giáp” gì cả, cứ thế trích lại: “Trực thăng đã đến bốc cái Tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của Sư đoàn 18, kể luôn Tướng Lê Minh Đảo. Có 600 người dưới quyền Đại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. (600 người ở lại đó chính là Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18 BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Chế, chứ không phải Đại tá Lê Xuân Hiếu - Đại tá Hiếu và Tướng Đảo đã di chuyển bộ trên con đường LTL2 về quận Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy cùng quân sĩ, chỉ huy cuộc triệt thoái từ 7 giờ tối ngày hôm trước - Trên đường triệt thoái, Tiểu đoàn đơn độc đi xuyên qua khu vực chiếm đóng của Sư đoàn 341 CSBV, và những căn cứ địa của Việt cộng, đã chạm súng liên tục, bị bao vây truy diệt không ngừng, nên bị thiệt hại khá nặng, nhưng không quá bi thảm như các tác giả trên đã nói. Và cuối cùng cũng ra tới Long Thành, tỉnh Phước Tuy để được xe đưa về căn cứ Long Bình, tỉnh Biên Hòa. Riêng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và 27 quân sĩ bị thất lạc trong rừng cũng đã được trực thăng bốc về 4 ngày sau).
Ký giả Frank Snepp với cương vị của ông ta lúc đó hẳn có biết vụ thảm sát này, nhưng đã lờ đi. Còn cái anh chàng ký tên là Hà Nhân Văn, nghe nói là Cao Thế Dung, quân sư của Nguyễn Hữu Chánh, khoe khoan chỉ đọc tài liệu của Việt cộng về trận Xuân Lộc, đã xuyên tạc, viết lếu láo về cuộc lui binh của Sư đoàn 18 BB, mà cả địch và bạn đều công nhận là rất thành công. Câu nói để đời của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
“Đừng nghe những gì cộng sản nói,
Hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Nhưng Hà Nhân Văn đã tin vào tài liệu do Việt cộng viết - Việt cộng nói láo để che đậy thảm bại chua cay mà lần đầu tiên chúng gặp phải trong 55 ngày đêm xâm lươc miền Nam. Chúng tiến quân như thế chẻ tre. Văn Tiến Dũng, tên Đại tướng chỉ huy đoàn quân xâm lược Bắc Việt đã từng khoác lác: “cán bộ tham mưu đã không kịp vẽ bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”, nhưng khi đụng phải Sư đoàn 18 BB tại Xuân Lộc thì lại phải than: “Mặt trận Xuân Lộc đã ác liệt và đẩm máu từ những ngày đầu…” – Vì một mưu đồ nào đó, Hà Nhân Văn đã nói sai sự thật về Sư đoàn 18 BB và vị chủ soái là Tướng Lê Minh Đảo. Luật sư Nguyễn Văn Chức, một nhà trí thức, nhưng lại rất gà mờ đi tin những gì do ký giả Mỹ ngồi tại Sài gòn trong phòng lạnh, uống rượu whisky, tưởng tượng rồi viết lếu láo. Nhưng tất cả đã cố tình lờ đi vụ thảm sát Tân Lập, một vụ thảm sát dã man và tàn bạo hơn nhiều so với vụ thảm sát Mỹ Lai.
Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ khi vụ thảm sát Tân Lập xảy ra. Nhưng bọn Việt cộng vẫn dấu kín. Người chết thì không thể sống lại. Nhưng những tên hung thủ vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thậm chí còn được tuyên dương là anh hùng quân đội Nhân dân vì đã giết được nhiều Mỹ - Ngụy, mà thực tế chỉ là những người dân vô tội. Dù bây giờ chúng ta không làm được gì, nhưng cần thiết phải nói lên cho mọi người biết. Biết để mà ghê tởm, để mà xa lánh chúng, để đừng có ảo tưởng gì về chúng. Chứ đừng như ai cứ chịu đấm ăn xôi, nhưng sợ rằng xôi lại hỏng, và chỉ làm trò cười cho thiên hạ!
Bảo Định
Hố chôn người ám ảnh
Trần Đức Thạch
Cựu phân đội trưởng trinh sát Cộng Sản
Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 - Quân đoàn 4
“… sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc …”
...Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. Ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ. Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa.
- Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!
Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.
Tôi quát:
- Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.
Mâý ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:
- Anh ơi! đây là lệnh.
- Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!
- Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
- Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!
Thấy tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi giật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh:
- Ai bắn đấy?
- Đại đội phó Hường đấy anh ạ!
- Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi bị sốc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì? Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:
- Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!
- Không lo, có tôi đi cùng!
Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:
- Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.
Thế là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý như vậy. Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ: “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc? Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?”
Công việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảmgiác tội lỗi. Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn. Nghê buốn rầu nói với tôi:
- Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.
- Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này.
Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4 thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó như thế nào hay để nguyên vậy? Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình dung việc làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác. Không! Người dân ấp Tân Lập sẽ khắc vào xương tuỷ câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy chưa thể phải nhoà được. Còn những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa có lẽ họ cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng sau này chiến thắng. Ý nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương này.
Sau ngày giải phòng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người, mặt tái mét:
- Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả nút.
Bạn tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ Hồ khi nghĩ tới vụ thảm sát ở ấp Tân Lập...
Thời gian trôi, tôi từ một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải nói . Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng khuyên “Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc.
Trần Đức Thạch
Cựu phân đội trưởng trinh sátCộng Sản
Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 - Quân đoàn 4